Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 20 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 04 » 

KINH TẠP A-HÀM
(雜阿含經)

Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Hòa Thượng THÍCH THANH TỪ

Mục Lục

KINH SỐ 105

 

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú tại thành Vương Xá, trong Vườn Trúc Ca-lan-đà. Bấy giờ, có ngoại đạo xuất gia tên Tiên-ni đi đến chỗ Phật, cung kính chào hỏi, rồi ngồi qua một bên và bạch Phật:
– Thưa Thế Tôn, ngày hôm trước, các Sa-môn hoặc Bà-la-môn, hoặc Giá-la-ca cũng tụ tập tại giảng đường Hy Hữu, khen ngợi như sau: “Phú-lan-na Ca-diếp đứng đầu đại chúng với năm trăm đệ tử vây quanh, trong ấy có người cực thông minh, có người căn cơ đần độn, đến khi họ chết đều không nói họ sẽ sanh vào chỗ nào. Lại có Mạt-già-lê Cù-xá-lê tử là người lãnh đạo đại chúng gồm năm trăm đệ tử vây quanh. Các đệ tử của ông ấy có kẻ thông minh, cũng có kẻ căn cơ đần độn, đến khi họ chết đều không nói họ sẽ sanh về nơi nào. Như thế Tiên-xà-na-tỳ-la-chi tử, A-xà-đa-xi-xá-khâm-bà-la, Ca-la-câu-đà-ca-chiên-diên, Ni-kiền-đà-nhã-đề tử, v.v... mỗi vị đều có năm trăm đệ tử vây quanh cũng như trước. Thưa Sa-môn Cù-đàm, bấy giờ cũng chính trong lời biện luận kia, họ nói: “Sa-môn Cù-đàm là vị lãnh đạo đại chúng. Các đệ tử của Ngài khi có người mạng chung, liền nói trước sẽ sanh chỗ này, sanh chỗ kia. Lúc đầu tôi sanh nghi, vì sao Sa-môn Cù-đàm được pháp như vậy?”
Phật bảo Tiên-ni:
– Ông chớ sanh nghi. Vì có mê lầm nên có nghi hoặc. Tiên-ni nên biết: Có ba hạng thầy. Thế nào là ba hạng? Có một hạng thầy thấy đời hiện tại chân thật là ngã, nói ra theo cái đã biết mà không thể biết việc sau khi chết. Đó gọi là hạng thầy thứ nhất xuất hiện ở thế gian. Lại nữa, Tiên-ni, có một hạng thầy thấy đời hiện tại chân thật là ngã, sau khi chết rồi cũng thấy là ngã, nói ra theo điều mình biết. Lại nữa, Tiên-ni, có một hạng thầy không thấy đời hiện tại chân thật là ngã, cũng không thấy sau khi chết rồi chân thật là ngã. Này Tiên-ni, hạng thầy thứ nhất thấy đời hiện tại chân thật là ngã, nói ra theo sự hiểu biết này, đó gọi là đoạn kiến. Hạng thầy thứ hai thấy đời này đời sau chân thật là ngã, nói ra theo sự hiểu biết này, đó gọi là thường kiến. Hạng thầy thứ ba không thấy đời hiện tại chân thật là ngã, sau khi chết rồi cũng không thấy là ngã, đó là Như Lai, Đẳng Chánh Giác nói, hiện tại dứt ái, lìa dục, được Niết-bàn.
Tiên-ni bạch Phật:
– Thưa Thế Tôn, con nghe Thế Tôn nói càng thêm sanh nghi.
Phật bảo Tiên-ni:
– Thật đáng thêm nghi, vì sao? Vì đây là điều sâu xa khó thấy, khó biết, cần phải quán sát rõ ràng, sâu xa, vi diệu mới thấu đáo, bậc thông tuệ mới hiểu được, còn chúng sanh tầm thường chưa có thể hiểu biết được. Vì sao? Bởi vì chúng sanh mờ tối thấy biết có khác, sức chịu đựng khác, tìm cầu khác, sự mong muốn khác vậy.
Tiên-ni bạch Phật:
– Thưa Thế Tôn, con ở nơi Thế Tôn được lòng tin trong sạch. Xin Thế Tôn vì con thuyết pháp, khiến cho con ở ngay đây tuệ nhãn được thanh tịnh.
Phật bảo Tiên-ni:
– Ta sẽ vì ông giảng nói, theo chỗ ưa thích của ông.
Phật bảo Tiên-ni:
– Sắc là thường hay vô thường?
Đáp:
– Là vô thường!
Thế Tôn lại hỏi:
– Nếu vô thường là khổ chăng?
Đáp:
– Là khổ!
Thế Tôn lại hỏi Tiên-ni:
– Nếu vô thường, khổ, là pháp biến dịch, đa văn Thánh đệ tử có nên ở trong đó thấy là ngã, khác ngã, hoặc ở trong nhau chăng?
Đáp:
– Thưa Thế Tôn, không!
– Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.
Lại hỏi:
– Thế nào Tiên-ni, sắc là Như Lai chăng?
Đáp:
– Thưa Thế Tôn, không!
– Thọ, tưởng, hành, thức là Như Lai chăng?
Đáp:
– Thưa Thế Tôn, không!
Lại hỏi Tiên-ni:
– Khác sắc có Như Lai chăng? Khác thọ, tưởng, hành, thức có Như Lai chăng?
Đáp:
– Thưa Thế Tôn, không!
Lại hỏi Tiên-ni:
– Trong sắc có Như Lai chăng? Trong thọ, tưởng, hành, thức có Như Lai chăng?
Đáp:
– Thưa Thế Tôn, không!
Lại hỏi:
– Trong Như Lai có sắc chăng? Trong Như Lai có thọ, tưởng, hành, thức chăng?
Đáp:
– Thưa Thế Tôn, không!
Lại hỏi:
– Chẳng phải sắc, chẳng phải thọ, tưởng, hành, thức có Như Lai chăng?
Đáp:
– Thưa Thế Tôn, không!
Phật bảo Tiên-ni:
– Các đệ tử của Ta, nghe pháp Ta nói, không hiểu hết nghĩa lý để khởi tâm hiện quán về mạn. Vì không hiện quán nên mạn ấy không dứt. Vì mạn không dứt, nên khi xả bỏ ấm thân này rồi lại cùng với ấm thân khác tiếp tục sanh. Vì thế, này Tiên-ni, Ta sẽ ký thuyết những người đệ tử này sau khi chết sẽ sanh vào các chỗ kia. Vì sao? Vì họ còn kiêu mạn.
Này Tiên-ni, các đệ tử của Ta, nghe lời Ta nói, hiểu được nghĩa lý. Các vị ấy đối với các mạn đã được hiện quán, vì được hiện quán nên các mạn dứt. Vì các thứ mạn dứt nên khi chết rồi lại không nối tiếp. Này Tiên-ni, Ta không nói những người đệ tử ấy bỏ ấm thân này rồi sẽ sanh ở những nơi kia. Vì sao? Vì không nhân duyên có thể ký thuyết được. Muốn Ta ký thuyết, Ta sẽ ký thuyết rằng: “Người kia khi dứt các ái dục, vĩnh viễn lìa hữu kiết, chánh ý giải thoát, cùng tận mé khổ.” Ta từ trước đến nay thường nói đến mạn, quá mạn, tập mạn, sanh mạn khởi; nếu đối với kiêu mạn này quán sát liên tục thì các khổ không sanh.
Lúc Phật nói pháp này, tu sĩ ngoại đạo Tiên-ni xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Bấy giờ, Tiên-ni thấy pháp, đắc pháp, dứt hết nghi hoặc, biết không do người khác mà được, độ không do người khác mà được. Ở trong Chánh pháp, tâm vị ấy được vô úy. Vị ấy từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay bạch Phật:
– Thưa Thế Tôn, con có thể ở trong Chánh pháp xuất gia tu Phạm hạnh chăng?
Phật bảo Tiên-ni:
– Ông có thể ở trong Chánh pháp được xuất gia, thọ giới Cụ túc làm Tỳ-kheo.
Sau khi Tiên-ni được xuất gia, một mình ở nơi vắng vẻ tu hành, không buông lung, tự suy nghĩ lý do khiến người dòng họ quý phái cạo bỏ râu tóc, chánh tín, không nhà, xuất gia học đạo, tu hành Phạm hạnh, thấy pháp, tự biết tác chứng: “Sự sanh của ta đã dứt, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn thọ thân sau”, đắc quả A-la-hán.
Sau khi nghe Phật dạy xong, Tiên-ni vui mừng, cung kính vâng theo.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.