Tam tạng Thánh điển PGVN 21 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 05 »
TRUNG TÂM DỊCH THUẬT TRÍ TỊNH
QUYỂN 4
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật du hành trong nhân gian ở nước Câu-tát-la rồi đi dần đến vườn Cấp Cô Độc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, tại nước Xá-vệ có Bà-la-môn Kiêu Mạn[2] đang cư ngụ ở đó. Dòng họ cha mẹ của ông ta thảy đều trong sạch, không chút tì vết đáng để bàn tán, bảy đời nối dõi thảy đều trong sạch. Ông là bậc thầy của hàng Bà-la-môn, ngôn luận thông đạt, các kinh điển, luận ký với hàng vạn tên gọi thảy đều biết rõ, hiểu pháp hơn kém, phân biệt chữ nghĩa, nhân duyên nguồn gốc mọi việc xa xưa đều tường tận,[3] nhớ kỹ rồi tụng đọc từng câu, tướng mạo đoan chánh. Do tự cao về huyết thống, tự cao về dòng họ, tự cao về tướng mạo, tự cao về sự thông minh, tự cao về sự giàu sang nên ông không kính trọng cha mẹ, các bậc Tôn túc, Sư trưởng.
Khi nghe tin Sa-môn Cù-đàm đang du hóa trong nhân gian ở nước Câu-tát la rồi dần đi đến vườn Cấp Cô Độc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ, ông bèn nghĩ rằng: “Ta sẽ đến chỗ của Sa-môn Cù-đàm kia. Nếu Sa-môn Cù-đàm có nói điều gì thì ta sẽ cùng bàn luận; nếu Sa-môn Cù-đàm không nói gì thì ta sẽ im lặng trở về.”
Bấy giờ, Bà-la-môn Kiêu Mạn cưỡi xe ngựa trắng cùng với các thiếu niên Bà-la-môn trước sau đi theo, cầm dù cán vàng, tay ôm bình bát vàng, đi đến gặp Thế Tôn. Khi đến trước cửa vườn, Bà-la-môn xuống xe đi bộ.
Lúc ấy, Thế Tôn đang thuyết pháp cho đại chúng vây quanh lắng nghe, không để ý đến Bà-la-môn Kiêu Mạn. Bà-la-môn Kiêu Mạn liền suy nghĩ: “Sa môn Cù-đàm không để ý đến ta, thôi ta đi về.”
Ngay khi đó, Thế Tôn biết tâm niệm của Bà-la-môn Kiêu Mạn nên Ngài bèn nói kệ:
Kiêu Mạn đã đến đây,
Bất thiện, mạn thêm tăng,
Nếu đến vì đạo lý,
Nghĩa ấy hãy vun bồi.
Lúc ấy, Bà-la-môn Kiêu Mạn nghĩ thầm: “Sa-môn Cù-đàm đã biết tâm ta”, rồi ông muốn sửa mình kính lễ.
Khi ấy, Thế Tôn bảo Bà-la-môn Kiêu Mạn:
– Thôi! Thôi! Không cần làm lễ, tâm tịnh là đủ rồi.
Bấy giờ, khắp cả đại chúng đều đồng thanh khen ngợi:
– Lạ thay! Thế Tôn, bậc Đại Đức, Đại Lực. Hôm nay, Bà-la-môn Kiêu Mạn này do tự cao về huyết thống, tự cao về dòng họ, tự cao về tướng mạo, tự cao về thông minh, tự cao về sự giàu sang nên không kính trọng cha mẹ, các bậc Tôn túc, Sư trưởng. Thế mà ngày nay, ông ta đến trước Sa-môn Cù-đàm, khiêm hạ, từ tốn, muốn lễ sát chân Ngài!
Khi ấy, Bà-la-môn Kiêu Mạn ở trước đại chúng bảo họ im lặng rồi nói kệ:
Thế nào là kiêu mạn?
Thế nào là cung kính?
Làm sao khéo an ủi?
Làm sao khéo cúng dường?
Thế Tôn nói kệ đáp:
Với cha mẹ, anh em
Hòa thượng, bậc Sư trưởng,
Cùng các bậc đáng kính,
Chẳng nên sanh kiêu mạn.
Phải một lòng cung kính,
Khiêm hạ và hỏi thăm,
Hết lòng mà phụng sự,
Bày các việc cúng dường.
Bậc La-hán lậu tận,
Đã lìa tham, sân, si,
Chánh trí, được giải thoát,[4]
Dẹp sạch tâm kiêu mạn,
Với bậc Hiền thánh này,
Chắp tay cúi đầu lễ.
Bấy giờ, Thế Tôn thuyết pháp, mở bày, dạy bảo, khích lệ, khiến cho Bà-la môn Kiêu Mạn hoan hỷ.[5]
Như chư Phật, đức Thế Tôn tuần tự thuyết pháp, nói về công đức bố thí, trì giới, sanh thiên, nói về vị ngọt và tai họa của ái dục, về phiền não, về thanh tịnh, về giải thoát, về xa lìa, nói rộng về những pháp thanh tịnh như thế.Giống như chiếc áo trắng sạch không một vết nhơ thì rất dễ nhuộm màu, Bà-la-môn Kiêu Mạn ngay tại chỗ ngồi hiểu rõ bốn Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo rồi chứng ngộ chân lý.[6] Bấy giờ, Bà-la-môn Kiêu Mạn thấy pháp, đắc pháp, biết pháp, thâm nhập pháp,[7] vượt các nghi hoặc, không do người khác mà được giải thoát, ở trong Chánh pháp được vô sở úy, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, chắp tay đảnh lễ rồi bạch Phật:
– Hôm nay, con có thể được ở trong Chánh pháp xuất gia, thọ giới Cụ túc chăng?
Phật bảo Bà-la-môn Kiêu Mạn:
– Hôm nay, ông có thể ở trong Chánh pháp xuất gia, thọ giới Cụ túc.
Bà-la-môn liền được xuất gia, một mình lặng lẽ suy tư về lý do khiến người thiện nam cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa, với niềm tin chân chánh, rời xa gia đình, xuất gia học đạo... rồi đắc quả A-la-hán, tâm giải thoát hoàn toàn.[8]
***
Chú thích:
[1] Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tạp. 雜 (T.02. 0099.92. 0023c18). Tham chiếu: Biệt Tạp. 別雜 (T.02. 0100.258. 0463c27); S. 7.15 - I. 177.
[2] Kiêu Mạn Bà-la-môn (憍慢婆羅門). P. Mānatthaddho nāma brāhmaṇo (người Bà-la-môn tên là Mānatthaddha). Biệt Tạp. 別雜 (T.02. 0100.258. 0464a07) ghi là Cực Mạn Ma-nạp (極慢摩納).
[3] Theo chú thích của bản Đại Chánh, mười một chữ: 字, 悉知萬事久遠本末因緣 được bổ chính do y cứ vào bản Nguyên.
[4] Nguyên tác: Thiện giải thoát (善解脫, suvimutta). Xem chú thích 54, kinh số 22, quyển 1, tr. 19; Tạp. 雜 (T.02. 0099.22. 0004c20).
[5] Nguyên tác: Thị, giáo, chiếu, hỷ (示, 教, 照, 喜). Cú ngữ này trong Du hành kinh 遊行經 (T.01. 0001.2. 0012b04) ghi là “thị, giáo, lợi, hỷ” (示, 教, 利, 喜); Thất xa kinh 七車經 (T.01. 0026.9. 0429c28) ghi là “khuyến phát, khát ngưỡng, thành tựu, hoan hỷ” (勸發, 渴仰, 成就, 歡喜). Nghĩa là mở bày (示, sandasseti), dạy bảo (教, samādapeti), khích lệ (鼓勵, samuttejeti) và khiến được hoan hỷ (使歡喜, sampahaṃseti). Ngài Huyền Trang dịch cú ngữ này là “thị hiện, giáo đạo, tán lệ, khánh hỷ” (示現, 教導, 讚勵, 慶喜). Ngài Nghĩa Tịnh dịch là “khai thị, khuyến đạo, tán lệ, khánh hỷ” (開示, 勸導, 讚勵, 慶喜).
[6] Nguyên tác: Vô gián đẳng (無間等, abhisamaya), chỉ cho việc tỏ ngộ hoàn toàn bốn Thánh đế rồi ngay đó chứng đắc quả vị Dự lưu.
[7] Nguyên tác: Kiến pháp, đắc pháp, tri pháp, nhập pháp (見法, 得法, 知法, 入法). P. diṭṭhadhammo pattadhammo viditadhammo pariyogāḷhadhammo.
[8] Nguyên tác: Thiện giải thoát (善解脫, suvimutta). Xem chú thích 54, kinh số 22, quyển 1, tr. 19; Tạp. 雜 (T.02. 0099.22. 0004c20).
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.