Viện Nghiên Cứu Phật Học

QUYỂN 3

 

60. KHÔNG CÒN ƯA THÍCH[1]

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Có năm thủ uẩn. Những gì là năm? Đó là sắc thủ uẩn, thọ thủ uẩn, tưởng thủ uẩn, hành thủ uẩn và thức thủ uẩn.

Lành thay! Tỳ-kheo không ưa thích sắc, không khen ngợi sắc, không chấp thủ sắc, không đắm trước sắc.

Lành thay! Tỳ-kheo không ưa thích thọ, tưởng, hành, thức; không khen ngợi thức, không chấp thủ thức, không đắm trước thức. Vì sao như vậy? Nếu Tỳ-kheo nào không ưa thích sắc, không khen ngợi sắc, không chấp thủ sắc, không đắm trước sắc thì đối với sắc không ưa thích, tâm được giải thoát.

Cũng như thế, đối với thọ, tưởng, hành, thức, vị ấy không ưa thích thức, không khen ngợi thức, không chấp thủ thức, không đắm trước thức thì đối với thức không ưa thích, tâm được giải thoát.

Nếu Tỳ-kheo chẳng ưa thích sắc thì tâm được giải thoát. Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng không ưa thích thì tâm được giải thoát, không sanh không diệt, an trú hoàn toàn nơi xả,[2] chánh niệm tỉnh giác[3]

Vị Tỳ-kheo ấy đã biết như thế, đã thấy như thế thì tất cả kiến chấp quá khứ5 được đoạn tận hoàn toàn. Tất cả kiến chấp quá khứ đã được đoạn tận hoàn toàn thì tất cả kiến chấp tương lai cũng sẽ được đoạn tận hoàn toàn. Tất cả kiến chấp tương lai đã được đoạn tận hoàn toàn thì tất cả kiến chấp quá khứ và tương lai cũng đoạn tận hoàn toàn, không còn ngăn ngại. Vì không còn gì ngăn ngại nên đối với thế gian không còn gì để chấp thủ. Vì không còn gì để chấp thủ nên cũng chẳng còn gì để mong cầu. Vì không còn gì mong cầu nên tự mình chứng ngộ Niết-bàn: “Sự sanh của ta đã dứt, Phạm hạnh đã được thành tựu, việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh.”[4]

Đức Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy đều hoan hỷ phụng hành.

***

 

Chú thích:

[1] Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tạp. 雜 (T.02. 0099.60. 0015b22). Tham chiếu: S. 22.5 - III. 13.

[2] Nguyên tác: Bình đẳng xả trụ (平等捨住). Bình đẳng (平等) tương đương Pāli là sama, ở trường hợp này đúng ra phải là sammā, nghĩa là hoàn chỉnh (完整).

[3] Nguyên tác: Chánh trí (正智).

[4] Nguyên tác: Tiền tế câu kiến (前際俱見).

 

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.