Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 20 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 04 » 

KINH TẠP A-HÀM
(雜阿含經)

Hòa Thượng THÍCH THIỆN SIÊU
Hòa Thượng THÍCH THANH TỪ

Mục Lục

KINH SỐ 57

Tôi nghe như vầy:
Một thời, Phật trú tại nước Xá-vệ, ở rừng Kỳ-đà, trong vườn Cấp Cô Độc.
Bấy giờ, Thế Tôn khoác y, ôm bát vào thành Xá-vệ khất thực. Sau đó, Ngài lại ôm y bát, không nói với chúng Tăng, không gọi thị giả, chỉ một mình không ai theo, đi về quốc độ phương Tây, du hành trong nhân gian.
Lúc ấy, ở trong rừng An-đà, có một Tỳ-kheo từ xa trông thấy Thế Tôn, không nói với chúng Tăng, không gọi thị giả, chỉ một mình không ai theo. Sau khi thấy vậy, vị ấy bèn đi đến chỗ Tôn giả A-nan, bạch với Tôn giả A-nan:
– Tôn giả biết cho, Thế Tôn không nói với chúng Tăng, không gọi thị giả, chỉ một mình không ai theo mà ra đi du hành.
Tôn giả A-nan nói với vị Tỳ-kheo ấy:
– Nếu như Thế Tôn không nói với chúng Tăng, không gọi thị giả, chỉ một mình không ai theo mà ra đi du hành thì không nên đi theo Ngài. Vì cớ sao? Ngày hôm nay Thế Tôn muốn an trụ trong tịch diệt, ít bận rộn.
Bấy giờ, Thế Tôn du hành qua phương Bắc, đến nước Bán-xà, tại tụ lạc Ba-đà, ở dưới một gốc cây bạt-đà-tát-la trong rừng có người giữ gìn.
Lúc bấy giờ, có số đông Tỳ-kheo đi đến chỗ Tôn giả A-nan, nói với Tôn giả A-nan:
– Thưa Tôn giả, ngài có nghe đức Thế Tôn hiện giờ ở đâu?
Tôn giả A-nan trả lời:
– Tôi nghe Thế Tôn đi về phương Bắc, trú ở dưới gốc cây bạt-đà-tát-la trong rừng, có người giữ gìn, thuộc tụ lạc Ba-đà nước Bán-xà.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nói với Tôn giả A-nan:
– Tôn giả nên biết, chúng tôi không được thấy đức Thế Tôn đã lâu; nếu không ngại mệt nhọc, xin Tôn giả cùng chúng tôi đi đến chỗ Thế Tôn. Xin thương xót!
Tôn giả A-nan biết đúng lúc, nên im lặng nhận lời.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan cùng số đông Tỳ-kheo, qua khỏi đêm, vào sáng sớm, đắp y, mang bát vào thành Xá-vệ khất thực, khất thực xong trở về tinh xá, xếp ngọa cụ, mang y bát, đi ra hướng Tây, du hành trong nhân gian, rồi quay về phía Bắc, đến trong rừng có người giữ gìn, thuộc tụ lạc Ba-đà nước Bán-xà. Bấy giờ, Tôn giả A-nan cùng với số đông Tỳ-kheo xếp y bát, rửa chân xong, đi đến chỗ đức Thế Tôn, đầu mặt đảnh lễ dưới chân Phật, ngồi xuống một bên.
Bấy giờ, đức Thế Tôn vì số đông Tỳ-kheo thuyết pháp, chỉ dạy điều lợi ích an vui.
Khi ấy, ở giữa chúng có một Tỳ-kheo nghĩ rằng: “Biết thế nào, thấy thế nào để mau được dứt sạch lậu hoặc?”
Bấy giờ, đức Thế Tôn biết điều suy nghĩ trong tâm của Tỳ-kheo ấy, mới bảo các Tỳ-kheo:
– Nếu có Tỳ-kheo ở trong chúng này suy nghĩ rằng: “Biết thế nào, thấy thế nào để mau được dứt sạch lậu hoặc?” Ta đã thuyết pháp rằng: “Hãy khéo quán sát các ấm, đó gọi là bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi và tám Thánh đạo phần. Ta đã thuyết pháp như vậy, khiến quán sát các ấm, mà nay còn có thiện nam tử, không siêng năng muốn làm, không siêng năng vui thích, không siêng năng suy nghĩ, không siêng năng tin tưởng, mà tự biếng nhác, không thể tinh tấn để được dứt hết các lậu hoặc. Nếu lại có thiện nam tử, đối với pháp của Ta nói ra, quán sát các ấm, siêng năng muốn làm, vui thích, suy niệm, tin tưởng thì người đó có thể mau được dứt hết các lậu hoặc.
Kẻ phàm phu ngu si không học, đối với sắc thấy là ngã. Nếu thấy ngã thì đó gọi là hành. Hành đó lấy gì làm nhân, lấy gì làm tập khởi, do cái gì sanh và do cái gì chuyển?
Do vô minh xúc mà sanh tham ái, duyên tham ái khởi ra hành kia. Ái này lấy gì làm nhân, lấy gì làm tập khởi, do cái gì sanh và do cái gì chuyển?
Ái lấy thọ làm nhân, lấy thọ làm tập khởi, do thọ sanh và do thọ chuyển. Thọ lấy gì làm nhân, lấy gì làm tập khởi, do cái gì sanh, do cái gì chuyển?
Thọ lấy xúc làm nhân, lấy xúc làm tập khởi, do xúc sanh, do xúc chuyển. Xúc lấy gì làm nhân, lấy gì làm tập khởi, do cái gì sanh, do cái gì chuyển?
Xúc lấy sáu nhập xứ làm nhân, lấy sáu nhập xứ làm tập khởi, do sáu nhập xứ sanh và do sáu nhập xứ chuyển.
Sáu nhập xứ này là pháp hữu vi, vô thường, là pháp duyên khởi của tâm. Xúc thọ, hành thọ này cũng là pháp hữu vi, vô thường, là pháp duyên khởi của tâm.
Quán sát như vậy mà còn thấy sắc là ngã hay không thấy sắc là ngã mà thấy sắc là ngã sở; không thấy sắc là ngã sở mà thấy sắc ở trong ngã; không thấy sắc ở trong ngã mà thấy ngã ở trong sắc; không thấy ngã ở trong sắc mà thấy thọ là ngã; không thấy thọ là ngã mà thấy thọ là ngã sở; không thấy thọ là ngã sở mà thấy thọ ở trong ngã; không thấy thọ ở trong ngã mà thấy ngã ở trong thọ; không thấy ngã ở trong thọ mà thấy tưởng là ngã; không thấy tưởng là ngã mà thấy tưởng là ngã sở; không thấy tưởng là ngã sở mà thấy tưởng ở trong ngã; không thấy tưởng ở trong ngã mà thấy ngã ở trong tưởng; không thấy ngã ở trong tưởng mà thấy hành là ngã; không thấy hành là ngã mà thấy hành là ngã sở; không thấy hành là ngã sở mà thấy hành ở trong ngã; không thấy hành ở trong ngã mà thấy ngã ở trong hành; không thấy ngã ở trong hành mà thấy thức là ngã; không thấy thức là ngã mà thấy thức là ngã sở; không thấy thức là ngã sở mà thấy thức ở trong ngã; không thấy thức ở trong ngã mà thấy ngã ở trong thức; không thấy ngã ở trong thức, lại khởi đoạn kiến, hoại hữu kiến; không khởi đoạn kiến, hoại hữu kiến, mà không lìa ngã mạn. Ai không lìa ngã mạn mà lại thấy ngã, người thấy ngã đó tức là hành.
Hành ấy do nhân cái gì, tập khởi gì, do đâu sanh, do đâu chuyển? (Nói giống như trước cho đến ngã mạn). Ai biết như thế, thấy như thế thì mau được dứt sạch lậu hoặc.
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.