Tam tạng Thánh điển PGVN 21 » Tam tạng Phật giáo Bộ phái 05 »
TRUNG TÂM DỊCH THUẬT TRÍ TỊNH
QUYỂN 2
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Sắc không phải là ngã. Nếu sắc là ngã thì không thể có bệnh, khổ sanh ra nơi sắc và đối với sắc cũng không thể ước muốn nó trở nên như vậy hoặc không trở nên như vậy. Vì sắc là vô ngã cho nên có bệnh, khổ sanh ra nơi sắc và đối với sắc cũng có thể ước muốn nó trở nên như vậy hoặc không như vậy.
Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế.
Này các Tỳ-kheo! Ý thầy nghĩ thế nào, sắc là thường hay vô thường?
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, là vô thường!
– Này các Tỳ-kheo! Nếu là vô thường, có phải là khổ chăng?
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn, là khổ!
– Này các Tỳ-kheo! Nếu là vô thường, là khổ, là pháp đổi thay thì vị Thánh đệ tử đa văn có nên ở trong đó thấy sắc là ngã, khác ngã, hoặc tồn tại trong nhau chăng?
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
– Không nên, bạch Thế Tôn!
– Thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế.
Do vậy, này các Tỳ-kheo! Những gì thuộc về sắc ở quá khứ, ở tương lai hay hiện tại, hoặc trong hoặc ngoài, hoặc thô hoặc tế, hoặc đẹp hoặc xấu, hoặc xa hoặc gần thì phải quán sát chân thật hết thảy chúng đều không phải ngã, không khác ngã, cũng không tồn tại trong nhau. Đối vối thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy
Này các Tỳ-kheo! Vị Thánh đệ tử đa văn quán sát chân thật đối với năm thủ uẩn này không phải là ta, không phải của ta. Quán sát chân thật như vậy rồi[2] thì đối với các thế gian không có gì để nắm giữ; vì không có gì để nắm giữ cho nên không có gì vướng mắc; vì không có gì vướng mắc cho nên tự mình giác ngộ Niết-bàn: “Sự sanh của ta đã dứt, Phạm hạnh đã được thành tựu, việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh.”
Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy đều hoan hỷ phụng hành.
***
Chú thích:
[1] Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tạp. 雜 (T.02. 0099.33. 0007b22). Tham chiếu: Tạp. 雜 (T.02. 0099.34.
0007c13); Ngũ uẩn giai không kinh 五蘊皆空經 (T.02. 0102. 0499c05); Ngũ phần luật 五分律 (T.22.
1421.15. 0101a08); Tứ phần luật 四分律 (T.22. 1428.31. 0779a02); S. 22.59 - III. 66.
[2] Nguyên tác: Như thật quán sát (如實觀察). Theo Tạp. 雜 (T.02. 0099.32. 0007a10): Như thị chánh quán
(如是正觀). Cả hai trường hợp này có cùng cấu trúc theo văn hệ Pāli: Yathābhūtaṃ sammappaññāya
daṭṭhabba (như thật quán với chánh trí tuệ), HT. Thích Minh Châu dịch.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.