Viện Nghiên Cứu Phật Học

Quyển 1

 

27. TUẦN TỰ THỰC HÀNH THEO PHÁP (1)[1]
 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ, có vị Tỳ-kheo đi đến chỗ Phật, cúi lạy sát chân Ngài, đứng sang một bên rồi thưa:

– Như Thế Tôn dạy: “Tuần tự thực hành theo pháp.”[2] Vậy thế nào gọi là tuần tự thực hành theo pháp?

Phật bảo Tỳ-kheo:

– Lành thay! Lành thay! Có phải hôm nay thầy muốn biết ý nghĩa tuần tự thực hành theo pháp chăng?

Tỳ-kheo bạch Phật:

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn!

Phật bảo Tỳ-kheo:

– Hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ! Như Lai sẽ giảng nói cho thầy.

Này Tỳ-kheo! Đối với sắc hướng đến yểm ly, ly dục, diệt tận, đó gọi là tuần tự thực hành theo pháp. Cũng vậy, đối với thọ, tưởng, hành, thức hướng đến yểm ly, ly dục, diệt tận, đó gọi là tuần tự thực hành theo pháp.

Bấy giờ, Tỳ-kheo kia nghe Phật dạy xong, thân tâm hoan hỷ, kính lễ rồi lui ra.

***

 

Chú thích:
[1] Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tạp. 雜 (T.02. 0099.27. 0005c20). Tham chiếu: S. 22.39-42 - III. 40-1.

[2] Nguyên tác: Pháp thứ pháp hướng (法次法向, dhammānudhammappaṭipanna): Thành cú này ở Điển Tôn kinh 典尊經 (T.01. 0001.3. 0030b11) dịch là “pháp pháp thành tựu” (法法成就). Trong Tạp A-hàm, cú ngữ này còn được dịch là: 向法, 次法; 向次法; 法, 次法向; 趣法, 向法; 隨順法; 順法, 次 法; 法, 隨法行; 法次法... nghĩa là: Tuần tự thực hành theo pháp / Thực hành theo thứ lớp của giáo pháp / Thứ lớp của giáo pháp. Cú ngữ này, Tỳ-kheo Bodhi dịch là “Thực hành đúng theo giáo pháp” (practising in accordance with the dhamma).

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.