Viện Nghiên Cứu Phật Học

QUYỂN 1

 

1. VÔ THƯỜNG[1]
 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật ngụ tại vườn Cấp Cô Ðộc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

– Các thầy hãy quán sắc là vô thường. Quán như vậy gọi là quán sát chân thật.[2] Do quán sát chân thật nên phát sanh sự nhàm chán. Do nhàm chán nên hỷ và tham[3] được đoạn trừ. Do hỷ và tham được đoạn trừ nên được gọi là tâm giải thoát.[4]

Cũng vậy, các thầy hãy quán thọ, tưởng, hành, thức là vô thường. Quán như vậy gọi là quán sát chân thật. Do quán sát chân thật nên phát sanh sự nhàm chán. Do nhàm chán nên hỷ và tham được đoạn trừ. Do hỷ và tham được đoạn trừ nên được gọi là tâm giải thoát.

Như vậy, này các Tỳ-kheo! Người có tâm giải thoát nếu muốn tự thân chứng ngộ thì có thể tự thân tác chứng: “Sự sanh của ta đã dứt, Phạm hạnh đã được thành tựu, việc cần làm đã làm xong, tự biết không còn tái sanh.”

Quán vô thường, khổ, không và vô ngã cũng như vậy.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.

***

 

Chú thích:
[1] Tựa đề đặt theo nội dung kinh. Tạp. 雜 (T.02. 0099.1. 0001a06). Tham chiếu: Tạp. 雜 (T.02. 0099.188. 0049b07); S. 22.12-14 - III. 21; S. 35.155 - IV. 142.

[2] Chánh quán (正觀): Quán sát đúng như thật. Chánh (正) tương đương Pāli là sammā, nghĩa là đúng, chính xác, toàn diện.

[3] Nguyên tác: Hỷ, tham tận (喜, 貪盡). Tham chiếu: S. 22.12 - III. 21: Nandikkhayā rāgakkhayo (Hỷ được dứt trừ, tham được dứt trừ).

[4] Tham chiếu: S. 35.155 - IV. 142: Do duyệt hỷ (nandi) tiêu tận nên tham tiêu tận. Do tham tiêu tận nên duyệt hỷ tiêu tận. Do duyệt hỷ, tham tiêu tận nên tâm được gọi là khéo giải thoát (HT. Thích Minh Châu dịch).

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.