Viện Nghiên Cứu Phật Học

DẪN LUẬN KINH TRƯỜNG A-HÀM
TT.TS. THÍCH NHẬT TỪ

 

I. TỔNG QUAN KINH TRƯỜNG A-HÀM

1. Tựa đề kinh mã số

Kinh Trường A-hàm (Dīrgha Āgama, 長阿含) là tuyển tập kinh đầu tiên trong bốn tuyển tập kinh (S. catvāri-āgama, 四部阿含經, tứ A-cấp-ma, 四阿笈摩) của Kinh tạng Phật giáo Bộ phái (部派佛教). Trong tựa đề Sanskrit, “Dīrgha Āgama” được tạo thành bởi chữ “dīrgha” có nghĩa là “dài” (長) đối lập với “ngắn” (短) và chữ “āgama” thường được phiên âm là “A-cấp-ma” (阿笈摩), có nghĩa là “tuyển tập Thánh giáo” (聖教集) hay “tuyển tập các bài kinh” (經集). Tính từ “dài” trong tuyển tập kinh này chỉ mang ý nghĩa tương đối. Trên thực tế, có một số bài kinh trong Kinh Trường A-hàm có số lượng chữ ít hơn một số bài kinh trong Kinh Trung A-hàm.

Trong Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh (大正新脩大藏經),[1] Kinh Trường A-hàm thuộc A-hàm bộ (阿含部) là bản văn đầu tiên trong tập 1, gồm 149 trang. Mã số Kinh Trường A-hàm trong ấn bản CBETA tức ấn bản điện tử của Hiệp hội Phật điển điện tử Trung Hoa (中華電子佛典協會, Chinese Buddhist Electronic Text Association)[2] viết tắt là T01n0001,[3] mã số tựa đề Đại Chánh của SAT[4] là T0001_01,[5] và cách viết tắt trong TTTĐPGVNT.01. 0001.

2. Niên đại, biên tập hình thức truyền thừa

Giống như Kinh tạng Pāli của Thượng Tọa bộ (S. Sthaviravāda, P. Theravāda, 上座部) trong thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy (原始佛教) và cũng như ba tuyển tập A-hàm khác trong thời kỳ Phật giáo Bộ phái (部派佛教), Kinh Trường A-hàm được truyền thừa bằng phương thức “khẩu truyền” từ thầy sang trò (師弟口口相傳) cho đến thế kỷ I mới chính thức truyền thừa bằng văn bản (寫經傳承).

Về phương diện biên tập (結集, kết tập), có thể phân loại theo thời kỳ Phật giáo Nguyên thủy (原始佛教時代) và thời kỳ Phật giáo Bộ phái (部派佛教時代). Trong hai giai đoạn này, Kinh Trường A-hàm được xem là bản kinh tương đương với Kinh Trường bộ (Dīgha Nikāya, 長部經典) được truyền miệng từ thời kỳ biên tập kinh điển lần thứ nhất (第一次結集) với sự tham dự của 500 vị A-la-hán (五百結集)[6] trong động Thất Diệp (S. Sapta-parni-guha, P. Sattapaṇṇaguhā, 七葉窟) thuộc thành Vương Xá (S. Rajgir, P. Rājagaha, 王舍城) cho đến thời kỳ biên tập kinh điển lần thứ hai (第二次集結) với sự tham dự của 700 vị Tỳ-kheo (七百結集)[7] tại thành Tỳ-xá-ly (S. Vaiśālī, P. Vesāli, 毘舍離城), khoảng 100 năm sau khi đức Phật nhập Niết-bàn.

Nghiên cứu văn khắc Bairāṭ, các pháp khắc (法勅, pháp sắc) và văn liệu điêu khắc (刻文) trên các trụ đá (石柱)[8] trong thời đại của Vua A-dục (阿育王時代, 271-249 TTL) cho thấy chưa từng xuất hiện khái niệm “Ngũ bộ, tứ A-hàm” (五部四阿含). Do đó, chúng ta có thể suy ra rằng ít nhất đến thế kỷ III TTL, Kinh Trường A-hàm và 3 bộ kinh A-hàm khác vẫn chưa được biên tập thành văn.

Khoảng thế kỷ II TTL, cụm từ “người biết 5 bộ kinh [Pāli]” (知五部者) bắt đầu xuất hiện trong văn bia, tranh ảnh Bharhut.[9] Do đó, có thể suy ra rằng sau thời đại Đại đế A-dục không lâu, việc hệ thống kinh điển nguyên thủy đã hình thành nên văn học “Năm bộ kinh Pāli và bốn bộ kinh A-hàm.”

Phần lớn nội dung của Kinh Trường A-hàm tương ứng với Kinh Trường bộ, nên trong giai đoạn Phật giáo Bộ phái, dĩ nhiên, tất cả kinh điển tiếp tục được truyền thừa dưới hình thức khẩu truyền, theo đó, Kinh Trường A-hàm chứa đựng 12 thể loại văn học (S. dvādaśāṅga-buddha-vacana, 十二分教),[10] tiếp tục được truyền thừa cho đến đầu kỷ nguyên Tây lịch, khi Tam tạng Phật giáo Nguyên thủy và Tam tạng Phật giáo Bộ phái được biên tập thành văn.

3. Kinh Trường A-hàm thuộc bộ phái nào?

Hiện có ấn bản Kinh Trường A-hàm (Dīrgha Āgama, 長阿含) gồm 30 bài kinh được truyền thừa trong Pháp Tạng bộ (Dharmaguptaka),[11] đang khi ấn bản tương đương là Kinh Trường bộ (Dīgha Nikāya, 長部經典) có 34 bài kinh.

Theo Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ Tỳ-nại-da (根本說一切有部毘奈耶),[12] còn có tụng bản Kinh Trường A-hàm của Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ (S. Sarvāstivāda, P. Sabbatthivāda, 說一切有部) nhưng chưa từng được truyền sang Trung Quốc và dĩ nhiên chưa dịch sang tiếng Hán.

Các vấn đề Phật học được thảo luận trong Dị bộ tông luân luận (異部宗輪論)[13] cũng như Luận sự (論事, Kathāvatthu)[14] cho thấy Phân Biệt Thuyết bộ (S. Vibhajjavāda, P. Vibhajyavāda, 分別說部) và Đại Chúng bộ (S. Mahāsāṃghika, P. Mahāsaṅghika, 大眾部) có chủ trương một số nội dung tương đồng giữa Kinh Trường bộ Trường A-hàm nhưng điều này vẫn chưa đủ sức thuyết phục. Về phương diện bộ phái, dựa vào Câu-xá luận kê cổ (俱舍論稽古), một số học giả cho rằng Kinh Trường A-hàm thuộc Hóa Địa bộ (S. Mahīśāsaka, P. Mahiṃsāsaka, 化地部). Học giả Nhật Bản, Xích Thiệu Trí Thiện (赤沼智善, Chizen Akanuma, 1888-1937) phủ định giả thuyết này.[15]

Dù ấn bản Sanskrit đã thất truyền nên khó xác định Kinh Trường A-hàm thuộc bộ phái nào nhưng có nhiều bằng chứng khẳng định rằng bản dịch chữ Hán về Kinh Trường A-hàm của nhóm Phật-đà-da-xá (S. Buddhayaśas, 佛陀耶舍) được Pháp Tạng bộ (S. Dharmaguptaka, P. Dhammaguptā, 法藏部)[16] chọn làm tụng bản (誦本) và truyền bá rộng rãi. Giả thuyết này được các học giả Nhật Bản từ thời Minh Trị (明治, Meiji, 1868-1912) cho đến nay đều khẳng định. Một bằng chứng khác là tựa đề Kinh Trường A-hàm được đề cập trong Luật Pháp Tạng bộ (Dharmaguptaka Vinaya), cụ thể T.22. 1428. 0968b19.[17]

Lý do căn bản nhất cho lý giải này được nhiều học giả chấp nhận là do bộ Luật tứ phần (S. Dharmagupta-vinaya, 四分律, 曇無德律)[18] được Phật-đà-da-xá và Trúc Phật Niệm, hai vị Tôn giả có tầm ảnh hưởng lớn trong bộ phái Pháp Tạng, đã phiên dịch làm tụng bản của bộ phái. Hơn nữa, ngoại trừ Kinh Hư Không Tạng Bồ-tát (S. Ākāśagarbha-bodhisattvasūtra, 虛空藏菩薩經),[19] các dịch phẩm còn lại của Tôn giả Phật-đà-da-xá đều thuộc kinh điển Pháp Tạng bộ.

Mặt khác, Kinh Du hành (遊行經) trong Kinh Trường A-hàm có đoạn đề cập đến công đức của việc cúng dường tháp, tương đương với ý tưởng xây tháp phụng thờ Xá-lợi trong Kinh Đại Bát-niết-bàn thuộc Kinh Trường bộ, và đặc biệt cùng có quan điểm với văn hóa “tôn sùng tháp Phật” (崇拜佛塔) trong Pháp Tạng bộ.[20] Từ đó, có thể khẳng định rằng, trong các giả thuyết về bộ phái trực thuộc, Kinh Trường A-hàm thuộc Pháp Tạng bộ được nhiều học giả chấp nhận vì có nhiều bằng chứng văn bản hơn các giả thuyết khác.

4. Bản dịch chữ Hán và chữ Nhật

Tương truyền, bên cạnh các bản dịch chữ Hán, chữ Nhật và chữ Việt, bộ Kinh Trường A-hàm còn có bản dịch chữ Tây Tạng. Dưới sự đàn áp Phật giáo của Vua Glang-dar-ma (838-842), toàn bộ bản dịch chữ Tây Tạng đã bị tiêu hủy.[21] Dưới đây là các bản dịch chữ Hán và chữ Nhật thông dụng của Kinh Trường A-hàm.

(i) Kinh Trường A-hàm có 30 bài kinh (三十經), gồm 22 quyển (二十二卷) là bộ kinh đầu tiên trong tập đầu tiên của Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh, được Sa-môn Phật-đà-da-xá (S. Buddhayaśas, 佛陀耶舍, Giác Minh, 覺明),[22] bậc Tam tạng người Kế-tân (罽賓) đọc bản Sanskrit thuộc lòng (闇誦), Sa-môn Trúc Phật Niệm (竺佛念) người Lương Châu (涼州) dịch chữ Hán và Sa-môn Đạo Hàm (道含) chép tay (筆錄) thành bản văn tại Trường An (長安), vào năm 413 tức năm thứ 15 niên đại Hoằng Thủy (弘始) trong thời Hậu Tần (後秦).

Ngoài bản chữ Hán nêu trên, còn có các bản dịch tiếng Nhật và Bạch thoại như sau:

(ii) Trường A-hàm kinh (長阿含經) trong Quốc dịch nhất thiết kinh: A-hàm bộ (國譯一切經: 阿含部) do Shin’yū Iwano (岩野真雄, Nham Dã Chân Hùng) và Hasuzawa Seijun (蓮澤成淳, Liên Trạch Thành Thuần) dịch tiếng Nhật, NXB. Đại Đông (大東出版社), Tokyo, 1929.

(iii) Trường A-hàm kinh (長阿含經) trong Hiện đại ngữ dịch A-hàm kinh điển Trường A-hàm kinh (現代語譯 “阿含經典” 長阿含經), NXB. Bình Hà (平河出版社, Hirakawa Publishing Co., Ltd.), Đông Kinh Đô (東京都, Tokyo), 2001.

(iv) Trường A-hàm kinh tân dịch (長阿含經新譯)[23] do Hòa thượng Ngộ Từ (悟慈和尚) dịch và chú thích bằng Bạch thoại, xuất bản tại Đài Nam, Đài Loan, 1997.

(v) Trường A-hàm kinh (長阿含經)[24] do cư sĩ Trang Xuân Giang (莊春江) dịch Bạch thoại, 2013.

5. Bản dịch chữ Việt

Kinh Trường A-hàm do nhóm Tôn giả Phật-đà-da-xá dịch chữ Hán là bản văn có 3 bản dịch chữ Việt. Vì những trở ngại về vấn đề tác quyền, mặc dù rất muốn in tất cả 3 bản dịch, Ban Biên tập chỉ có thể sử dụng bản dịch (i) và (iii) trong ấn bản Tam tạng Thánh điển Phật giáo Việt Nam. Đây là điều đáng tiếc.

(i) Kinh Trường A-hàm do Tăng sinh Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm dịch trước năm 1975, Hòa thượng Thích Trí Tịnh hiệu đính, được Hội đồng Quản trị Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam biên tập, do Cục xuất bản cấp giấy phép, in năm 1991.

(ii) Kinh Trường A-hàm[25] do Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ dịch và chú thích, được Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành trong Đại tạng kinh Việt Nam do Giáo sư Lê Mạnh Thát làm Tổng Biên tập, nhằm chào mừng Đại lễ Vesak Liên Hợp Quốc 2008 (NXB. Tôn giáo, Hà Nội, 2007). Ấn bản này được Thư quán Hương Tích tái bản lần thứ 3 năm 2018 bởi NXB. Hồng Đức, Hà Nội.

(iii) Kinh Trường A-hàm do thành viên Trung tâm Dịch thuật Trí Tịnh thuộc Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam phiên dịch, từ tháng 12-2018 đến tháng 12-2019.

II. KHÁI QUÁT KINH TRƯỜNG A-HÀM

1. Đối chiếu hai ấn bản tương đương

Có hai ấn bản tương đương về tuyển tập kinh dài này.[26] Về địa lý, Kinh Trường A-hàm Kinh Trường bộ đều khởi nguyên tại Trung Ấn Độ (中印度), đều có nguồn gốc ban đầu từ Thượng Tọa bộ (上座部). Đến thời đại của Đại đế A-dục (S. Aśoka Maurya, 阿育王孔雀) mới bắt đầu được truyền bá phân hóa: Kinh Trường A-hàm được truyền bá tại quốc độ Ca-thấp-di-la (S. Kaśmira, 迦濕彌羅), đang khi Kinh Trường bộ được truyền bá sang nước Tích Lan (Sri Lanka, 錫蘭).

i) Kinh Trường A-hàm của Bắc truyền (北傳長阿含經, Bắc truyền Trường A-hàm kinh) do nhóm Tôn giả Phật-đà-da-xá dịch được phân làm 4 phần, 30 kinh, 22 quyển, gồm 149 trang đầu của tập 1 Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh với mã số CBETA là T01n0001. Phần thứ nhất gồm 4 kinh (1-4). Phần thứ hai gồm 15 kinh (5-19). Phần thứ ba gồm 10 kinh (20-29). Phần thứ tư chỉ có 1 kinh (kinh 30). Các bài kinh lẻ (單經) do nhiều người tham gia phiên dịch,[27] gồm 24 kinh với mã số T01n0002 - T01n0025[28] trong ấn bản CBETA và ấn bản in.

ii) Kinh Trường bộ của Nam truyền (P. Dīgha Nikāya, 南傳長部經典, Nam truyền Trường bộ kinh điển) gồm 34 kinh và phân thành 3 phần. Phần thứ nhất là chương về Giới uẩn (Sīlakkhandhavagga) gồm 13 kinh. Phần thứ hai là chương Lớn (Mahāvagga) gồm 10 kinh. Phần thứ ba là chương bắt đầu bằng Kinh Ba-lê (Pāṭika Sutta) nên phẩm này được gọi là phẩm Ba-lê (Pāṭikavagga) gồm 11 kinh. Ấn bản của Hội Thánh điển Pāli (PTS) gồm 3 tập. Hiện có nhiều bản dịch gồm bản tiếng Anh của PTS, bản tiếng Nhật (日譯南傳大藏經), bản tiếng Đức, Pháp, Tích Lan và nhiều ngôn ngữ khác.[29]

Về tổng số bài kinh, Kinh Trường bộ nhiều hơn 4 bài kinh so với bộ Kinh Trường A-hàm trong văn học Hán tạng của Pháp Tạng bộ (Dharmaguptaka). Ba kinh chỉ có trong Kinh Trường A-hàm nhưng không có trong Kinh Trường bộ gồm: (i) Kinh Tăng nhất (增壹經) số 11, (ii) Kinh Tam tụ (三聚經) số 12, (iii) Kinh Thế ký (世記經) số 30.[30] Có 6 bài kinh trong Kinh Trường bộ không có kinh tương ứng trong Kinh Trường A-hàm gồm: Kinh Ma-ha-lê (Mahāli Sutta, 摩訶梨經) số 6, Kinh Xà-lợi (Jāliya Sutta, 闍利經) số 7, Kinh Tu-bà (Subha Sutta, 须婆經) số 10, Kinh Đại niệm xứ (Mahāsatipaṭṭhāna Sutta, 大念處經) số 22, Kinh Tướng (Lakkhaṇa Sutta, 相經) số 30 và Kinh A-sá-nang-chi (Āṭānāṭiya Sutta, 阿吒曩胝經) số 32.

Cũng cần lưu ý trong Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ (說一切有部), 7 bài kinh mang hiệu số 6, 7, 8, 13, 14, 16 trong Kinh Trường A-hàm được liệt vào Kinh Trung A-hàm. Tương tự, các kinh mang hiệu số 17, 22, 30 trong Trường bộ lại tương đương với các kinh 68, 98, 59 trong Trung A-hàm.

2. Đối chiếu tựa kinh giữa Kinh Trường A-hàm Kinh Trường bộ[31]

Kinh Trường A-hàm

Kinh Trường bộ

1. Kinh Đại bổn
 
(S. Mahāvadāna-sūtra, 大本經)

14. Kinh Đại bổn
 
(P. Mahāpadāna Sutta, 大本經)

2. Kinh Du hành (遊行經)

16. Kinh Đại Bát-niết-bàn
 
(P. Mahāparinibbāna Sutta, 大般涅槃經)

17. Kinh Đại Thiện Kiến vương
 
(P. Mahāsudassana Sutta, 大善見王經)

3. Kinh Điển Tôn
 
(S. Govinda-sūtra, 典尊經)

19. Kinh Đại Điển Tôn
 
(P. Mahāgovinda Sutta, 大典尊經)

4. Kinh Xà-ni-sa
 
(S. Jinayabha-sūtra, 闍尼沙經)

18. Kinh Xà-ni-sa
 
(P. Janavasabha Sutta, 闍尼沙經)

5. Kinh Tiểu duyên (小緣經)

27. Kinh Khởi thế nhân bổn
 
(P. Aggañña Sutta, 起世因本經)

6. Kinh Chuyển Luân Thánh Vương tu hành (轉輪聖王修行經)

26. Kinh Chuyển Luân Thánh Vương sư tử hống (P. Cakkavatti Sīhanāda Sutta, 轉輪聖王狮子吼經)

7. Kinh Tệ-túc (弊宿經)

23. Kinh Tệ-túc (P. Pāyāsi Sutta, 弊宿經)

8. Kinh Tán-đà-na (散陀那經)

25. Kinh Ưu-đàm-bà-la sư tử hống
 
(P. Udumbarika Sīhanāda Sutta, 優曇婆邏狮子吼經)

9. Kinh Chúng tập
 
(S. Saṁgīti-sūtra, 眾集經)

33. Kinh Phúng tụng
 
(P. Saṅgīti Sutta, 諷誦經)

10. Kinh Thập thượng
 
(S. Daśottara-sūtra, 十上經)

34. Kinh Thập thượng
 
(P. Dasuttara Sutta, 十上經)

11. Kinh Tăng nhất (增一經)

không có kinh tương đương

12. Kinh Tam tụ (三聚經)

không có kinh tương đương

13. Kinh Đại duyên phương tiện
 
(大緣方便經)

15. Kinh Đại duyên
 
(P. Mahānidāna Sutta, 大緣經)

14. Kinh Thích-đề-hoàn-nhân vấn
 
(釋提桓因問經)

21. Kinh Đế-thích sở vấn
 
(P. Sakkapañha Sutta, 帝釋所問經)

15. Kinh A-nậu-di
 
(S. Bhārgava-sūtra, 阿㝹夷經)

24. Kinh Ba-lê
 
(P. Pāṭika Sutta, 波梨經)

16. Kinh Thiện Sanh (善生經)

31. Kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt
 
(P. Sigālovāda Sutta, 教授尸迦羅越經)

17. Kinh Thanh tịnh
 
(S. Prāsādika-sūtra, 清淨經)

29. Kinh Thanh tịnh
 
(P. Pāsādika Sutta, 清淨經)

18. Kinh Tự hoan hỷ
 
(S. Prāsādanīya-sūtra, 自歡喜經)

28. Kinh Tự hoan hỷ
 
(P. Sampasādanīya Sutta, 自歡喜經)

19. Kinh Đại hội
 
(S. Mahāsamāja-sūtra, 大會經)

20. Kinh Đại hội
 
(P. Mahāsamaya Sutta, 大會經)

20. Kinh A-ma-trú
 
(S. Ambāṣṭha-sūtra, 阿摩晝經)

3. Kinh A-ma-trú
 
(P. Ambaṭṭha Sutta, 阿摩晝經)

21. Kinh Phạm động
 
(梵動經)

1. Kinh Phạm võng
 
(P. Brahmajāla Sutta, 梵網經)

22. Kinh Chủng Đức
 
(S. Śroṇatāṇḍya-sūtra, 種德經)

4. Kinh Chủng Đức
 
(P. Soṇadaṇḍa Sutta, 種德經)

23. Kinh Cứu-la-đàn-đầu
 
(S. Kūṭatāṇḍya-sūtra, 究羅檀頭經)

5. Kinh Cứu-la-đàn-đầu
 
(P. Kūṭadanta Sutta, 究羅檀頭經)

24. Kinh Kiên Cố
 
(S. Kaivarti-sūtra, 堅固經)

11. Kinh Kiên Cố
 
(P. Kevaddha Sutta, 堅固經)

25. Kinh Lõa hình Phạm chí
 
(倮形梵志經)

8. Kinh Ca-diếp sư tử hống
 
(P. Kassapa Sīhanāda Sutta, 迦葉狮子吼經)

26. Kinh Tam minh
 
(S. Vāsiṣṭha-sūtra, 三明經)

13. Kinh Tam minh
 
(P. Tevijja Sutta, 三明經)

27. Kinh Sa-môn quả
 
(S. Śrāmaṇyaphala-sūtra, 沙門果經)

2. Kinh Sa-môn quả
 
(P. Sāmaññaphala Sutta, 沙門果經)

28. Kinh Bố-tra-bà-lâu
 
(S. Pṛṣṭhapāla-sūtra, 布吒婆樓經)

9. Kinh Bố-tra-bà-lâu
 
(P. Poṭṭhapāda Sutta, 布吒婆樓經)

29. Kinh Lộ-già
 
(S. Lohitya-sūtra, 露遮經)

12. Kinh Lộ-già
 
(P. Lohicca Sutta, 露遮經)

30. Kinh Thế ký (世記經)

không có kinh tương đương

 

3. Tóm tắt nội dung Kinh Trường A-hàm

Kinh Trường A-hàm có 30 kinh, chia làm bốn phần. Phần thứ nhất gồm các  kinh 1- 4, giới thiệu cuộc đời các đức Phật, oai đức và đóng góp của đức Phật. Phần thứ hai gồm các kinh 5-19, khái quát về việc thực tập các công hạnh và tinh hoa giáo pháp của đức Phật. Phần thứ ba gồm các kinh 20-29, đề cập các cuộc đối thoại liên tôn giáo giữa đức Phật và các đạo sĩ ngoại đạo. Phần thứ tư chỉ có 1 kinh, phân tích nguồn gốc của thế giới và con người về mặt vật chất hay tâm thức không bắt đầu từ Thượng đế mà đến từ các hành tinh khác.

1. Kinh Đại bổn (S. Mahāvadāna-sūtra, P. Mahāpadāna Sutta, 大本經) tương đương bài kinh cùng tựa đề trong Kinh Trường bộ,[32] giới thiệu sự tích của bảy đức Phật quá khứ và hiện tại gồm: Phật Tỳ-bà-thi (S. Vipaśyin, P. Vipassi, 毗婆尸佛), Phật Thi-khí (S. Śikhin, P. Sikhī, 尸棄佛), Phật Tỳ-xá-bà (S. Viśvabhu, P. Vessabhū, 毗舍婆佛), Phật Câu-lưu-tôn (S. Krakucchanda, P. Kakusandha, 拘留孫佛), Phật Câu-na-hàm Mâu-ni (S. Kanakamuni, P. Koṇāgamana, 拘那含佛), Phật Ca-diếp (S. Kāśyapa, P. Kassapa, 迦葉佛) và Phật Thích-ca Văn-ni (S. Śākyamuni, P. Sākyamuni, 釋迦文尼佛). Ngoài bối cảnh gia đình, họ tên, thân tướng đặc biệt, kinh này còn giới thiệu sự tu tập, thành đạo, chuyển pháp luân của các đức Phật, giúp mọi người vượt qua nỗi khổ, niềm đau.

2. Kinh Du hành (遊行經) tương đương với Kinh Đại Bát-niết-bàn (P. Mahāparinibbāna Sutta, 大般涅槃經) số 16 trong Kinh Trường bộ,[33] tường thuật những tuần lễ cuối đời của đức Phật du hóa từ Ma-kiệt-đà đến Câu-thi-na, qua đó giải thích bảy sức mạnh quốc gia, nhóm bảy pháp bất thối làm cho Chánh pháp hưng thịnh, sáu pháp hòa hợp, giá trị của việc tu tập giới - định - tuệ. Kinh còn tường thuật chi tiết sự kiện đức Phật nhập Đại Niết-bàn tại Câu-thi-na cùng với việc các nước phân chia Xá-lợi của đức Phật sau khi Ngài nhập diệt.

3. Kinh Điển Tôn (S. Govinda-sūtra, 典尊經) tương đương Kinh Đại Điển Tôn (P. Mahāgovinda Sutta, 大典尊經) số 19 trong Kinh Trường bộ.[34] Chư thiên cõi trời Đao-lợi bàn luận về nhân duyên lành khi được sanh lên cõi này là nhờ theo đức Phật tu tịnh hạnh, qua đó Đế-thích tán dương tám pháp tối thượng của đức Phật (八無等法). Kinh còn viết về tiền thân của đức Phật Thích-ca là một vị đại thần có tên là Đại Điển Tôn, làm phụ tướng cho bảy vị quốc vương, sau đó ngài xuất gia độ cho tám vạn bốn ngàn người đồng xuất gia theo. Ngài giáo hóa rộng rãi mang lợi ích lớn đến cho nhân dân.

4. Kinh Xà-ni-sa (S. Jinayabha-sūtra, P. Janavasabha Sutta, 闍尼沙經) tương đương bài kinh cùng tựa đề số 18 trong Kinh Trường bộ,[35] nói về việc Tôn giả A-nan hỏi Phật vì sao nhiều người trong mười sáu đại quốc, sau khi mạng chung, đức Phật thọ ký cho họ sanh về cõi này hay cõi khác nhưng chỉ có người trong nước Ma-kiệt-đà thì lại không được Ngài thọ ký. Một vị quỷ thần được gọi là Xà-ni-sa xuất hiện và thưa với đức Phật nhân duyên được tái sinh lên cõi trời làm thái tử của Tỳ-sa-môn Thiên vương, đồng thời kể lại lời của một vị Phạm đồng tử nói với chư thiên cõi trời Đao-lợi về nơi thọ sanh của người nước Ma-kiệt-đà. Vị Phạm đồng tử tán thán đức Thế Tôn nói pháp vi diệu như tứ niệm xứ, thất định cụ, tứ thần túc và khai mở ba con đường tắt dẫn đến ngôi vị Chánh giác.

5. Kinh Tiểu duyên (小緣經) tương đương Kinh Khởi thế nhân bổn (P. Aggañña Sutta, 起世因本經) số 27 trong Kinh Trường bộ,[36] nói về nguồn gốc con người trên địa cầu này đến từ trời Quang Âm. Kinh phân tích bản chất của xã hội nguyên thủy và mô hình nhà nước, theo đó vua là người được tuyển chọn (大選出者). Kinh phủ định giai cấp, khẳng định do nghiệp và tự do cá nhân, con người dù thuộc bất kỳ giai cấp nào, cũng đều tự quyết định số phận của mình theo nhân quả.

6. Kinh Chuyển Luân Thánh Vương tu hành (轉輪聖王修行經) tương đương Kinh Chuyển Luân Thánh Vương sư tử hống (P. Cakkavatti Sīhanāda Sutta, 轉輪聖王狮子吼經) số 26 trong Kinh Trường bộ,[37] giới thiệu mô hình quản trị đất nước bằng bảy báu, phân tích nguyên nhân và hậu quả của sự rối loạn xã hội, giới thiệu vai trò của Phật Di-lặc trong tương lai, phục hưng xã hội lý tưởng theo nguyên lý “Chánh pháp trị thế” nhằm phát triển xã hội bền vững.

7. Kinh Tệ-túc (P. Pāyāsi Sutta, 弊宿經) tương đương bài kinh cùng tựa đề số 23 trong Kinh Trường bộ,[38] phê phán Đoạn diệt luận; giới thiệu cách Đồng nữ Ca-diếp giải thích các ẩn dụ nhằm chứng minh rằng sau khi chết, con người không mất hẳn. Ở mỗi kiếp sống, con người chịu trách nhiệm nhân quả do chính mình tạo ra.

8. Kinh Tán-đà-na (散陀那經) tương đương Kinh Ưu-đàm-bà-la sư tử hống (P. Udumbarikā Sīhanāda Sutta, 優曇婆邏狮子吼經) số 25 trong Kinh Trường bộ,[39] đề cao vai trò của các hành vi đạo đức. Đức Phật chỉ ra thế nào là sự bất tịnh đem lại cấu uế và sự thanh tịnh của người tu khổ hạnh. Ngài dạy rằng người thực hành năm giới, mười thiện nghiệp, tu tập bốn tâm vô lượng chính là đang thực hành pháp khổ hạnh thù thắng bậc nhất.

9. Kinh Chúng tập (S. Saṅgīti-sūtra, 眾集經) tương đương Kinh Phúng tụng (P. Saṅgāti Sutta, 諷诵經) số 33 trong Kinh Trường bộ.[40] Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất giảng cho các vị đồng tu, nhân vì vị giáo chủ của phái Ni-kiền-tử vừa từ trần, các đệ tử bất hòa, tranh cãi lẫn nhau. Tôn giả thuyết lại lời dạy của đức Phật theo mô thức pháp số một cách thứ tự từ 1-10, bắt đầu từ tất cả hữu tình nương vật thực mà tồn tại cho đến 10 pháp vô học chân chánh, nhắc nhở chư Tăng không nên tranh chấp, làm cho Phạm hạnh được trường tồn, trời người đều được nhiều lợi ích, an vui.

10. Kinh Thập thượng (S. Daśottara-sūtra, P. Dasuttara Sutta,十上經) tương đương bài kinh cùng tựa đề số 34 trong Kinh Trường bộ,[41] do Tôn giả Xá-lợi-phất thuyết cũng với mô thức pháp số theo nhóm: Pháp đưa đến nhiều thành tựu, pháp cần phải tu tập, pháp cần phải thấu hiểu, pháp cần phải diệt trừ, pháp làm cho thoái thất, pháp làm cho tăng trưởng, pháp rất khó lý giải, pháp cần được phát sanh, pháp cần phải biết rõ, pháp cần phải tác chứng. Mỗi nhóm pháp này tăng dần từ 1-10, tổng cộng là 550 pháp, đã được đức Phật chứng tri và thuyết giảng, dứt trừ các trói buộc, kết thúc khổ đau, đưa đến Niết-bàn.

11. Kinh Tăng nhất (增一經) không có kinh tương đương trong Kinh Trường bộ. Kinh giới thiệu 275 pháp, tăng dần từ 1-10 với các chủ đề: Pháp đưa đến nhiều thành tựu, pháp cần phải tu tập, pháp cần phải thấu hiểu, pháp cần phải diệt trừ, pháp cần phải tác chứng, nhằm giúp mọi người hoàn thiện hạnh Thánh, đạt được an lạc tối thượng.

12. Kinh Tam tụ (三聚經) không có kinh tương đương trong Kinh Trường bộ, đề cập 165 pháp số, giới thiệu ba lối sống gồm lối sống đưa đến cõi xấu, lối sống đưa đến cõi thiện và pháp tu đạt đến Niết-bàn, qua đó khích lệ người thực hành hoàn thành đời sống thánh thiện, trở thành người hữu ích và có giá trị.

13. Kinh Đại duyên phương tiện (大緣方便經) tương đương Kinh Đại duyên (P. Mahānidāna Sutta, 大緣經) số 15 trong Kinh Trường bộ,[42] giới thiệu 12 mắc xích nhân duyên làm cho con người luân hồi trong ba cõi. Kinh đề cập đến bảy chỗ thức trú, hai nơi thể nhập và tám giải thoát. Vị Tỳ-kheo hiểu rõ các pháp này, nỗ lực chặt đứt mắc xích tham ái và chấp thủ, đạt được giải thoát tâm và giải thoát bằng trí tuệ.

14. Kinh Thích-đề-hoàn-nhân vấn (釋提桓因問經) tương đương Kinh Đế-thích sở vấn (P. Sakkapañha Sutta, 帝釋所問經) số 21 trong Kinh Trường bộ.[43] Thiên chủ Đế-thích và chư thiên Đao-lợi đến đảnh lễ đức Phật và hỏi về nguyên nhân gây nên oán thù tranh chấp giữa chư thiên và các chúng sanh khác. Đức Phật nêu lên nguyên nhân của sự oán kết đều do tham dục và ganh ghét. Ngài nêu ra ba loại điệu hý, ba loại tưởng, ba loại mong cầu, ba loại xả thân của bậc Hiền thánh, các căn đầy đủ trong luật nghi của bậc Hiền thánh, các tên gọi của cứu cánh, năm công đức của hỷ lạc và niệm lạc. Sau khi nghe đức Phật thuyết pháp, tám vạn bốn ngàn chư thiên đều đắc quả.

15. Kinh A-nậu-di (S. Bhārgava-sūtra, 阿㝹夷經) tương đương Kinh Ba-lê (P. Pāṭika Sutta, 波梨經) số 24 trong Kinh Trường bộ. Tỳ-kheo Thiện Túc (P. Sunakkhatta) thuộc dòng Lệ-xa (P. Licchavi) hoàn tục do thất vọng vì đức Phật không biểu diễn thần thông. Đức Phật đề cao vai trò “giáo dục thần thông” (神通示導), không mê hoặc quần chúng bằng những điều siêu hình, khích lệ Tăng sĩ truyền dạy những điều thực tiễn, hữu ích và tu tập chứng đắc đạo quả giác ngộ giải thoát.

16. Kinh Thiện Sanh (善生經) tương đương Kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt (P. Sigālovāda Sutta, 教授尸迦羅越經) số 31 trong Kinh Trường bộ.[44] Đức Phật nói về cách thức lễ bái cúng dường sáu phương theo pháp của Thánh hiền, đó là tránh bốn nghiệp phiền não, không làm việc ác dựa theo bốn nguyên nhân, biết rõ sáu nghiệp hao tổn tiền tài. Đức Phật nêu ra bốn hạng oán nghịch mà được xem như là bạn thân và bốn hạng người nên thân cận. Ngài nêu ra ý nghĩa lễ bái sáu phương, phân tích ẩn dụ sáu phương thành sáu mối quan hệ: (i) Cha mẹ – con cái, (ii) Thầy – trò, (iii) Vợ – chồng, (iv) Bản thân – bà con, (v) Chủ lao động – thợ lao động, (vi) Tu sĩ – tín đồ.

17. Kinh Thanh tịnh (S. Prāsādika-sūtra, P. Pāsādika Sutta, 清淨經) tương đương bài kinh cùng tựa đề số 29 trong Kinh Trường bộ. Kinh trình bày sự kiện giáo chủ Kỳ-na (Nigaṇṭha Nāṭaputta) vừa qua đời, các đệ tử tranh chấp chia làm 2 nhóm. Nhân đó, đức Phật dạy phương pháp hòa hợp trong Tăng đoàn. Đức Phật dạy pháp tu tập bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn thần túc, bốn thiền, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám Thánh đạo và tám giải thoát để những vị tinh tấn thực hành mau chóng được an vui và giải thoát ngay trong hiện đời.

18. Kinh Tự hoan hỷ (S. Prāsādika-sūtra, P. Sampasādaniya Sutta, 自歡喜經) tương đương kinh cùng tựa đề số 28 trong Kinh Trường bộ.[45] Tôn giả Xá-lợi-phất tán dương đức Phật về phương diện trí tuệ, thần thông và công đức, không một ai có thể so sánh. Tôn giả liệt kê nhiều pháp cao thượng đã được đức Phật tuyên thuyết. Sau đó, đức Phật khuyên đệ tử thực tập sự ít muốn, biết đủ, làm chủ các giác quan, không mê đắm các dục, tinh cần tu tập và chứng được đạo quả. Tôn giả Xá-lợi-phất thuyết lại pháp này cho các vị đồng tu nghe, nhờ vậy các vị được thanh tịnh.

19. Kinh Đại hội (S. Mahāsamāja-sūtra, 大會經) tương đương Kinh Đại hội (P. Mahāsamaya Sutta, 大會經) số 20 trong Kinh Trường bộ.[46] Chư thiên và các vị tiên nhân ở nhiều cõi giới đến thăm viếng, tán dương đức Phật. Ngài đã hướng dẫn cách chế ngự vọng tâm mà tuyên thuyết thần chú và thuyết pháp độ cho tám mươi bốn ngàn chư thiên hoàn thiện trí tuệ, đạo đức và thiền định, chấm dứt các khổ đau.

20. Kinh A-ma-trú (S. Ambāṣṭha-sūtra, P. Ambaṭṭha Sutta, 阿摩晝經) tương đương bài kinh cùng tựa đề số 3 trong Kinh Trường bộ.[47] Nhằm giúp Ambaṭṭha bỏ nghiệp ngạo mạn, đức Phật chứng minh tổ tiên của Ambaṭṭha là nô tỳ của dòng họ Thích. Đức Phật chỉ ra những khiếm khuyết Phạm hạnh của các Sa-môn, Bà-la-môn ngoại đạo. Đối với đệ tử của Ngài khi tu tập trong giáo pháp đều chuyên tu Thánh giới, tâm không đắm nhiễm, hộ trì các căn, chánh niệm tỉnh giác, thực hành thiền định, chứng đắc tứ thiền và tam minh. Khi được A-ma-trú tường thuật lại, thầy của A-ma-trú xin quy y với Phật, chứng được quả Thánh Bất hoàn và qua đời bảy ngày sau đó.

21. Kinh Phạm động (梵動經) tương đương Kinh Phạm võng (P. Brahmajāla Sutta, 梵網經), kinh đầu tiên trong Kinh Trường bộ.[48] Đức Phật phê phán 62 kiến chấp của các tôn giáo khác gồm 18 kiến chấp quá khứ về con người và thế giới theo Thường trú luận, Vô thường luận, Thế giới hữu biên hay vô biên, thuyết Ngụy biện và Vô nhân luận và 44 kiến chấp về tương lai; qua đó giới thiệu tầm nhìn trí tuệ, vượt qua vô minh, mê tín.

22. Kinh Chủng Đức (S. Śroṇatāṇḍya-sūtra, P. Soṇadaṇḍa Sutta, 種德經) tương đương bài kinh cùng tựa đề số 4 trong Kinh Trường bộ.[49] Đức Phật khẳng định với Bà-la-môn Chủng Đức rằng đạo đức và trí tuệ giúp người tu sĩ trở nên cao quý và có giá trị. Qua đó, đức Phật phủ định 3 tiêu chuẩn đầu tiên trong 5 tiêu chuẩn của đạo Bà-la-môn: (i) Thuần chủng bảy đời cả dòng họ cha và mẹ, (ii) Đọc tụng thông suốt ba bộ Vệ-đà, (iii) Dung mạo đoan chánh, (iv) Giữ giới đầy đủ, (v) Trí tuệ thông đạt.

23. Kinh Cứu-la-đàn-đầu (S. Kūṭatāṇḍya-sūtra, P. Kūṭadanta Sutta, 究羅檀頭經) tương đương bài kinh cùng tựa đề số 5 trong Kinh Trường bộ.[50] Đức Phật phê phán 3 loại tế lễ với 16 vật phẩm của đạo Bà-la-môn, qua đó giới thiệu cách tế lễ không gieo nghiệp sát bằng việc quy ngưỡng Tam bảo, giữ năm đạo đức, cúng dường Tăng đoàn, xây dựng Tăng xá, nuôi dưỡng tâm từ, xuất gia tu tập Phạm hạnh, chứng đắc ba minh. Ngài thuyết pháp chỉ rõ các hạnh thanh tịnh và bốn chân lý Thánh.

24. Kinh Kiên Cố (S. Kaivarti-sūtra, P. Kevaddha Sutta, 堅固經) tương đương bài kinh cùng tựa đề số 11 trong Kinh Trường bộ. Đức Phật giới thiệu ba loại thần thông là thần túc, quán sát tâm người và giáo hóa, nhưng Ngài phê phán việc biểu diễn thần thông để thu hút quần chúng. Đồng thời, Ngài chỉ dạy các đệ tử nên ở nơi thanh vắng, lặng lẽ tư duy về lý đạo, tu tập các công đức.

25. Kinh Lõa hình Phạm chí (倮形梵志經) tương đương Kinh Ca-diếp sư tử hống (P. Kassapa Sīhanāda Sutta, 迦葉狮子吼經) số 8 trong Kinh Trường bộ,[51] chỉ ra những khiếm khuyết trong cách tu tập khổ hạnh ép xác, giới hạnh không đầy đủ của đạo Bà-la-môn, qua đó đề cao “hạnh khó làm”, chính là đầy đủ giới đức, làm chủ giác quan, thực tập bốn thiền, phát triển trí tuệ, thoát khỏi sợ hãi, đạt giải thoát tâm và giải thoát bằng trí tuệ.

26. Kinh Tam minh (S. Vāsiṣṭha-sūtra, P. Tevijja Sutta, 三明經) tương đương bài kinh cùng tựa đề số 13 trong Kinh Trường bộ.[52] Nhân vì hai vị Bà-la-môn tranh luận về con đường cộng trú với Phạm thiên, đức Phật giới thiệu con đường cộng trú với Phạm thiên rất thiết thực, bằng cách giữ giới hạnh; chuyển hóa tâm ái dục, sân hận; phát triển tâm từ, bi, hỷ, xả. Đức Phật hướng dẫn cách tu tập để có cùng chí hướng, cùng giải thoát với Phạm thiên.

27. Kinh Sa-môn quả (S. Śrāmaṇyaphala-sūtra, P. Sāmaññaphala Sutta, 沙門果經) tương đương bài kinh cùng tựa đề số 2 trong Kinh Trường bộ.[53] Đức Phật giới thiệu Vua A-xà-thế về các giá trị và thành quả thiết thực của Tăng sĩ chân chính nhờ giữ giới, sống tỉnh thức, tu thiền định, phát triển trí tuệ; đồng thời phân tích các sai lầm của sáu đạo sư Ấn Độ cổ đại. Được khai sáng, Vua A-xà-thế xin sám hối trọng tội do giết vua cha và trở thành một minh quân Phật tử.

28. Kinh Bố-tra-bà-lâu (S. Pṛṣṭhapāla-sūtra, P. Poṭṭhapāda Sutta, 布吒婆樓經) tương đương bài kinh cùng tựa đề số 9 trong Kinh Trường bộ.[54] Đức Phật phân tích về nhân duyên sinh ra tưởng và nhân duyên kết thúc tưởng, đồng thời trả lời các câu hỏi về cách làm chủ tưởng tri, định không còn tri giác, nhất tưởng phi đa tưởng, trước tưởng sau trí. Qua đó, Phật dạy phương pháp tu tập trí tuệ, vượt qua các ngã tưởng gồm chấp ngã qua thân tướng, chấp ngã quá khứ và ngã tương lai, nhờ đó trải nghiệm an vui, giải thoát.

29. Kinh Lộ-già (S. Lohitya-sūtra, P. Lohicca Sutta, 露遮經) tương đương bài kinh cùng tựa đề số 12 trong Kinh Trường bộ.[55] Đức Phật khai thị cho Bà-la-môn Lộ-già và phê phán các tu sĩ thụ động, không tích cực truyền bá chân lý. Qua đó, đức Phật tán dương mô hình đạo sư “tự giác và giác tha”, nỗ lực không mệt mỏi trong việc truyền bá chân lý để cứu người, giúp đời. Đức Phật cũng giới thiệu bốn quả Sa-môn và lợi ích của việc nỗ lực truyền bá chân lý, cứu độ nhân sinh.

30. Kinh Thế ký (世記經) không có kinh tương đương trong Kinh Trường bộ.[56] Đức Phật thuyết minh về thế giới quan Phật giáo. Nguồn gốc thế giới trải qua quá trình thành trụ hoại không, sanh diệt biến đổi, sự thăng tiến, thoái hóa của thiên nhiên và chúng sanh hiện hữu trong tam thiên đại thiên thế giới được đức Phật miêu tả cụ thể từ các cõi trời cho đến địa ngục. Chúng sanh trong các cõi tùy vào cảm thọ và hành nghiệp mà sanh vào các cảnh giới không đồng nhau, môi trường sống, sinh hoạt xã hội, tuổi thọ, công đức, oai thần, phước báo sai biệt nhau. Đức Phật nêu rõ các kiếp nạn của thế giới, sự phát sinh và tiến hóa của loài người, nguồn gốc của các danh xưng, của sanh già bệnh chết, nguyên nhân hình thành bốn giai cấp, phả hệ truyền thừa của các đời vua từ khởi thủy cho đến La-hầu-la là con trai của Thái tử Tất-đạt-đa. Và qua đó, đức Phật nhấn mạnh chỉ có xuất gia tu tập để thành tựu trí và đức, chứng quả A-la-hán, minh và hạnh viên mãn mới là bậc tối thắng trong thế giới này.

***

III. KẾT LUẬN

Dựa vào bảng đối chiếu tựa đề kinh trong phần II. 2, chúng ta cần ghi nhận rằng Kinh Trường A-hàm (Dīrgha Āgama) bản chữ Hán của Pháp Tạng bộ có nội dung rất giống với Kinh Trường bộ (Dīgha Nikāya) của Thượng Tọa bộ. Nội dung các chủ đề Phật học của Kinh Trường A-hàm chia sẻ cùng các phạm trù triết học Phật giáo Thượng Tọa bộ.

Dựa vào thời gian biên tập thì ba bài kinh gồm Kinh Tăng nhất (增壹經) số 11, Kinh Tam tụ (三聚經) số 12, Kinh Thế ký (世記經) số 30 trong Kinh Trường A-hàm bản chữ Hán không có kinh tương đương trong Kinh Trường bộ được xem là thêm vào sau so với các bài kinh còn lại; trong đó có thể nói, Kinh Thế ký xuất hiện muộn nhất.[57] Điều này cho thấy, trong quá trình biên tập kinh điển Phật giáo, một số kinh được các bộ phái Phật giáo biên tập thêm, nhằm minh họa hoặc tạo sự hậu thuẫn về văn bản đối với các quan điểm Phật học chứa đựng trong các bài kinh được bổ sung này.

Về nội dung, ngoài những chủ đề về đức Phật lịch sử, vai trò đạo sư của đức Phật và các học thuyết quan trọng của triết học đức Phật, Kinh Trường A-hàm còn là nguồn dữ liệu phong phú về đối thoại liên tôn giáo và đối thoại liên triết học giữa đức Phật với các bậc đạo sư Ấn Độ, qua đó cho thấy đức Phật rất chủ động trong tương tác với các trường phái triết học tôn giáo cùng thời nhằm giới thiệu triết lý của Ngài, giúp nhiều người hiểu và thực tập có hiệu quả chân lý (Dhamma) và đạo đức (Vinaya) do Phật khám phá, truyền bá.

Từ góc độ ứng dụng, tất cả 30 bài trong Kinh Trường A-hàm có khả năng trị liệu khổ đau rất hiệu quả, giúp người thực tập giải phóng các xiềng xích trói buộc tâm, đạt được giải thoát tâm, giải thoát bằng trí tuệ, nhờ đó trở thành con người tỉnh thức, có giá trị và hữu ích cho cuộc đời này.

Chùa Giác Ngộ, ngày 01-01-2022

TT.TS. THÍCH NHẬT TỪ

(Đồng Tổng Biên tập Tam tạng Thánh điển PGVN)

 

[1] Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh (Taishō Shinshu Daizōkyō, 大正新修大藏經) do Junjirō Takakusu (高楠順次郎) và Watanabe Kaikyoku (渡邊海旭) chủ biên, gồm 85 tập chữ Hán, lần đầu được Công ty Cổ phần Xuất bản Đại Tạng xuất bản tại Tokyo vào năm 1924-34, nhanh chóng sau đó, trở thành nguồn tài liệu gốc của các nghiên cứu và trích dẫn về văn học Phật giáo Trung Quốc quan trọng nhất trên thế giới.

[2] CBETA được thành lập vào ngày 15-02-1999, do Thượng tọa Huệ Mẫn (惠敏法師) làm Tổng Biên tập. Các cơ quan tham gia thực hiện có Viện Nghiên cứu Phật học Trung Hoa Pháp Cổ Sơn, Đại học Trung ương, Đại học Huyền Trang, Học viện Phật học Hương Quang, Học viện Phật học Viên Quang, Học viện Phật học Phước Nghiêm và Hoa Nghiêm Liên Xã. CBETA là kho tư liệu điện tử bằng chữ Hán của ấn bản Đại Chánh đầy đủ nhất từ trước đến nay. Đến ngày 18-02-2006, CBETA đã hoàn tất các tập 1-55 và 85 gồm 7.877 vạn chữ. Đến năm 2007, CBETA hoàn tất Vạn tân tục tạng (卍新續藏) gồm 7.122 vạn chữ. Ấn bản offline có thể download tại: http://www.cbeta.org/download/cbreader.php/

[3] Trường A-hàm của ấn bản CBETA: https://tripitaka.cbeta.org/T01n0001_001 (truy cập ngày 01-12-2021).

[4] SAT có nghĩa là “Cơ sở dữ liệu văn bản Đại tạng kinh” thường gọi là ấn bản SAT, có trụ sở tại Tokyo, Nhật Bản, hoàn thành điện tử hóa các tập 56-84 của Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh, cũng là tổ chức giữ tác quyền và cho phép CBETA thực hiện điện tử hóa các tập 1-55 và 85 của Đại Chánh tân tu Đại tạng kinh.

[5] Trường A-hàm của ấn bản SAT: https://21dzk.l.u-tokyo.ac.jp/SAT2012/ddb-sat2.php?s=&mode=detail&useid=0001_,01 (truy cập ngày 01-12-2021).

[6] Còn gọi là “biên tập kinh điển tại thành Vương Xá” (王舍城結集), diễn ra trong kỳ an cư mùa mưa vào năm đức Phật nhập Niết-bàn nhằm thống nhất hóa về Kinh tạng và Luật tạng.

[7] Còn gọi là “Biên tập kinh điển tại thành Tỳ-xá-ly” (毘舍離集結), diễn ra khoảng 100 năm sau Phật Niết-bàn. Ngoài bất đồng chính yếu là 10 việc (十事) hoặc 10 điều trái với giới luật (十事違反戒律), về nội dung, đại hội này trên căn bản thống nhất cao về Kinh tạng và Luật tạng. Mười điều tranh chấp bao gồm các quy định thanh tịnh về: (i) Tích chứa muối (角鹽淨), (ii) Ăn sau ngọ quá 2 ngón tay (二指淨), (iii) Ăn một lần rồi đến làng khác khất thực (他聚落淨), (iv) Tỳ-kheo ở một trú xứ được phép tổ chức các pháp yết-ma Tăng sự độc lập (住處淨), (v) Túc số Tăng không đủ vẫn tổ chức các pháp yết-ma vì cho rằng Tăng chúng sẽ tùy thuận (隨意淨), (vi) Làm theo tiền lệ hoặc các vị thầy trước đã làm (所習淨); (vii) Sau giờ ngọ vẫn được dùng sữa chua (生和合淨), (viii) Được phép uống nước lên men (飲闍樓㘈淨), (ix) Tọa cụ không cần viền (無緣坐具淨), (x) Được phép giữ vàng, bạc (金銀淨).

[8] Theo Cunningham, Alexander, Corpus Inscriptionum Indicarum: Inscriptions of Asoka, vol. I (Calcutta: Office of the Superintendent of Government Printing, 1877), p. 65, 94 nêu có 2 loại chỉ dụ của Vua Asoka. Loại thứ nhất là Sắc lệnh khắc trên những trụ đá (Pillar Edicts) và loại thứ hai là Sắc lệnh khắc trên những bia đá (Rock Edicts). Còn Bairāṭ ở đây vốn chỉ cho một thị trấn, gần thủ phủ Jaipur thuộc bang Rajasthan, Tây Bắc Ấn Độ. Theo khám phá của khảo cổ học, trong một ngôi đền gần thị trấn Bairāṭ, đã phát hiện văn khắc trên bia đá của Vua Asoka nên gọi tắt là “Văn khắc Bairāṭ.” Đặc biệt, có 7 bản kinh quan trọng thuộc Trường bộ, Trung bộ, Tăng chi bộ Kinh tập được ghi nhận trong “Văn khắc Bairāṭ.”

[9] Tham chiếu: 宇井伯壽著 “印度哲學研究” 第二卷. 一四二頁. Bharhut được phiên âm tiếng Hán là Ba-hô (巴乎) hay Ba-hồ (巴胡). Nghệ thuật điêu khắc Bharhut hay tranh Bharhut rất nổi tiếng ở Ấn Độ vào thế kỷ II TTL. Nhiều hình ảnh và sự kiện Phật giáo cũng được lưu giữ lại trong các tác phẩm Bharhut này.

[10] Mười hai thể loại văn học còn gọi là “thập nhị phần giáo” (S. dvādaśāṅga-buddha-vacana, 十二分教) hay “thập nhị bộ kinh” (十二部經) gồm: (i) Khế kinh (S. Sūtra, 修多羅, Tu-đa-la), (ii) Trùng tụng (S. Geya, 重頌, 祇夜), (iii) Thọ ký (S. Vyākaraṇa, 授記), (iv) Kệ tụng (S. Gāthā, 偈頌, 諷頌, 伽陀), (v) Tự thuyết (S. Udāṇa,自說, 優陀那), (vi) Như thị ngữ (S. Itivṛttaka, 如是語), (vii) Bổn sanh (S. Jātaka, 本生), (viii) Phương quảng (S. Vaipulya, 方廣), (ix) Vị tằng hữu (S. Adbhūtadharma, 未曾有), (x) Nhân duyên (S. Nidāna, 因緣, Ni-đà-da 尼陀那), (xi) Thí dụ (S. Avadāna, 譬喻, 阿波陀那) và (xii) Luận nghị (S. Upadeśa, 論議, Quảng diễn 廣演, Ưu-bà-đề-xá 優婆提舍). Xem Du hành kinh 遊行經 (T.01. 0001.2. 0016c14): 比丘當知我於此法自身作證,布現於彼,謂:貫經,祇夜經,受記經, 偈經,法句經,相應經,本緣經,天本經,廣經,未曾有經,證喻經,大教經,汝等當善受持,稱量分別,隨事修行 (Tỳ-kheo nên biết, Ta đã tự thân tu chứng tất cả các pháp hiện đang được lưu bố nơi Quán kinh, Kỳ-dạ kinh, Thọ ký kinh, Kệ kinh, Pháp cú kinh, Tương ưng kinh, Bản duyên kinh, Thiên bản kinh, Quảng kinh, Vị tằng hữu kinh, Chứng dụ kinh, Đại giáo kinh. Các Tỳ-kheo hãy khéo thọ trì, cân nhắc phân biệt, tùy sự tu hành).

[11] Richard Salomon, Ancient Buddhist Scrolls from Gandhāra: The British Library Kharosthī Fragments (Seattle: University of Washington Press, 1999), pp. 15, 89, 166, 171, 186.

[12] Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ Tỳ-nại-da có ấn bản điện tử CBETA với mã số là T23n1442.

[13] Mã số trong Đại Chánh tạng: T.49. 2031 gồm 3844 chữ Hán (0015a01-0017b10), giới thiệu về quá trình hình thành và phân chia 20 bộ phái với gần 200 quan điểm, do ngài Thế Hữu (Vasumitra) trước thuật, ngài Huyền Trang (玄奘, 602-664) dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Hán. Bộ luận này được Trưởng lão Hòa thượng Thích Trí Quang dịch: Dị bộ tông luân luận, được phổ biến trên trang www.daophatngaynay.com; và được Thượng tọa Thích Hạnh Bình dịch và chú giải trong Chú giải Dị bộ tông luân luận, do NXB. Phương Đông, TP. HCM ấn hành năm 2011

[14] Bộ luận này gồm 216 quan điểm do các vị Trưởng lão Theravāda đặt vấn đề và trả lời. Tâm An và Minh Tuệ dịch với tựa đề Những điểm dị biệt (TP. HCM: Ban Trị sự Thành hội Phật giáo TP. HCM, 1988).

[15] Xem 赤沼智善 “佛教經典史論”, 三寶書院, 1939, 三三頁以下.

[16] Pháp Tạng bộ (S. Dharmaguptaka, 法藏部) được phiên âm Hán - Việt là Đàm-vô-đức (曇無德)

[17] Thực ra, Kinh Trường A-hàm còn được đề cập trong Luật Đại Chúng bộ (Mahāsāṅghika Vinaya, 大眾部律) tại T.24. 1425. 0491c16, trong Luật Hóa Địa bộ (Mahīśāsaka Vinaya, 化地部律) tại T.22. 1421. 0191a24, và trong Luật Thượng Tọa bộ (Theravāda Vinaya, 上座部律) tại Vin. II. 287 (dòng 16).

[18] Mã số Luật tứ phần trong Đại Chánh là T22n1428, ấn bản CBETA: https://tripitaka.cbeta.org/T22n1428 (truy cập ngày 01-01-2021).

[19] Kinh Bồ-tát Hư Không Tạng có mã số T13n0405 trong Đại Chánh: http://tripitaka.cbeta.org/T13n0405 (truy cập ngày 01-12-2021).

[20] Theo Dị bộ tông luân luận 異部宗輪論 (T.49. 2031. 0017a23), Pháp Tạng bộ cho rằng: 於窣堵波興供養業獲廣大果 (việc cúng dường tháp sẽ mang lại phước báu lớn).

[21] Theo Cao Tăng Pháp Hiển truyện 高僧法顯傳 (T.51. 2085. 0865c24), ngài Pháp Hiển (法顯, 337-422) từ Tích Lan mang bản Sanskrit Kinh Trường A-hàm này về Trung Quốc.

[22] Ngài Phật-đà-da-xá phối hợp với Cưu-ma-la-thập cùng phiên dịch Kinh Thập trụ (十住經), Giới bổn Luật tứ phần (四分僧戒本), có công viết sớ giải Luận Tỳ-bà-sa (毗婆沙論).

[23] Trường A-hàm kinh tân dịch của Hòa thượng Ngộ Từ: http://www.swastika.org.tw/contents/
 4tika/444-0.htm
(truy cập ngày 01-12-2021).

[24] Trường A-hàm kinh do Trang Xuân Giang dịch Bạch thoại phổ biến tại: https://agama.buddhason.org/DA/index.htm (truy cập ngày 01-12-2021).

[25] Ấn bản pdf của Kinh Trường A-hàm do Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ dịch: https://thuvienhoasen.org/images/file/ULfTkZ1G0QgQAF0h/truong-a-ham.pdf (truy cập ngày 01-12-2021).

[26] Về những bài kinh tương đồng và dị biệt của 2 ấn bản tương đương này, tham khảo: Thích Nhật Từ, Sổ tay mục lục Tam tạng Pāḷi (Hà Nội: NXB. Hồng Đức, 2021).

[27] Pháp Thiên (法天) dịch 3 kinh, gồm 2, 3 và 19. Pháp Hiền (法賢) dịch 3 kinh, gồm 9, 15 và 18. Thi Hộ (施護) dịch 4 kinh, gồm 8, 10, 11 và 12. An Thế Cao (安世高) dịch 3 kinh, gồm 13, 14, 16; còn lại là của những vị khác dịch.

[28] Xem chi tiết 24 bài kinh lẻ này trong Thích Nhật Từ, Mục lục Tam tạng Đại Chánh (Hà Nội: NXB. Hồng Đức, 2021), tr. 2-4. Tham chiếu tương đương trong bản dịch tiếng Nhật, Thạch Xuyên Hải Tịnh (石川海淨, Ishikawa Kaijō), Quốc dịch nhất thiết kinh A-hàm bộ 7: Kinh Trường A-hàm (國譯一切經阿含部七: 長阿含經), tr. 3-472.

[29] Ấn bản Pāli và ấn bản tiếng Anh có thể xem tại: https://suttacentral.net/dn-silakkhandhavagga? view=dense (truy cập ngày 01-12-2021).

[30] Tham khảo bản dịch tiếng Anh và chú thích về 3 kinh này qua bài nghiên cứu của Bhikkhu Anālayo, “Three Chinese Dīrgha-āgama Discourses without Parallels” trong Research on the Dīrgha-Āgama (Taipei: Dharma Drum Publishing Corp, 2014) tại địa chỉ: https://www.buddhismuskunde.uni-hamburg.de/pdf/5-personen/analayo/three-da.pdf (truy cập ngày 01-12-2021).

[31] Tham khảo: Analayo, Dīrgha-āgama Studies (Taiwan: Dharma Drum Publishing Corp., 2017).

 

[32] Đại bổn kinh 大本經 (T.01. 0001.01. 0001b11). Tham chiếu: Phật thuyết Thất Phật kinh 佛說七佛經 (T.01. 0002. 0150a03); Tỳ-bà-thi Phật kinh 毘婆尸佛經 (T.01. 0003. 0154b05); Thất Phật phụ mẫu tánh tự kinh 七佛父母姓字經 (T.01. 0004. 0159a27); La-ma kinh 羅摩經 (T.01. 0026.204. 0775c07); Tăng. 增 (T.02. 0125.19.1. 0593a24); Tăng. 增 (T.02. 0125.48.4. 0790a07); Pháp tập yếu tụng kinh “Như Lai phẩm” 法集要頌經如來品 (T.04. 0213.21. 0787b22).

[33] Du hành kinh 遊行經 (T.01. 0001.02. 0011a07). Tham chiếu: Phật Bát-nê-hoàn kinh 佛般泥洹經 (T.01. 0005. 0160b05); Bát-nê-hoàn kinh 般泥洹經 (T.01. 0006. 0176a02); Đại Bát-niết-bàn kinh 大般涅槃經 (T.01. 0007. 0191b02); Địa động kinh 地動經 (T.01. 0026.36. 0477b23); Tăng. 增 (T.02. 0125.28.5. 0652b13); Tăng. 增 (T.02. 0125.42.5. 0753c11); Xuất diệu kinh “Thủy phẩm” 出曜經水品 (T.04. 0212.18. 0706c07); Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ Tỳ-nại-da tạp sự 根本說一切有部毘柰耶雜事 (T.24. 1451.35. 0382b29).

[34] Điển Tôn kinh 典尊經 (T.01. 0001.03. 0030b10). Tham chiếu: Phật thuyết Đại Kiên Cố Bà-la-môn duyên khởi kinh 佛說大堅固婆羅門緣起經 (T.01. 0008. 0207c18).

[35] Xà-ni-sa kinh 闍尼沙經 (T.01. 0001.04. 0034b05). Tham chiếu: Phật thuyết Nhân tiên kinh 佛說人仙經 (T.01. 0009. 0213c22).

[36] Tiểu duyên kinh 小緣經 (T.01. 0001.05. 0036b28). Tham chiếu: Bà-la-bà đường kinh 婆羅婆堂經 (T.01. 0026.154. 0673b04); Phật thuyết Bạch y kim tràng nhị Bà-la-môn duyên khởi kinh 佛說白衣金幢二婆羅門緣起經 (T.01. 0010. 0216b11).

[37] Chuyển Luân Thánh Vương tu hành kinh 轉輪聖王修行經 (T.01. 0001.06. 0039a21). Tham chiếu: Chuyển Luân Vương kinh 轉輪王經 (T.01. 0026.70. 0520b16).

[38] Tệ-túc kinh 弊宿經 (T.01. 0001.07. 0042b24). Tham chiếu: Tỳ-tứ kinh 蜱肆經 (T.01. 0026.71. 0525a10); Đại Chánh Cú Vương kinh 大正句王經 (T.01. 0045. 0831a06); A-nậu-di kinh 阿㝹夷經 (T.01. 0001.15. 0066a09).

[39] Tán-đà-na kinh 散陀那經 (T.01. 0001.08. 0047a17). Tham chiếu: Ưu-đàm-bà-la kinh 優曇婆邏經 (T.01. 0026.104. 0591b26); Phật thuyết Ni-câu-đà Phạm chí kinh 佛說尼拘陀梵志經 (T.01. 0011. 0222a19).

[40] Chúng tập kinh 眾集經 (T.01. 0001.09. 0049b27). Kinh này còn gọi là Đẳng tụng kinh 等誦經, Tăng-kỳ-đà kinh 僧祇陀經. Tham chiếu: Thập thượng kinh 十上經 (T.01. 0001.10. 0052c17); Phật thuyết Đại tập pháp môn kinh 佛說大集法門經 (T.01. 0012. 0226c03); Tâm uế kinh 心穢經 (T.01. 0026.206. 0780b15); Tăng. 增 (T.02. 0125.37.1. 0708c11); Tăng. 增 (T.02. 0125.39.5. 0730c19); Tăng. 增 (T.02. 0125.44.1. 0764c20); Tăng. 增 (T.02. 0125.51.4. 0817a16).

[41] Thập thượng kinh 十上經 (T.01. 0001.10. 0052c17). Tham chiếu: Chúng tập kinh 眾集經 (T.01. 0001.9. 0049b27); Tăng nhất kinh 增一經 (T.01. 0001.11. 0057b26); Phật thuyết Đại tập pháp môn kinh 佛說大集法門經 (T.01. 0012. 0226c03); Trường A-hàm thập báo pháp kinh 長阿含十報法經 (T.01. 0013. 0233b23); Tâm uế kinh 心穢經 (T.01. 0026.206. 0780b15); Tăng. 增 (T.02. 0125.37.5. 0712a09); Tăng. 增 (T.02. 0125.39.5. 0730c19); Tăng. 增 (T.02. 0125.51.4. 0817a16).

[42] Đại duyên phương tiện kinh 大緣方便經 (T.01. 0001.13. 0060a29). Tham chiếu: Đại nhân kinh 大因經 (T.01. 0026.97. 0578b07); Phật thuyết Nhân bổn dục sanh kinh 佛說人本欲生經 (T.01. 0014. 0241c23); Phật thuyết Đại sanh nghĩa kinh 佛說大生義經 (T.01. 0052. 0844b09); A-tỳ-đạt-ma Tập dị môn túc luận 阿毘達磨集異門足論 (T.26. 1536.18. 0440c23).

[43] Thích-đề-hoàn-nhân vấn kinh 釋提桓因問經 (T.01. 0001.14. 0062b29). Tham chiếu: Thích vấn kinh 釋問經 (T.01. 0026.134. 0632c27); Phật thuyết Đế-thích sở vấn kinh 佛說帝釋所問經 (T.01. 0015. 0246b03); Phật thuyết Đế-thích vấn sự duyên kinh 佛說帝釋問事緣經 thuộc Tạp Bảo tạng kinh 雜寶藏經 (T.04. 0203.73. 0476a17).

[44] Thiện Sanh kinh 善生經 (T.01. 0001.16. 0070a20). Tham chiếu: Thiện Sanh kinh 善生經 (T.01. 0026.135. 0638c06); Phật thuyết Thi-ca-la-việt lục phương lễ kinh 佛說尸迦羅越六方禮經 (T.01. 0016. 0250c11); Thiện Sanh Tử kinh 善生子經 (T.01. 0017. 0252b06).

[45]  Tự hoan hỷ kinh 自歡喜經 (T.01. 0001.18. 0076b24). Tham chiếu: Phật thuyết Tín Phật công đức kinh 佛說信佛功德經 (T.01. 0018. 0255a11); Tạp. 雜 (T.02. 0099.498. 0130c07); Thanh tịnh kinh 清淨經 (T.01. 0001.17. 0072c12).

[46] Đại hội kinh 大會經 (T.01. 0001.19. 0079b02). Tham chiếu: Phật thuyết Đại tam-ma-nhạ kinh 佛說大三摩惹經 (T.01. 0019. 0258a10); Tạp. 雜 (T.02. 0099.1192. 0323a12); Bi. 0099. 別雜 (T.02. 0100.105. 0411a24).

[47] A-ma-trú kinh 阿摩晝經 (T.01. 0001.20. 0082a06). Tham chiếu: Phật khai giải Phạm chí A-bạt kinh 佛開解梵志阿颰經 (T.01. 0020. 0259c04).

[48] Phạm động kinh 梵動經 (T.01. 0001.21. 0088b12). Tham chiếu: Phạm võng lục thập nhị kiến kinh 梵網六十二見經 (T.01. 0021. 0264a20); Xá-lợi-phất A-tỳ-đàm luận 舍利弗阿毘曇論 (T.28. 1548.19. 0656b19).

[49] Chủng Đức kinh 種德經 (T.01. 0001.22. 0094a18).

[50] Cứu-la-đàn-đầu kinh 究羅檀頭經 (T.01. 0001.23. 0096a16).

[51] Lõa hình Phạm chí kinh 倮形梵志經 (T.01. 0001.25. 0102c25).

[52] Tam minh kinh 三明經 (T.01. 0001.26. 0104c17).

[53] Sa-môn quả kinh 沙門果經 (T.01. 0001.27. 0107a20). Tham chiếu: Tịch chí quả kinh 寂志果經 (T.01. 0022. 0270c27); Tăng. 增 (T.02. 0125.43.7. 0762a07); Tạp. 雜 (T.02. 0099.154. 0043c21); Tạp. 雜 (T.02. 0099.155. 0044a01); Tạp. 雜 (T.02. 0099.156. 0044a11); Tạp. 雜 (T.02. 0099.157-160. 0044a22-b11); Tạp. 雜 (T.02. 0099.161. 0044b16); Tạp. 雜 (T.02. 0099.162. 0044b29); Tạp. 雜 (T.02. 0099.163. 0044c12); Căn Bản Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ Tỳ-nại-da 根本說一切有部毘奈耶 (T.23. 1442.13. 0692b01).

[54] Bố-tra-bà-lâu kinh 布吒婆樓經 (T.01. 0001.28. 0109c22).

[55] Lộ-già kinh 露遮經 (T.01. 0001.29. 0112c20).

[56] Tham chiếu: Tiểu duyên kinh 小緣經 (T.01. 0001.05. 0036b28), Bà-la-bà đường kinh 婆羅婆堂經 (T.01. 0026.154. 0673b04); Phật thuyết Bạch y kim tràng nhị Bà-la-môn duyên khởi kinh 佛說白衣金幢二婆羅門緣起經 (T.01. 0010. 0216b11).

[57] Xem thảo luận chi tiết, Hartmann, Jens-Uwe 2002: “Further Remarks on the New Manuscript of the Dīrghāgama”, Journal of the International College for Advanced Buddhist Studies, 5: 133-50, và quyển cùng tác giả, Hartmann, Jens-Uwe 2004: “Contents and Structure of the Dīrghāgama of the Mūla-Sarvāstivādins”, Annual Report of the International Research Institute for Advanced Buddhology at Soka University, 7: 119-37.

 

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.