Viện Nghiên Cứu Phật Học

8.PHẨM TRỜI ĐAO-LỢI69

 

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Trên đỉnh núi chúa Tu-di có thành của cõi trời Ba Mươi Ba, ngang dọc tám mươi ngàn do-tuần. Thành ấy có bảy lớp tường thành, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, chung quanh đều trang hoàng bằng bảy báu. Thành cao một trăm do-tuần, phần trên rộng sáu mươi do-tuần. Cửa thành cao sáu mươi do-tuần, rộng ba mươi do-tuần, cách nhau khoảng năm trăm do-tuần lại có một cửa thành. Mỗi cửa thành đều có năm trăm quỷ thần canh giữ, bảo vệ cõi trời Ba Mươi Ba. Thành bằng vàng thì cửa bằng bạc, thành bằng bạc thì cửa bằng vàng,... cho đến có vô số các loài chim cùng nhau ca hót, cũng lại như thế.

Trong thành lớn ấy lại có một thành nhỏ, ngang dọc sáu mươi ngàn do-tuần, có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, chung quanh đều trang hoàng bằng bảy báu. Thành cao một trăm do-tuần, rộng sáu mươi do-tuần, cách nhau khoảng năm trăm do-tuần lại có một cửa thành, cao sáu mươi do-tuần, rộng ba mươi do-tuần. Mỗi cửa thành đều có năm trăm quỷ thần đứng canh giữ, bảo vệ cõi trời Ba Mươi Ba. Thành bằng vàng thì cửa bằng bạc, thành bằng bạc thì cửa bằng vàng, thành bằng thủy tinh thì cửa bằng lưu ly, thành bằng lưu ly thì cửa bằng thủy tinh, thành bằng xích châu thì cửa bằng mã não, thành bằng mã não thì cửa bằng xích châu, thành bằng xà cừ thì cửa bằng các loại báu khác.

Các lan can của thành ấy, nếu lan can vàng thì bậc cấp bằng bạc, lan can bạc thì bậc cấp bằng vàng, lan can thủy tinh thì bậc cấp bằng lưu ly, lan can lưu ly thì bậc cấp bằng thủy tinh, lan can xích châu thì bậc cấp bằng mã não, lan can mã não thì bậc cấp bằng xích châu, lan can xà cừ thì bậc cấp bằng các loại báu khác. Trên lan can có mành lưới báu, dưới mành lưới vàng thì treo linh bằng bạc, dưới lưới bạc thì treo linh bằng vàng, dưới lưới lưu ly thì treo linh bằng thủy tinh, dưới lưới thủy tinh thì treo linh bằng lưu ly, dưới lưới xích châu thì treo linh bằng mã não, dưới lưới bằng mã não thì treo linh bằng xích châu, dưới lưới bằng xà cừ thì treo linh bằng các loại báu khác.

Lại nữa, cây bằng vàng thì rễ và nhánh đều bằng vàng nhưng lá, hoa và quả đều bằng bạc. Cây bằng bạc thì rễ và nhánh đều bằng bạc nhưng lá, hoa và quả bằng vàng. Cây bằng thủy tinh thì rễ và nhánh đều bằng thủy tinh nhưng hoa và lá bằng lưu ly. Cây bằng lưu ly thì rễ và nhánh đều bằng lưu ly nhưng hoa và lá bằng thủy tinh. Cây bằng xích châu thì rễ và nhánh đều bằng xích châu nhưng hoa và lá bằng mã não. Cây bằng mã não thì rễ và nhánh đều bằng mã não nhưng hoa và lá bằng xích châu. Cây bằng xà cừ thì rễ và nhánh đều bằng xà cừ nhưng hoa và lá bằng các loại khác.

Bảy lớp tường của thành ấy, mỗi lớp tường đều có bốn cửa, mỗi cửa đều có lan can. Trên bảy lớp tường thành đều có đền đài, lầu gác bao bọc chung quanh, có vườn rừng, ao tắm, mọc các loài hoa quý, nhiều màu đan xen, cây báu xếp thành hàng, hoa quả tốt tươi, gió đưa hương lan tỏa khắp nơi làm vui đẹp lòng người. Chim le le, nhạn, uyên ương cùng các loại chim quý hiếm, có hàng ngàn giống loại không kể xiết, cùng nhau hót vang.

Khoảng giữa bên ngoài thành nhỏ có cung điện của vua rồng Y-la-bát, ngang dọc sáu ngàn do-tuần. Vách tường của cung điện có bảy lớp, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, chung quanh đều trang hoàng bằng bảy báu,... cho đến có vô số các loài chim cùng nhau ca hót, cũng lại như thế.

[0131b08] Bên trong thành Thiện Kiến có giảng đường Thiện Pháp,70 ngang dọc một trăm do-tuần, có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, chung quanh đều trang hoàng bằng bảy báu. Nền nhà được lát bằng vàng ròng, cẩn lưu ly phía trên. Các trụ cột trong chánh điện chu vi mười do-tuần, cao một trăm do-tuần, dưới trụ cột này là nơi đặt ngự tòa của trời Đế-thích, ngang dọc một do-tuần, được trang hoàng bằng bảy báu, màu sắc xen kẽ. Ngự tòa đó mềm mại, mịn như áo trời, hai bên ngự tòa có mười sáu chỗ ngồi.

Lại nữa, giảng đường có bốn cửa, có lan can bao quanh, được làm bằng bảy báu. Giảng đường có lối đi bậc cấp, ngang dọc năm trăm do-tuần, có bảy lớp cửa ngoài, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, chung quanh đều trang hoàng bằng bảy báu,... cho đến có vô số các loài chim cùng nhau ca hót, cũng lại như thế.

Phía Bắc cung Thiện Kiến có cung điện của trời Đế-thích, ngang dọc một ngàn do-tuần. Cung điện có bảy lớp tường thành, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, chung quanh đều trang hoàng bằng bảy báu,... cho đến có vô số các loài chim cùng nhau ca hót, cũng lại như thế.

Phía Đông cung Thiện Kiến có khu vườn rừng tên là Thô Sáp, ngang dọc một ngàn do-tuần. Vườn có bảy lớp tường thành, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, chung quanh đều trang hoàng bằng bảy báu,... cho đến có vô số các loài chim cùng nhau ca hót, cũng lại như thế. Trong vườn Thô Sáp có hai tảng đá, một tên Hiền, hai tên Thiện Hiền, đều được trang trí bằng vàng cõi trời. Mỗi tảng đá ngang dọc năm mươi do-tuần, tảng đá ấy trơn láng, mịn màng giống như áo trời.

Phía Nam cung Thiện Kiến có khu vườn rừng tên là Họa Lạc, ngang dọc một ngàn do-tuần. Vườn có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, chung quanh đều trang hoàng bằng bảy báu,... cho đến có vô số các loài chim cùng nhau ca hót, cũng lại như thế. Trong khu vườn Họa Lạc có hai tảng đá, một tên Họa, hai tên Thiện Họa, đều do bảy báu tạo thành. Mỗi tảng đá ngang dọc năm mươi do-tuần, tảng đá ấy trơn láng, mịn màng giống như áo trời.

Phía Tây cung Thiện Kiến có vườn rừng tên là Tạp, ngang dọc một ngàn do-tuần. Vườn có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, chung quanh đều trang hoàng bằng bảy báu,... cho đến có vô số các loài chim cùng nhau ca hót, cũng lại như thế. Trong vườn Tạp có hai tảng đá, một tên Thiện Kiến, hai tên Thuận Thiện Kiến, đều được trang trí bằng vàng cõi trời và do bảy báu tạo thành. Mỗi tảng đá ngang dọc năm mươi do-tuần, tảng đá ấy trơn láng, mịn màng giống như áo trời.

Phía Bắc cung Thiện Kiến có khu vườn rừng tên là Đại Hỷ, ngang dọc một ngàn do-tuần. Vườn có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, chung quanh đều trang hoàng bằng bảy báu,... cho đến có vô số các loài chim cùng nhau ca hót, cũng lại như thế. Trong vườn Đại Hỷ lại có hai tảng đá, một tên Hỷ, hai tên Đại Hỷ, được trang trí bằng xà cừ, ngang dọc năm mươi do-tuần, tảng đá ấy trơn láng, mịn màng như áo trời.

[0131c13] Khoảng giữa vườn Thô Sáp và vườn Họa Lạc có ao Nan-đà, ngang dọc một trăm do-tuần. Nước trong ao đó trong sạch mát mẻ, không chút bợn nhơ, bao quanh cạnh thềm ao là bảy lớp hào báu, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, trang hoàng chung quanh bằng bảy báu. Bốn phía ao có bốn đường bậc cấp, mỗi bậc cấp có lan can bao quanh, do bảy báu tạo thành,... cho đến có vô số các loài chim cùng nhau ca hót, cũng lại như thế.

Lại nữa, trong ao mọc bốn loài hoa màu xanh, vàng, đỏ, trắng, lại đan xen với nhiều màu hồng, xanh nhạt. Lá hoa phủ kín một do-tuần, hương thơm lan tỏa một do-tuần, rễ hoa như trục xe, lại tiết ra nhựa, màu trắng như sữa, vị ngọt như mật. Chung quanh bốn phía của ao đều có vườn rừng.

Khoảng giữa vườn Tạp và vườn Đại Hỷ có cây tên Trú Độ, thân cây bảy do-tuần, cao một trăm do-tuần, cành lá phủ kín bốn phía năm mươi do-tuần. Phía ngoài cây này có ngôi đình trống, ngang dọc năm trăm do-tuần, có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, chung quanh đều trang hoàng bằng bảy báu,... cho đến có vô số các loài chim cùng nhau ca hót, cũng lại như thế.

Ngoài ra, các cung điện khác của trời Đao-lợi, ngang dọc một ngàn do-tuần, cung điện có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, chung quanh đều trang hoàng bằng bảy báu,... cho đến có vô số các loài chim cùng nhau ca hót, cũng lại như thế. Các cung điện còn lại ngang dọc chín trăm, hoặc tám trăm do-tuần, cung nhỏ nhất một trăm do-tuần. Những cung điện này đều có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, chung quanh đều trang hoàng bằng bảy báu,... cho đến có vô số các loài chim cùng nhau ca hót, cũng lại như thế.

Những cung điện nhỏ ngang dọc một trăm do-tuần, hoặc chín mươi, hoặc tám mươi, cho đến nhỏ nhất là mười hai do-tuần, cũng có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, chung quanh đều trang hoàng bằng bảy báu,... cho đến có vô số các loài chim cùng nhau ca hót, cũng lại như thế.

[0132a07] Phía Bắc cung Thiện Kiến có hai đường bậc cấp dẫn đến cung điện Đế-thích. Phía Đông cung Thiện Kiến có hai đường bậc cấp dẫn đến vườn Thô Sáp, lại có đường bậc cấp dẫn đến vườn Họa Lạc, lại có đường bậc cấp dẫn đến vườn Tạp, lại có đường bậc cấp dẫn đến vườn Đại Hỷ, lại có đường bậc cấp dẫn đến ao Đại Hỷ, lại có đường bậc cấp dẫn đến cây Trú Độ, lại có đường bậc cấp dẫn đến cung điện trời Ba Mươi Ba, lại có đường bậc cấp dẫn đến cung điện của chư thiên, lại có đường bậc cấp dẫn đến cung điện vua rồng Y-la-bát.

Khi trời Đế-thích muốn đến vườn Thô Sáp thưởng ngoạn, liền nghĩ đến các thiên thần của cõi trời Ba Mươi Ba, khi ấy các thiên thần của cõi trời Ba Mươi Ba liền tự nghĩ: “Đế-thích đang nghĩ đến ta”, lập tức tự trang hoàng cỗ xe ngựa báu cùng vô số người theo hầu vây quanh đi đến trước mặt trời Đế-thích, rồi đứng sang một bên. Đế-thích lại nghĩ đến các chư thiên khác, chư thiên ấy liền tự nghĩ: “Đế-thích đang nghĩ đến ta”, lập tức tự trang hoàng cỗ xe ngựa báu cùng với các chư thiên khác đi đến trước mặt Đế-thích, rồi đứng qua một bên. Đế-thích lại nghĩ đến vua rồng Y-la-bát thì vua rồng Y-la-bát liền tự nghĩ: “Đế-thích đang nghĩ đến ta”, lập tức biến ra thân hình có ba mươi ba đầu, mỗi đầu đều có sáu sừng, mỗi sừng đều có bảy ao tắm, mỗi ao tắm đều có bảy hoa sen lớn, mỗi hoa sen lớn đều có một trăm cánh, mỗi cánh hoa đều có bảy ngọc nữ đánh trống, ca hát, nhảy múa, gảy đàn, vỗ nhịp ở trên đó. Sau khi biến hóa xong, vua rồng liền đi đến trước mặt Đế-thích rồi đứng sang một bên.

Bấy giờ, Thích-đề-hoàn-nhân đeo các trang sức báu và chuỗi ngọc quý vào thân rồi ngự trên đỉnh đầu thứ nhất của vua rồng Y-la-bát. Kế đó, mười sáu vị Thiên vương chia đều hai bên, theo thứ tự ngồi trên đỉnh đầu của vua rồng. Khi Thiên Đế-thích cùng vô số chư thiên và quyến thuộc vây quanh đi đến vườn Thô Sáp, tự nhiên có gió thổi khiến cửa tự mở, tự nhiên có gió thổi khiến đất sạch sẽ, tự nhiên có gió thổi làm hoa rơi trên mặt đất, xác hoa ngập đến đầu gối. Thế rồi, Thiên Đế-thích tự tại ngự trên hai tảng đá Hiền và Thiện Hiền, sau đó ba mươi ba vị Thiên vương cũng đều theo thứ tự mà ngồi. Lại có những chư thiên không được phép theo hầu để thấy được khu vườn ấy, không được vào vườn để cùng hưởng niềm vui năm dục. Vì sao như vậy? Vì do công đức và hạnh nghiệp không đồng. Lại có những chư thiên được thấy khu vườn ấy nhưng không được vào, không được cùng hưởng niềm vui năm dục. Vì sao như vậy? Vì công đức và hạnh nghiệp không đồng. Lại có chư thiên được thấy, được vào khu vườn ấy nhưng không được cùng hưởng niềm vui năm dục. Vì sao như vậy? Vì công đức và hạnh nghiệp cũng không đồng. Lại có chư thiên được thấy, được vào khu vườn ấy và được cùng hưởng niềm vui năm dục. Vì sao như vậy? Vì công đức và hạnh nghiệp đồng nhau.

[0132b10] Sau khi Đế-thích đã vào khu vườn này, mọi người cùng nhau vui chơi từ một ngày, hai ngày,... cho đến bảy ngày, khi đã vui chơi thỏa thích thì trở về cung điện của mình. Trời Đế-thích lại tiếp tục dạo chơi vườn Họa Lạc, vườn Tạp và vườn Đại Hỷ, cũng lại như vậy.

Vì sao gọi là vườn Thô Sáp? Vì khi vào trong khu vườn này thì thân thể tự nhiên thô nhám. Vì sao gọi là vườn Họa Lạc? Vì khi vào trong khu vườn này thì thân thể tự nhiên có những nét màu như vẽ nên lấy đó làm vui thích. Vì sao gọi là vườn Tạp? Vì thường vào những ngày mùng tám, mười bốn và rằm mỗi tháng, ngoại trừ a-tu-la nữ, còn các thể nữ khác được phép tự do cùng đùa giỡn xen lẫn với các thiên tử, nên gọi là vườn Tạp. Vì sao gọi là vườn Đại Hỷ? Vì lúc vào khu vườn này thì hoan hỷ vui chơi, nên gọi là Đại Hỷ. Vì sao gọi là giảng đường Thiện Pháp? Vì khi nhóm họp nơi đây, tư duy về diệu pháp, cảm thọ niềm vui thanh tịnh, cho nên gọi là giảng đường Thiện Pháp. Vì sao gọi là cây Trú Độ? Vì cây này có vị thần tên Mạn-đà, thường tự gảy đàn ca hát để tự vui thích, cho nên gọi là Trú Độ. Vả lại, cây này lớn, cành nhánh che phủ bốn bề, hoa lá sum suê như đám mây báu lớn, nên gọi là Trú Độ.

Thích-đề-hoàn-nhân thường có mười vị thiên tử lớn theo hầu cận, bảo vệ hai bên. Những vị đó là: Một tên Nhân-đà-la, hai tên Cù-di, ba tên Tỳ-lâu, bốn tên Tỳ-lâu-bà-đề, năm tên Đà-la, sáu tên Bà-la, bảy tên Kỳ-bà, tám tên Linh-ê- nậu, chín tên Vật-la và mười tên Nan-đầu. Thích-đề-hoàn-nhân có thần lực lớn và oai đức lớn như thế.

Lại nữa, người ở cõi Diêm-phù-đề rất quý loài hoa mọc trong nước như: Hoa ưu-bát-la, hoa bát-đầu-ma, hoa câu-vật-đầu, hoa phân-đà-lợi, hoa tu-càn- đầu, hương thơm nhẹ nhàng, tinh khiết. Lại có các loài hoa mọc ở đất liền như: Hoa giải thoát, hoa chiêm-bặc, hoa bà-la-đà, hoa tu-mạn-châu-na, hoa bà-sư, hoa đồng nữ. Các cõi Câu-da-ni, Uất-đan-việt, Phất-vu-đãi, cung Rồng, cung chim Cánh Vàng cũng có các loại hoa mọc trong nước và trên đất liền như thế.

Cung a-tu-la có các loại hoa sống trong nước như: Hoa ưu-bát-la, hoa bát- đầu-ma, hoa câu-vật-đầu, hoa phân-đà-lợi, hương thơm nhẹ nhàng, tinh khiết. Các loài hoa mọc ở trên đất liền như: Hoa thù hảo, hoa tân-phù, hoa đại tân- phù, hoa già-già-lợi, hoa đại già-già-lợi, hoa mạn-đà-la, hoa đại mạn-đà-la. Lại nữa, ở các cõi trời Tứ Thiên Vương, cõi trời Ba Mươi Ba, cõi trời Diệm-ma, cõi trời Đâu-suất, cõi trời Hóa Tự Tại và cõi trời Tha Hóa Tự Tại cũng yêu quý các loại hoa sống trong nước và trên đất liền như thế.

[0132c09] Chư thiên có mười phép. Những gì là mười? Một là bay đi không giới hạn. Hai là bay đến không giới hạn. Ba là đi vô ngại. Bốn là đến vô ngại. Năm là thân chư thiên không có da, xương, gân, mạch máu và thịt. Sáu là thân không có đại tiểu tiện bất tịnh. Bảy là thân không mỏi mệt. Tám là thân thiên nữ không sinh sản. Chín là mắt trời không nháy. Mười là thân hiện màu sắc theo ý mình, như thích màu xanh thì hiện màu xanh, thích màu vàng thì hiện màu vàng, thích đỏ, trắng hay các màu sắc khác, đều tùy theo ý thích mà hiện. Đó là mười phép của chư thiên.

Con người có bảy màu sắc. Những gì là bảy? Có người màu ánh kim, có người màu lửa, có người màu xanh, có người màu vàng, có người màu đỏ, có người màu đen, có người màu trắng. Chư thiên, a-tu-la cũng có bảy sắc màu như thế.

– Này Tỳ-kheo! Ánh sáng đom đóm không bằng ánh sáng đèn, nến; ánh sáng đèn, nến không bằng ánh sáng bó đuốc, ánh sáng bó đuốc không bằng ánh sáng của đống lửa, ánh sáng của đống lửa không bằng ánh sáng từ cung điện, thành quách, chuỗi ngọc, y phục và thân thể của Tứ Thiên Vương; ánh sáng từ cung điện, thành quách, chuỗi ngọc, y phục và thân thể của Tứ Thiên Vương không bằng ánh sáng của trời Ba Mươi Ba, ánh sáng của trời Ba Mươi Ba không bằng ánh sáng trời Diệm-ma, ánh sáng trời Diệm-ma không bằng ánh sáng cõi trời Đâu-suất, ánh sáng cõi trời Đâu-suất không bằng ánh sáng của cõi trời Hóa Tự Tại, ánh sáng của cõi trời Hóa Tự Tại không bằng ánh sáng của cõi trời Tha Hóa Tự Tại, ánh sáng của cõi trời Tha Hóa Tự Tại không bằng ánh sáng từ cung điện, y phục, thân thể của trời Phạm-ca-di; ánh sáng từ cung điện, y phục, thân thể của trời Phạm-ca-di không bằng ánh sáng của trời Quang Âm, ánh sáng của trời Quang Âm không bằng ánh sáng của cõi trời Biến Tịnh, ánh sáng của cõi trời Biến Tịnh không bằng ánh sáng của cõi trời Quả Thật, ánh sáng của cõi trời Quả Thật không bằng ánh sáng của trời Vô Tưởng, ánh sáng của trời Vô Tưởng không bằng ánh sáng của trời Vô Tạo, ánh sáng của trời Vô Tạo không bằng ánh sáng của trời Vô Nhiệt, ánh sáng của trời Vô Nhiệt không bằng ánh sáng của trời Thiện Kiến, ánh sáng của trời Thiện Kiến không bằng ánh sáng trời Đại Thiện, ánh sáng của trời Đại Thiện lại không bằng ánh sáng của cõi trời Sắc Cứu Cánh, ánh sáng của trời Sắc Cứu Cánh không bằng ánh sáng của trời Đại Tự Tại; ánh sáng của của trời Đại Tự Tại không bằng ánh sáng của đức Phật. Gom hết tất cả ánh sáng, từ ánh sáng của đom đóm,... cho đến ánh sáng của đức Phật, cũng không bằng ánh sáng của khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế. Vì thế, này các Tỳ-kheo! Muốn tìm cầu ánh sáng, nên tìm cầu ánh sáng của khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế. Các thầy hãy nên như vậy mà tu hành.

[0133a10] Thân người cõi Diêm-phù cao ba khuỷu tay rưỡi, áo dài bảy khuỷu tay, rộng ba khuỷu tay rưỡi. Thân người Cù-da-ni và Phất-vu-đãi cũng cao ba khuỷu tay rưỡi, áo dài bảy khuỷu tay, rộng ba khuỷu tay rưỡi. Thân người Uất- đan-việt cao bảy khuỷu tay, áo dài mười bốn khuỷu tay, rộng bảy khuỷu tay, y phục nặng một lượng. Thân a-tu-la cao một do-tuần, áo dài hai do-tuần, rộng một do-tuần, y phục nặng sáu thù.71 Thân của Tứ Thiên Vương cao nửa do-tuần, áo dài một do-tuần, rộng nửa do-tuần, y phục nặng nửa lượng. Thân của trời Đao-lợi cao một do-tuần, áo dài hai do-tuần, rộng một do-tuần, y phục nặng sáu thù. Thân của trời Diệm-ma cao hai do-tuần, áo dài bốn do-tuần, rộng hai do- tuần, y phục nặng ba thù. Thân của trời Đâu-suất cao bốn do-tuần, áo dài tám do-tuần, rộng bốn do-tuần, y phục nặng một thù rưỡi. Thân của trời Hóa Tự Tại cao tám do-tuần, áo dài mười sáu do-tuần, rộng tám do-tuần, y phục nặng một thù. Thân của trời Tha Hóa Tự Tại cao mười sáu do-tuần, áo dài ba mươi hai do-tuần, rộng mười sáu do-tuần, y phục nặng nửa thù. Từ chư thiên trở lên, mỗi nơi tùy theo thân của họ mà mặc y phục.

Tuổi thọ của người cõi Diêm-phù-đề là một trăm tuổi, hoặc hơn kém số đó một ít. Tuổi thọ của người cõi Cù-da-ni là hai trăm tuổi, hoặc hơn kém số đó một ít. Tuổi thọ của người cõi Phất-vu-đãi là ba trăm tuổi, hoặc hơn kém số đó một ít. Tuổi thọ của người cõi Uất-đan-việt là một ngàn tuổi, không tăng không giảm. Tuổi thọ của cõi ngạ quỷ là bảy mươi ngàn năm, hoặc hơn kém số đó một ít. Tuổi thọ loài rồng và chim Cánh Vàng là một kiếp, hoặc ít hơn. Tuổi thọ của a-tu-la là một ngàn tuổi cõi trời, hoặc hơn kém số đó một ít. Tuổi thọ của Tứ Thiên Vương là năm trăm tuổi cõi trời, hoặc hơn kém số đó một ít. Tuổi thọ của trời Đao-lợi là một ngàn tuổi cõi trời, hoặc hơn kém số đó một ít. Tuổi thọ của trời Diệm-ma là hai ngàn tuổi cõi trời, hoặc hơn kém số đó một ít. Tuổi thọ của trời Đâu-suất là bốn ngàn tuổi cõi trời, hoặc hơn kém số đó một ít. Tuổi thọ của trời Hóa Tự Tại là tám ngàn tuổi cõi trời, hoặc hơn kém số đó một ít. Tuổi thọ của trời Tha Hóa Tự Tại là mười sáu ngàn tuổi cõi trời, hoặc hơn kém số đó một ít. Tuổi thọ của trời Phạm-ca-di là một kiếp, hoặc ít hơn. Tuổi thọ của cõi trời Quang Âm là hai kiếp, hoặc ít hơn. Tuổi thọ của cõi trời Biến Tịnh là ba kiếp, hoặc ít hơn. Tuổi thọ của cõi trời Quả Thật là bốn kiếp, hoặc ít hơn. Tuổi thọ của trời Vô Tưởng là năm trăm kiếp, hoặc ít hơn. Tuổi thọ của cõi trời Vô Tạo là một ngàn kiếp, hoặc ít hơn. Tuổi thọ của cõi trời Vô Nhiệt là hai ngàn kiếp, hoặc ít hơn. Tuổi thọ của cõi trời Thiện Kiến là ba ngàn kiếp, hoặc ít hơn. Tuổi thọ của cõi trời Đại Thiện Kiến là bốn ngàn kiếp, hoặc ít hơn. Tuổi thọ của cõi trời Sắc Cứu Cánh là năm ngàn kiếp, hoặc ít hơn. Tuổi thọ của cõi trời Không Vô Biên Xứ là mười ngàn kiếp, hoặc ít hơn. Tuổi thọ của cõi trời Thức Vô Biên Xứ là hai mươi mốt ngàn kiếp, hoặc ít hơn. Tuổi thọ của cõi trời Vô Sở Hữu Xứ là bốn mươi hai ngàn kiếp, hoặc ít hơn. Tuổi thọ của cõi trời Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ là tám mươi bốn ngàn kiếp, hoặc ít hơn.

Trong giới hạn ấy, được gọi là chúng sanh; trong giới hạn ấy, được gọi là tuổi thọ; trong giới hạn ấy, được gọi là thế giới; trong giới hạn ấy, được gọi là sự luân chuyển của tập hợp uẩn, xứ, giới, qua lại trong các cõi, sanh, già, bệnh, chết.

[0133b17] Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

– Tất cả chúng sanh đều nhờ bốn loại thức ăn mà tồn tại. Bốn loại ấy là gì? Một là đoàn thực hay tế hoạt thực. Hai là xúc thực. Ba là niệm thực. Bốn là thức thực. Những loại thức ăn của chúng sanh không giống nhau. Như con người cõi Diêm-phù-đề dùng các loại cơm, bún, mì, cá, thịt làm đoàn thực, còn tắm gội, y phục là tế hoạt thực. Con người cõi Cù-da-ni và Phất-vu-đãi cũng dùng các loại cơm, bún, mì, cá, thịt làm đoàn thực, còn tắm gội, y phục là tế hoạt thực. Con người cõi Uất-đan-việt chỉ dùng lúa thóc tự nhiên, đầy đủ các vị ngon bổ làm đoàn thực, còn tắm gội, y phục là tế hoạt thực. Loài rồng và chim Cánh Vàng dùng cá, ba ba... làm đoàn thực, còn tắm gội, y phục là tế hoạt thực.

A-tu-la dùng thức ăn tinh sạch làm đoàn thực, còn tắm gội, y phục là tế hoạt thực. Tứ Thiên Vương, trời Đao-lợi, trời Diệm-ma, trời Đâu-suất, trời Hóa Tự Tại và trời Tha Hóa Tự Tại đều lấy thức ăn tinh sạch làm đoàn thực, còn y phục, tắm gội là tế hoạt thực. Chư thiên từ cõi này trở lên đều dùng hỷ lạc của thiền định làm thức ăn.

Những chúng sanh nào dùng xúc thực? Những chúng sanh được sanh ra từ trứng đều dùng xúc thực. Những chúng sanh nào dùng niệm thực? Có những chúng sanh nhờ vào niệm thực mà được tồn tại, tăng trưởng các căn và duy trì thân mạng, đó là niệm thực. Những chúng sanh nào dùng thức thực? Là những chúng sanh ở địa ngục và cõi trời Vô Sắc đều dùng thức thực.

[0133c04] Người ở cõi Diêm-phù-đề tự nuôi sống bằng nghề kinh doanh mua bán các thứ vàng bạc, châu báu, lúa gạo, gấm lụa, nô bộc. Người ở cõi Cù-da-ni tự nuôi sống bằng nghề mua bán, trao đổi bò dê, châu báu. Người ở cõi Phất-vu-đãi tự nuôi sống bằng nghề mua bán lúa gạo, gấm lụa, châu ngọc. Người ở cõi Uất-đan-việt không nuôi sống bằng nghề buôn bán nhưng vẫn mưu sinh để tự nuôi sống. Người cõi Diêm-phù-đề, cõi Cù-da-ni và Phất-vu-đãi đều có hôn nhân qua lại, có sự cưới gả giữa nam và nữ. Người Uất-đan-việt thì không có hôn nhân, không có sự cưới gả giữa nam và nữ. Loài rồng, chim Cánh Vàng và a-tu-la cũng có hôn nhân, có sự cưới gả giữa nam và nữ. Tứ Thiên Vương, trời Đao-lợi cho đến trời Tha Hóa Tự Tại cũng có hôn nhân, có sự cưới gả giữa nam và nữ. Chư thiên từ cõi này trở lên thì không còn nam và nữ.

Người ở cõi Diêm-phù-đề, do có sự giao hội giữa nam và nữ, hai thân xúc chạm nhau nên sanh ra âm dương. Người cõi Cù-da-ni, Phất-vu-đãi và cõi Uất-đan-việt cũng đều do hai thân xúc chạm nhau nên sanh ra âm dương. Loài rồng và chim Cánh Vàng cũng do hai thân xúc chạm nên sanh ra âm dương. Loài a-tu-la do hai thân gần nhau, phát sanh khí mà thành âm dương. Tứ Thiên Vương, trời Đao-lợi cũng như vậy. Trời Diệm-ma thì khi gần nhau liền sanh âm dương. Trời Đâu-suất khi nam nữ nắm tay nhau tức thành âm dương. Trời Hóa Tự Tại khi họ nhìn ngắm nhau tức thành âm dương. Trời Tha Hóa Tự Tại khi họ nháy mắt tức thành âm dương. Chư thiên từ cõi này trở lên thì không còn dâm dục.

Nếu có chúng sanh nào thân làm việc ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ điều ác thì sau khi thân hoại mạng chung bị đọa vào địa ngục, thức sau cùng ở cõi này diệt, thức trong loài địa ngục72 bắt đầu sanh, do có thức mà có danh sắc, do có danh sắc mà có lục nhập. Hoặc có chúng sanh thân làm việc ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ điều ác thì sau khi thân hoại mạng chung bị đọa vào loài súc sanh, thức sau cùng ở cõi này diệt, thức trong cõi súc sanh bắt đầu sanh, do có thức mà có danh sắc, do có danh sắc mà có lục nhập. Hoặc có chúng sanh thân làm việc ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ điều ác thì sau khi thân hoại mạng chung bị đọa vào loài ngạ quỷ, thức sau cùng ở cõi này diệt, thức trong cõi ngạ quỷ bắt đầu sanh, do có thức mà có danh sắc, do có danh sắc mà có lục nhập.

Hoặc có chúng sanh nào thân làm việc thiện, miệng nói lời thiện và ý nghĩ điều thiện thì sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào loài người, thức sau cùng ở cõi này diệt, thức trong cõi người bắt đầu sanh, do có thức mà có danh sắc, do có danh sắc mà có lục nhập.

[0134a01] Hoặc có chúng sanh thân làm việc thiện, miệng nói lời thiện và ý nghĩ điều thiện thì sau khi thân hoại mạng chung được sanh trong cõi Tứ Thiên Vương, thức sau cùng ở cõi này diệt, thức trong Tứ Thiên Vương bắt đầu sanh, do có thức mà có danh sắc, do có danh sắc mà có lục nhập. Lúc mới sanh ở cõi trời, hình hài như đứa trẻ một hai tuổi ở nhân gian, tự nhiên hóa hiện, ngồi trên đầu gối vị trời. Vị trời ấy liền nói: “Đây là con ta.” Do phước báo hạnh nghiệp nên tự nhiên trí tuệ phát sanh, liền tự nghĩ: “Ta do hành nghiệp gì mà nay sanh vào cõi này?” Rồi lại nghĩ: “Xưa, ta làm người trong nhân gian, thân làm hạnh lành, miệng nói lời lành, ý nghĩ điều lành, nhờ hạnh nghiệp này, nay được sanh lên cõi trời. Nếu sau khi mạng chung ở cõi này, sanh trở lại trong nhân gian thì cũng giữ gìn thân, miệng và ý trong sạch, nỗ lực tu tập, siêng năng làm các hạnh lành gấp bội phần trước kia.”

Đứa trẻ cõi trời sanh ra không lâu sau thì biết đói, lúc ấy tự nhiên có bát báu đựng thức ăn thanh tịnh tự nhiên của cõi trời hiện ra trước mặt, đủ trăm hương vị. Nếu đứa trẻ cõi trời này nhiều phước thì thức ăn trong bát có màu trắng, ít phước hơn thì thức ăn có màu xanh, phước mỏng thì thức ăn hiện màu đỏ. Đứa bé đó dùng tay bốc thức ăn để vào miệng, thức ăn tự nhiên tan biến, như bơ ném vào trong lửa. Ăn xong, đứa bé vừa mới có cảm giác khát thì có chén báu đựng nước cam lồ tự nhiên hiện đến. Nếu đứa trẻ cõi trời này nhiều phước thì nước trong chén có màu trắng, ít phước hơn thì nước trong chén có màu xanh, phước mỏng thì nước trong chén hiện màu đỏ. Đứa bé bưng nước uống, nước tự nhiên tiêu hóa, như bơ ném vào trong lửa. Ăn uống xong, thân thể đứa bé ấy bỗng nhiên cao lớn, sánh bằng các vị trời khác, liền vào ao tắm, tắm gội sạch sẽ, tự hưởng thú vui. Sau khi tự hưởng thú vui, vị trời ra khỏi ao, đến bên cây Hương, cây tự rũ xuống, rồi tự tay lấy các loại hương xoa lên thân thể. Sau đó lại đến cây Y Kiếp-bối, cây tự rũ xuống, vị trời ấy tự tay lấy các loại y phục, mặc vào thân mình. Rồi đến cây Trang Nghiêm, cây tự rũ xuống, vị trời ấy tự tay lấy các thứ trang sức, tự trang sức cho mình. Lại đến cây Man, cây tự rũ xuống, vị trời liền tự tay lấy các loại tràng hoa cài lên đầu. Tiếp theo đến cây Khí, cây tự rũ xuống, vị trời ấy liền tự tay lấy các vật dụng quý báu. Sau đó đến cây Quả, cây tự rũ xuống, vị trời tự tay hái trái tự nhiên, hoặc ăn, hoặc ngậm, hoặc vắt lấy nước uống. Lại đến cây Nhạc Khí, cây tự rũ xuống, vị ấy lấy các loại nhạc khí cõi trời, gảy lên âm thanh trong trẻo hòa quyện lời ca. Rồi vị trời ấy đến các khu vườn, trông thấy vô số thiên nữ đang gảy đàn, đánh trống, ca hát, nói cười cùng nhau. Vị trời ấy dạo chơi, thấy những cảnh như vậy thì sanh tâm đắm nhiễm, đến nỗi nhìn Đông thì quên Tây, nhìn Tây thì quên Đông. Tuy lúc mới sanh, đứa trẻ tự biết và suy nghĩ: “Ta do hành nghiệp gì mà nay được sanh về cõi này?” nhưng trong lúc dạo chơi ngắm cảnh, vị trời ấy lại quên hết ý niệm này. Ngay khi ấy, vị trời liền có thể nữ theo hầu.

[0134b02] Nếu có chúng sanh thân làm việc lành, miệng nói lời lành, ý nghĩ điều lành thì sau khi mạng chung được sanh về cõi Đao-lợi, thức sau cùng ở cõi này diệt, thức trong cõi ấy bắt đầu sanh. Do có thức này mà có danh sắc, do có danh sắc mà có lục nhập. Khi đứa trẻ mới sanh, hình thể giống như đứa bé hai, ba tuổi ở cõi Diêm-phù-đề, tự nhiên hóa hiện, ngồi trên đầu gối của vị trời. Vị trời ấy liền nói: “Đây là con trai ta, đây là con gái ta.” Sự việc cũng như đã kể trên.

Hoặc có chúng sanh thân làm việc lành, miệng nói lời lành, ý nghĩ điều lành, sau khi mạng chung được sanh vào cõi trời Diệm-ma. Khi đứa trẻ mới sanh, hình thể giống như đứa bé ba, bốn tuổi ở cõi Diêm-phù-đề.

Hoặc có chúng sanh thân, miệng và ý đều hành thiện, sau khi thân hoại mạng chung được sanh về cõi trời Đâu-suất. Khi đứa trẻ mới sanh, hình thể giống như đứa bé bốn, năm tuổi ở thế gian này. Hoặc có chúng sanh thân, miệng và ý đều hành thiện, sau khi thân hoại mạng chung được sanh vào cõi trời Hóa Tự Tại. Khi đứa trẻ mới sanh, hình thể giống như đứa bé năm, sáu tuổi ở thế gian này. Hoặc có chúng sanh thân, miệng và ý đều hành thiện, sau khi mạng chung được sanh vào cõi trời Tha Hóa Tự Tại. Khi đứa trẻ mới sanh, hình thể giống như đứa bé sáu, bảy tuổi ở thế gian này, cũng lại như vậy.

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

– Mỗi nửa tháng có ba ngày trai giới, đó là ngày mùng tám, ngày mười bốn và ngày rằm. Đó là ba ngày trai giới. Vì sao lấy mùng tám làm ngày trai giới? Vì vào ngày mùng tám, Tứ Thiên Vương thường bảo sứ giả:

“Các ngươi hãy đi tuần tra thế gian, quan sát muôn dân, xem xét có ai biết hiếu thuận với cha mẹ, cung kính Sa-môn, Bà-la-môn, tôn trọng trưởng lão, tu trì trai giới, bố thí cúng dường, cứu giúp những người nghèo khổ chăng?”

Bấy giờ, vâng lệnh Tứ Thiên Vương, sứ giả liền đi tuần tra khắp thiên hạ để biết được những ai hiếu thảo cha mẹ, cung kính Sa-môn, Bà-la-môn, tôn trọng các trưởng lão, tu trì trai giới, bố thí cho người nghèo khổ. Sau khi quán sát kỹ, thấy trong đời phần nhiều bất hiếu với cha mẹ, không cung kính thầy tổ, không tu trai giới, không bố thí cho người nghèo đói, sứ giả liền trở về thưa:

“Tâu Thiên vương! Ở thế gian, người hiếu thuận cha mẹ, tôn thờ sư trưởng, tu hành trai giới thanh tịnh, bố thí cho người nghèo khó, quả thật rất ít, rất ít!”

Vừa nghe xong, Tứ Thiên Vương buồn bã không vui, rồi nói:

“Than ôi! Thật đáng buồn thay! Nếu người ở thế gian làm nhiều điều xấu ác, không hiếu thảo với cha mẹ, không kính trọng thầy tổ, không tu tập trai giới, không bố thí cho người nghèo khổ thì chúng trời sẽ giảm xuống, chúng a-tu-la sẽ tăng thêm.”

Nếu sứ giả trông thấy ở thế gian có người hiếu thuận với cha mẹ, tôn thờ sư trưởng, siêng năng tu hành trai giới, bố thí cho người nghèo khó thì trở về thưa với Thiên vương:

“Ở thế gian có những người biết hiếu thảo với cha mẹ, cung kính tôn thờ thầy tổ, siêng năng tu hành trai giới, bố thí cho người nghèo.”

Tứ Thiên Vương nghe xong, vô cùng hoan hỷ nói rằng:

“Hay thay! Ta nhận được tin tốt lành. Nếu thế gian có người biết hiếu thảo với cha mẹ, tôn thờ sư trưởng, siêng tu trai giới, bố thí cho người nghèo khổ thì chúng trời sẽ tăng thêm, chúng a-tu-la giảm xuống.”

[0134c05] Vì sao lấy ngày mười bốn làm ngày trai giới? Vì vào ngày đó, Tứ Thiên Vương thường bảo thái tử:

“Ngươi hãy đi tuần tra khắp thiên hạ, quan sát muôn dân, xem xét trong đời có ai biết hiếu thảo với cha mẹ, tôn thờ sư trưởng, siêng tu tập trai giới, bố thí cho người nghèo khó chăng?”

Vâng lệnh vua, thái tử liền đi tuần khắp thế gian, quan sát muôn dân, biết được ở thế gian có những người bất hiếu với cha mẹ, không tôn kính sư trưởng, không tu trai giới, không bố thí cho người nghèo khó. Khi quan sát xong, thái tử liền trở về cung thưa:

“Tâu Thiên vương! Người ở thế gian hiếu thuận với cha mẹ, tôn kính sư trưởng, tu hành trai giới thanh tịnh, cứu giúp những người nghèo khó, quả thật rất ít, rất ít!”

Vừa nghe xong, Tứ Thiên Vương buồn bã không vui rồi nói:

“Than ôi! Thật đáng buồn thay! Người đời làm nhiều điều xấu ác, không hiếu thảo với cha mẹ, không tôn thờ sư trưởng, không tu trai giới, không bố thí cho người nghèo khổ thì chúng trời sẽ giảm xuống, chúng a-tu-la sẽ tăng lên.”

Nếu thái tử trông thấy ở thế gian có rất nhiều người biết hiếu thảo với cha mẹ, cung kính sư trưởng, siêng tu trai giới và bố thí cho người nghèo khổ thì trở về thưa:

  “Tâu Thiên vương! Người ở thế gian đa số biết hiếu thảo với cha mẹ, cung kính thầy tổ, siêng tu trai giới và bố thí cho những người nghèo khổ.”

Tứ Thiên Vương nghe xong, trong lòng hoan hỷ rồi nói:

“Hay thay! Ta đón nhận tin tốt lành. Nếu ở thế gian có người hiếu thảo với cha mẹ, tôn kính sư trưởng, siêng tu trai giới và bố thí cho người nghèo khó thì chúng trời sẽ tăng lên, chúng a-tu-la giảm xuống. Vì lẽ đó nên gọi ngày mười bốn là ngày trai giới.”

Vì sao lấy ngày rằm làm ngày trai giới? Vì vào ngày đó, Tứ Thiên Vương đích thân đi tuần khắp thiên hạ, quan sát muôn dân, xem xét có ai biết phụng dưỡng cha mẹ, tôn kính sư trưởng, siêng tu trai giới và bố thí cho những người nghèo khó chăng? Nếu nhìn thấy thế gian phần nhiều bất hiếu với cha mẹ, không tôn kính sư trưởng, không tu trai giới, không bố thí cho những người nghèo khó, lúc đó Tứ Thiên Vương đến cung điện Thiện Pháp thưa với Đế-thích:

“Tâu Đại vương! Ngài nên biết, người ở thế gian phần nhiều bất hiếu với cha mẹ, không tôn thờ sư trưởng, không siêng tu trai giới và không bố thí cho người nghèo khó.”

Đế-thích cùng chư thiên cõi Đao-lợi nghe xong, trong lòng lo buồn không vui rồi nói:

“Thật đáng buồn thay! Nếu người thế gian phần nhiều làm điều xấu ác, không hiếu thuận cha mẹ, không tôn thờ sư trưởng, không siêng tu trai giới, không bố thí cho những người nghèo khó thì chúng trời sẽ giảm xuống, chúng a-tu-la sẽ tăng lên.”

Nếu Tứ Thiên Vương nhận thấy người đời biết hiếu thảo với cha mẹ, cung kính sư trưởng, siêng tu trai giới và bố thí cho người nghèo khó thì trở về, đến giảng đường Thiện Pháp tâu với Đế-thích:

“Ở thế gian có những người biết hiếu thảo với cha mẹ, tôn kính sư trưởng, siêng tu trai giới và bố thí cho người nghèo khó.”

Đế-thích và chư thiên Đao-lợi nghe xong, lòng rất hoan hỷ rồi nói:

“Lành thay! Ở đời còn có người biết hiếu thuận với cha mẹ, tôn kính sư trưởng, siêng tu trai giới và bố thí cho người nghèo khó, nhờ vậy chúng trời sẽ tăng lên, chúng a-tu-la sẽ giảm xuống. Thế nên gọi ngày rằm là ngày trai giới. Từ những điều trên, nên có ba ngày trai giới này.”

Bấy giờ, Đế-thích mong muốn chư thiên càng thêm hoan hỷ, liền nói kệ:

Mỗi tháng vào những ngày,                                
Mồng tám, mười bốn, rằm,
Những ai tu trai giới,                                                     
Thì đồng với ta đây!

[0135a16] Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

– Đế-thích nói bài kệ ấy, chẳng phải là khéo lãnh thọ, chẳng phải là khéo giảng nói, nên Ta không chấp thuận. Vì sao như vậy? Vì trời Đế-thích chưa dứt sạch dâm dục, sân hận và si mê, cũng chưa thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, lo buồn, khổ não. Ta cho rằng vị ấy chưa lìa gốc khổ. Nếu có vị Tỳ-kheo nào dứt sạch hết lậu hoặc, chứng A-la-hán ở trong chánh pháp của Ta, việc cần làm đã làm xong, đã đặt gánh nặng xuống, đạt được mục đích của mình, dứt hết các phiền não kiết sử, thành tựu chánh trí giải thoát, Tỳ-kheo đó mới nên nói kệ:

Mỗi tháng vào những ngày, 
Mồng tám, mười bốn, rằm,
Những ai tu trai giới,                                                       
Thì đồng với ta đây!

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

- Tỳ-kheo kia nói bài kệ này mới gọi là khéo lãnh thọ, mới gọi là khéo giảng nói, nên được Ta chấp thuận. Vì sao như vậy? Vì Tỳ-kheo ấy đã dứt sạch dâm dục, sân hận và si mê, cũng đã thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, lo buồn, khổ não. Ta nói vị ấy đã xa lìa gốc khổ.

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

- Tất cả nhà cửa của dân chúng đều có quỷ thần cư ngụ, không chỗ nào là không có. Hết thảy đường sá, ngã tư, hàng thịt, chợ quán cho đến bãi tha ma cũng đều có quỷ thần cư ngụ, không chỗ nào là không có. Các loại quỷ thần đều được đặt tên theo chỗ họ cư ngụ. Nếu vị thần đó nương tựa người thì gọi thần cõi người, nương tựa thôn thì gọi thần thôn, nương tựa thành trì thì gọi thần thành, nương tựa quốc gia thì gọi thần quốc gia, nương tựa đất thì gọi thần đất, nương tựa núi thì gọi thần núi, nương tựa sông thì gọi là thần sông.

[0135b03] Phật bảo Tỳ-kheo:

- Tất cả mọi loài cây cối, dù nhỏ như trục xe cũng đều có quỷ thần nương tựa, không chỗ nào là không có. Tất cả con người, bất luận nam, nữ, từ lúc mới sanh ra đều có quỷ thần theo hộ vệ, đến khi con người sắp lâm chung, quỷ thần giữ lấy rồi thu lấy tinh khí của họ, khiến người đó lập tức lâm chung.

Này Tỳ-kheo! Giả sử có Phạm chí ngoại đạo hỏi: “Chư Hiền! Nếu tất cả nam, nữ lúc mới sanh ra đều có quỷ thần theo hộ vệ, cho đến khi con người sắp lâm chung thì quỷ thần giữ lấy họ, thu lấy tinh khí của họ, khiến người đó lập tức lâm chung, tại sao hiện nay có người bị quỷ thần quấy nhiễu, có người không bị quỷ thần quấy nhiễu?” Nếu có ai hỏi như thế thì các thầy hãy trả lời với họ rằng: “Vì người đời hành nghiệp phi pháp, tà kiến điên đảo, gây tạo mười nghiệp ác, những người như thế, trong trăm hay ngàn người mới có một quỷ thần hộ vệ. Cũng giống như đàn bò, đàn dê có cả trăm con, ngàn con nhưng chỉ có một người chăn mà thôi. Trường hợp con người cũng vậy, do làm điều phi pháp, tà kiến điên đảo, gây tạo mười điều ác, những người như thế, trong trăm hay ngàn người mới có một quỷ thần theo bảo hộ. Nếu có người thực hành thiện pháp, tin và thực hành theo chánh kiến, đầy đủ mười nghiệp lành, một người như thế sẽ có trăm ngàn vị thần theo hộ vệ. Ví như quốc vương và đại thần của quốc vương có hàng trăm, hàng ngàn người theo hộ vệ một người. Trường hợp này cũng vậy, người chuyên tu thiện pháp, đầy đủ mười nghiệp lành, người ấy chắc chắn có trăm ngàn quỷ thần theo hộ vệ. Vì lý do đó nên thế gian có người bị quỷ thần quấy nhiễu, có người không bị quỷ thần quấy nhiễu.”

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

– Người ở cõi Diêm-phù-đề có ba năng lực hơn người ở cõi Cù-da-ni. Những gì là ba? Một là, người dân dũng mãnh, nhớ dai, có khả năng làm được các việc; hai là, người dân dũng mãnh, nhớ dai, chuyên cần tu Phạm hạnh; ba là, người dân dũng mãnh, nhớ dai, Phật xuất hiện ở cõi này. Do có ba điều này nên người cõi Diêm-phù-đề hơn người ở cõi Cù-da-ni. Người ở cõi Cù-da-ni có ba việc hơn người cõi Diêm-phù-đề. Những gì là ba? Một là, nuôi nhiều bò; hai là, nuôi nhiều dê; ba là, có nhiều châu báu. Do ba điều này mà người ở cõi Cù-da-ni hơn người cõi Diêm-phù-đề.

Người cõi Diêm-phù-đề có ba việc hơn người cõi Phất-vu-đãi. Ba điều ấy là gì? Một là, người dân dũng mãnh, nhớ dai, có khả năng làm được mọi việc; hai là, người dân dũng mãnh, nhớ dai, có khả năng tu Phạm hạnh; ba là, người dân dũng mãnh, nhớ dai, Phật xuất hiện ở cõi này. Do có ba điều này nên người cõi Diêm-phù-đề hơn người ở cõi Phất-vu-đãi. Người ở cõi Phất-vu-đãi có ba việc hơn người cõi Diêm-phù-đề. Ba điều ấy là gì? Một là, cõi này cực rộng; hai là, cõi này cực lớn; ba là, quốc độ vô cùng tốt đẹp. Do ba điều này mà người cõi Phất-vu-đãi hơn người cõi Diêm-phù-đề.

[0135c05] Người cõi Diêm-phù-đề hơn người cõi Uất-đan-việt ba điều. Ba điều ấy là gì? Một là, người dân dũng mãnh, nhớ dai, có khả năng làm được mọi việc; hai là, người dân dũng mãnh, nhớ dai, có khả năng tu Phạm hạnh; ba là, người dân dũng mãnh, nhớ dai, Phật xuất hiện ở cõi này. Do ba điều ấy nên người cõi Diêm-phù-đề hơn người cõi Uất-đan-việt. Người cõi Uất-đan-việt hơn người cõi Diêm-phù-đề ba điều. Ba điều ấy là gì? Một là, không bị trói buộc; hai là, không có ngã sở; ba là, tuổi thọ cố định là một ngàn năm. Do ba điều ấy mà người cõi Uất-đan-việt hơn người cõi Diêm-phù-đề.

Người cõi Diêm-phù-đề cũng do ba điều trên mà hơn ngạ quỷ. Ngạ quỷ cũng có ba điều hơn người cõi Diêm-phù-đề. Ba điều ấy là gì? Một là, trường thọ; hai là, thân cao lớn; ba là, người làm mà mình thọ dụng. Do ba điều này nên ngạ quỷ hơn cõi Diêm-phù-đề.

Người cõi Diêm-phù-đề cũng do ba điều trên mà hơn loài rồng và chim Cánh Vàng. Loài rồng và chim Cánh Vàng cũng có ba điều hơn người cõi Diêm-phù-đề. Ba điều ấy là gì? Một là, trường thọ; hai là, thân lớn; ba là, cung điện. Do ba điều này nên loài rồng và chim Cánh Vàng hơn người cõi Diêm- phù-đề.

Người cõi Diêm-phù-đề cũng do ba điều trên mà hơn loài a-tu-la. A-tu-la cũng có ba điều hơn người cõi Diêm-phù-đề. Ba điều ấy là gì? Một là, cung điện cao rộng; hai là, cung điện trang nghiêm; ba là, cung điện thanh tịnh. Do ba điều này mà a-tu-la hơn người cõi Diêm-phù-đề.

Người cõi Diêm-phù-đề cũng do ba điều trên mà hơn Tứ Thiên Vương. Tứ Thiên Vương lại có ba điều hơn người cõi Diêm-phù-đề. Ba điều ấy là gì? Một là, trường thọ; hai là, đoan chánh; ba là, nhiều niềm vui. Do ba điều này nên Tứ Thiên Vương hơn người cõi Diêm-phù-đề.

Người cõi Diêm-phù-đề cũng do ba điều trên mà hơn chư thiên cõi trời Đao- lợi, cõi trời Diệm-ma, cõi trời Đâu-suất, cõi trời Hóa Tự Tại và cõi trời Tha Hóa Tự Tại. Chư thiên những cõi này cũng có ba điều hơn người cõi Diêm-phù-đề. Ba điều ấy là gì? Một là, trường thọ; hai là, đoan chánh; ba là, nhiều niềm vui.

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

– Chúng sanh cõi Dục có mười hai loại. Mười hai loại ấy là gì? Một là địa ngục, hai là súc sanh, ba là ngạ quỷ, bốn là người, năm là a-tu-la, sáu là Tứ Thiên Vương, bảy là trời Đao-lợi, tám là trời Diệm-ma, chín là trời Đâu-suất, mười là trời Hóa Tự Tại, mười một là trời Tha Hóa Tự Tại, mười hai là Thiên ma.73

Chúng sanh cõi Sắc có hai mươi hai loại, đó là: Một là trời Phạm Thân, hai là trời Phạm Phụ, ba là trời Phạm Chúng, bốn là trời Đại Phạm, năm là cõi Quang Thiên, sáu là trời Thiểu Quang, bảy là trời Vô Lượng Quang, tám là trời Quang Âm, chín là cõi Tịnh Thiên, mười là trời Thiểu Tịnh, mười một là trời Vô Lượng Tịnh, mười hai là trời Biến Tịnh, mười ba là trời Nghiêm Sức, mười bốn là trời Tiểu Nghiêm Sức, mười lăm là trời Vô Lượng Nghiêm Sức, mười sáu là trời Nghiêm Sức Quả Thật, mười bảy là trời Vô Tưởng, mười tám là trời Vô Tạo, mười chín là trời Vô Nhiệt, hai mươi là trời Thiện Kiến, hai mươi mốt là trời Đại Thiện Kiến và hai mươi hai là trời A-ca-ni-trá.

Chúng sanh cõi Vô sắc có bốn loại. Bốn loại ấy là gì? Một là trời Không Trí, hai là trời Thức Trí, ba là trời Vô Sở Hữu Trí và bốn là trời Hữu Tưởng Vô Tưởng Trí.74

[0136a14] Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

– Có bốn đại thiên thần. Những gì là bốn. Đó là Địa thần, Thủy thần, Phong thần và Hoả thần. Thuở xưa, địa thần khởi lên nhận thức sai lầm, cho rằng: “Trong đất không có nước, lửa và gió.” Lúc đó, Ta biết ý niệm của địa thần này, liền đến bảo:

“Có phải ngươi từng nghĩ: ‘Trong đất không có nước, lửa và gió chăng?’” Địa thần trả lời:

“Trong đất quả thật không có nước, lửa và gió.”

Bấy giờ, Ta nói:

“Ngươi chớ sanh khởi ý niệm cho rằng ‘trong đất không có nước, lửa và gió.’ Vì sao như vậy? Vì trong đất có nước, lửa và gió, chỉ vì đất chiếm nhiều hơn nên lấy đất mà gọi tên.”

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

- Lúc đó, Ta lần lượt giảng pháp, mở bày, dạy bảo, khích lệ, khiến cho hoan hỷ75 để dứt trừ nhận thức sai lầm của địa thần. Ta giảng về bố thí, luận về giữ giới, về sanh thiên, tham dục là ô uế, căn bản phiền não là tai họa, giải thoát là cao tột và chỉ bày, khai mở Phạm hạnh thanh tịnh. Khi Ta biết tâm niệm của địa thần đã thanh tịnh, nhu nhuyến, hoan hỷ, không còn cấu uế, có thể lãnh thọ giáo pháp, như thường pháp của chư Phật, Ta giảng rộng Thánh đế về khổ, Thánh đế về nguyên nhân của khổ, Thánh đế khi khổ diệt và Thánh đế về con đường diệt khổ. Khi ấy, địa thần ngay nơi chỗ ngồi, liền xa lìa trần cấu, chứng được pháp nhãn tịnh. Cũng như tấm lụa trắng sạch, rất dễ nhuộm màu, địa thần cũng vậy, tín tâm đã thanh tịnh, được pháp nhãn tịnh, không còn hồ nghi, đã thấy pháp, đắc pháp, không còn đọa vào đường ác, không tin nơi khác,76 được vô sở úy,77 liền bạch với Ta rằng:

“Nay con xin quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng, kính xin Ngài chấp nhận con được làm ưu-bà-di trong Chánh pháp! Từ nay về sau, cho đến trọn đời, con không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu.”

[0136b03] Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

- Thuở xưa, thủy thần khởi ý niệm sai lầm rằng: “Trong nước không có đất, lửa và gió.” Khi đó, địa thần biết rõ thủy thần có ý niệm sai lầm, liền đến nói với thủy thần:

“Có phải ngươi từng có nhận thức như vầy: ‘Trong nước không có đất, lửa và gió chăng?’”

Thủy thần đáp:

“Đúng như vậy!”

Địa thần nói:

“Ngươi không nên có nhận thức cho rằng trong nước không có đất, lửa và gió. Vì sao như vậy? Vì trong nước có đất, lửa và gió, chỉ vì thành tố nước chiếm nhiều hơn nên lấy nước mà gọi tên.”

Khi ấy, địa thần đã dứt trừ nhận thức sai lầm cho Thủy thần, đồng thời vì Thủy thần thuyết giảng các pháp, mở bày, dạy bảo, khích lệ, khiến cho hoan hỷ,78 lại giảng về bố thí, giữ giới, sanh thiên, tham dục là ô uế, căn bản phiền não là tai họa, giải thoát là cao tột, chỉ bày giáo hóa, khiến được Phạm hạnh thanh tịnh. Khi biết tâm Thủy thần đã nhu nhuyến, không còn cấu uế, hoan hỷ tin nhận, có thể lãnh thọ giáo pháp, như thường pháp của chư Phật, địa thần liền giảng Thánh đế về khổ, Thánh đế về nguyên nhân của khổ, Thánh đế khi khổ diệt và Thánh đế về con đường diệt khổ.

Bấy giờ, Thủy thần liền xa lìa trần cấu, chứng được pháp nhãn tịnh. Cũng như tấm lụa trắng sạch, rất dễ nhuộm màu, Thủy thần cũng vậy, tín tâm đã thanh tịnh, đắc pháp nhãn tịnh, không còn hồ nghi, chắc chắn thành tựu đạo quả, không còn đọa vào đường ác, không tin nơi khác, được vô sở úy, liền thưa với Địa thần:

“Nay tôi xin quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng. Từ nay về sau, cho đến trọn đời, tôi không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu, xin cho tôi làm ưu-bà-di ở trong Chánh pháp!”

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

– Thuở xưa, hỏa thần khởi ý niệm sai lầm rằng: “Trong lửa không có đất, nước và gió.” Khi ấy, địa thần và thủy thần biết Hỏa thần có ý niệm sai lầm này, liền đến nói với hỏa thần:

“Có thật ngươi có nhận thức sai lầm rằng: ‘Trong lửa không có đất, nước và gió chăng?’”

Hỏa thần đáp:

“Đúng như vậy!”

Bấy giờ, địa thần và thủy thần nói:

“Ngươi không nên có những nhận thức sai lầm này. Vì sao như vậy? Vì trong lửa có đất, nước và gió, chỉ vì thành tố lửa nhiều hơn nên lấy lửa để gọi tên.”

Khi ấy, hai vị thần đã dứt trừ nhận thức sai lầm cho Hỏa thần, rồi vì Hỏa thần thuyết giảng các pháp, mở bày, dạy bảo, khích lệ, khiến cho hoan hỷ.79 Sau đó giảng về bố thí, giữ giới, sanh thiên, tham dục là ô uế, căn bản phiền não là tai họa, giải thoát là cao tột, chỉ bày giáo hóa khiến được Phạm hạnh thanh tịnh. Khi biết tâm Hỏa thần đã nhu nhuyến, thanh tịnh, không còn cấu uế, hoan hỷ tin nhận, dễ dàng giáo hóa, như thường pháp của chư Phật, hai vị thần kia liền giảng khổ Thánh đế, khổ tập Thánh đế, khổ diệt Thánh đế và khổ xuất yếu Thánh đế. Lúc ấy, Hỏa thần liền xa lìa trần cấu, chứng được pháp nhãn tịnh. Cũng như tấm lụa trắng sạch, rất dễ nhuộm màu, hỏa thần cũng vậy, tín tâm đã thanh tịnh, đạt pháp nhãn tịnh, không còn hồ nghi, chắc chắn thành tựu đạo quả, không còn đọa vào đường ác, không tin nơi khác, được vô sở úy, liền thưa với hai vị thần:

“Nay tôi xin quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng, xin chấp nhận cho tôi được làm ưu-bà-di ở trong Chánh pháp! Từ nay về sau, cho đến trọn đời, tôi không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu.”

[0136c07] Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

- Thuở xưa, phong thần khởi lên nhận thức sai lầm, bảo rằng: “Trong gió không có đất, nước và lửa.” Khi đó, ba vị địa thần, thủy thần và hỏa thần biết phong thần khởi ý niệm như thế, bèn đến nói với phong thần:

  “Có thật ngươi từng nảy sinh nhận thức sai lầm như vậy chăng?”

Phong thần đáp:

 “Đúng như vậy!”

Ba vị thần nói:

“Ngươi chớ nảy sinh nhận thức sai lầm như vậy. Vì sao như vậy? Vì trong gió có đất, nước và lửa. Chỉ vì thành tố gió nhiều hơn nên lấy gió mà gọi tên.”

Khi đó, ba vị thần đã dứt trừ nhận thức sai lầm cho phong thần, rồi vì phong thần thuyết giảng các pháp, mở bày, dạy bảo, khích lệ, khiến cho hoan hỷ.80 Sau đó giảng về bố thí, giữ giới, sanh thiên, tham dục là ô uế, căn bản phiền não là tai họa, giải thoát là cao tột, chỉ bày giáo hóa khiến được Phạm hạnh thanh tịnh. Khi biết tâm phong thần đã nhu nhuyến, thanh tịnh, không còn cấu uế, hoan hỷ tin nhận, dễ dàng giáo hóa, như thường pháp của chư Phật, ba vị thần liền giảng giải về khổ Thánh đế, khổ tập Thánh đế, khổ diệt Thánh đế và khổ xuất yếu Thánh đế. Lúc ấy, phong thần liền xa lìa trần cấu, chứng được pháp nhãn tịnh. Cũng như tấm lụa trắng sạch, rất dễ nhuộm màu, phong thần cũng vậy, tín tâm đã thanh tịnh, được pháp nhãn tịnh, không còn hồ nghi, chắc chắn thành tựu đạo quả, không còn đọa vào đường ác, không tin nơi khác, được vô sở úy, liền thưa ba vị thần:

“Nay tôi xin quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng, xin chấp nhận cho tôi được làm ưu-bà-di ở trong Chánh pháp! Từ nay về sau, cho đến trọn đời, tôi không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu, thường khởi tâm từ với tất cả, không quấy nhiễu chúng sanh.”

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

- Mây có bốn loại. Thế nào là bốn? Một là màu trắng, hai là màu đen, ba là màu đỏ và bốn là màu hồng. Nếu mây màu trắng là chứa nhiều địa đại, mây màu đen là chứa nhiều thủy đại, mây màu đỏ là chứa nhiều hỏa đại và mây màu hồng là chứa nhiều phong đại. Mây bay cách mặt đất mười dặm, hai mươi dặm, ba mươi dặm, bốn mươi dặm, cho đến bốn ngàn dặm, ngoại trừ Kiếp sơ, còn sau đó thì mây bay đến tận trời Quang Âm.

Sấm chớp có bốn loại. Bốn loại ấy là gì? Sấm chớp ở phương Đông gọi là Thân Quang, sấm chớp ở phương Nam gọi là Nan Hủy, sấm chớp ở phương Tây gọi là Lưu Diệm, sấm chớp ở phương Bắc gọi là Định Minh. Vì sao mây trong hư không bỗng nhiên có ánh chớp? Bởi vì, có lúc Thân Quang và Nan Hủy chạm nhau, có lúc Thân Quang và Lưu Diệm chạm nhau, có lúc Thân Quang và Định Minh chạm nhau, có lúc Nan Hủy và Lưu Diệm chạm nhau, có lúc Nan Hủy và Định Minh chạm nhau, có lúc Lưu Diệm và Định Minh chạm nhau. Do những duyên cớ này mà trong đám mây giữa hư không phát ánh chớp rực sáng.

Vì sao mây giữa hư không lại có tiếng sấm sét? Vì giữa hư không có lúc địa đại và thủy đại chạm nhau, có khi địa đại cùng hỏa đại chạm nhau, có khi địa đại cùng phong đại chạm nhau, có khi thủy đại và hỏa đại chạm nhau, có khi thủy đại và phong đại chạm nhau. Vì những nhân duyên này nên mây trong hư không có tiếng sấm sét.

[0137a11] Có năm nguyên nhân khiến không thể biết chắc chắn về mưa, nên các thầy xem thiên tượng tiên đoán sai lầm. Năm trường hợp ấy là gì?

Thứ nhất, mây có sấm chớp, đoán sẽ có mưa nhưng vì hỏa đại nhiều nên thiêu hủy mây đi, do đó không mưa, đây là lý do thứ nhất khiến thầy xem thiên tượng đoán sai lầm.

Thứ hai, mây có sấm chớp, đoán sẽ có mưa nhưng vì phong đại nổi lên, thổi mây bay đi tứ tán vào trong các ngọn núi, đây là lý do thứ hai khiến thầy xem thiên tượng đoán sai lầm.

Thứ ba, mây có sấm chớp, đoán sẽ có mưa nhưng bấy giờ đại a-tu-la gom mây nổi đặt giữa biển cả, đây là lý do thứ ba khiến thầy xem thiên tượng đoán sai lầm.

Thứ tư, mây có sấm chớp, đoán sẽ có mưa nhưng vì thần mây, thần mưa buông lung dâm loạn, cuối cùng không tuôn mưa xuống, đây là lý do khiến thầy xem thiên tượng đoán sai lầm.

Thứ năm, mây có sấm chớp, đoán sẽ có mưa nhưng vì chúng sanh ở thế gian không tu hành đúng pháp, buông lung, làm ô nhiễm hạnh thanh tịnh, tham lam ganh ghét, kiến chấp sai lầm nên khiến trời không tuôn mưa, vì lý do đó khiến các thầy xem thiên tượng đoán sai lầm.

Đây là năm nguyên nhân khiến các thầy xem thiên tượng không thể biết để đoán mưa một cách chính xác được.

Chú Thích: 

   69 Nguyên tác: Đao-lợi thiên phẩm 忉利天品 (T.01. 0001.30.8. 0131a03).

70 Nguyên tác: Thiện Pháp đường (善法堂, Sudhamma sabhā), tên giảng đường của trời Đế-thích, ở góc Tây Nam ngoài thành Thiện Kiến trên đỉnh núi Tu-di. Theo Đại Bát-niết-bàn kinh 大般涅槃經 (T.12. 0374.12. 0438c06), chư thiên ở cõi trời Đao-lợi thường tập hợp ở tòa Thiện Pháp đường này, bàn về các việc của trời và người” (是善法堂, 忉利諸天, 常集其中, 論★天事).

71 Thù (銖): Đơn vị đo trọng lượng cổ đại, 24 thù bằng 1 lượng.

72 Nguyên tác: Nê-lê (泥梨, niraya).

73 Chư thiên cõi Dục gồm có 6 tầng trời, gọi là lục dục thiên (六欲天). Theo Đại trí độ luận 大智度論 (T.25. 1509.10. 0135a23), trời Tha Hóa Tự Tại cũng chính là Thiên ma (魔是他化自在天). Ở đây tách ra thành 2, tức là trời Tha Hóa Tự Tại và Thiên ma.

74 Tức là Không Vô Biên Xứ, Thức Vô Biên Xứ, Vô Sở Hữu Xứ và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ.

75 Nguyên tác: Thị, giáo, lợi, hỷ (示, 教, 利, 喜). Xem chú thích 60, kinh số 1, tr. 511.

76 Nguyên tác: Bất hướng dư đạo (不向餘道, vesārajjappatta). Ở thể khẳng định có nghĩa là đạt đến chỗ tự tín.

77 Thành tựu vô úy (成就無畏, abhayappatta): Đạt đến chỗ không còn sợ hãi.

78 Nguyên tác: Thị, giáo, lợi, hỷ (示, 教, 利, 喜). Xem chú thích 60, kinh số 1, tr. 511.

79 Như trên.

80 Nguyên tác: Thị, giáo, lợi, hỷ (示, 教, 利, 喜). Xem chú thích 60, kinh số 1, tr. 511.

 

 

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.