Viện Nghiên Cứu Phật Học

 

  30. KINH THẾ KÝ

8. PHẨM ĐAO-LỢI THIÊN


Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Trên đỉnh núi chúa Tu-di có thành Tam Thập Tam thiên, ngang dọc rộng tám vạn do-tuần, thành ấy có bảy lớp và bảy lớp lan can, bảy lớp màn lưới, bảy lớp hàng cây, trang trí giáp vòng đều do bảy báu tạo thành. Thành cao trăm do-tuần, trên rộng sáu mươi do-tuần. Cửa thành cao sáu mươi do-tuần, rộng ba mươi do-tuần. Cứ cách nhau năm trăm do-tuần thì có một cửa và mỗi cửa đều có năm trăm quỷ thần phòng thủ để bảo vệ Tam Thập Tam thiên. Nếu thành bằng vàng thì cửa bằng bạc, thành bằng bạc thì cửa bằng vàng,… vô số chim chóc hòa ca, cũng như các cảnh khác.

Trong thành lớn ấy lại có một thành nhỏ, ngang dọc rộng sáu vạn do-tuần, thành này có bảy lớp và bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, trang trí giáp vòng đều do bảy báu tạo nên. Thành cao trăm do-tuần, rộng sáu mươi do-tuần. Cứ cách nhau năm trăm do-tuần thì có một cửa thành cao sáu mươi do-tuần, rộng ba mươi do-tuần. Mỗi cửa đều có năm trăm quỷ thần đứng giữ bên cửa phòng thủ để bảo vệ Tam Thập Tam thiên. Thành bằng vàng thì cửa bằng bạc, thành bằng bạc thì cửa bằng vàng; thành bằng thủy tinh thì cửa bằng lưu ly; thành bằng lưu ly thì cửa bằng thủy tinh; thành bằng xích châu thì cửa bằng mã não; thành bằng mã não thì cửa bằng xích châu; thành bằng xà cừ thì cửa bằng các thứ báu.

Về lan can, lan can bằng vàng thì tay vịn bằng bạc; lan can bằng bạc thì tay vịn bằng vàng; lan can bằng thủy tinh thì tay vịn bằng lưu ly; lan can bằng lưu ly thì tay vịn bằng thủy tinh; lan can bằng xích châu thì tay vịn bằng mã não; lan can bằng mã não thì tay vịn bằng xích châu; lan can bằng xà cừ thì tay vịn bằng các thứ báu.

Phía trên lan can có các lưới báu, dưới lưới vàng thì treo chuông bạc; dưới lưới bạc thì treo chuông vàng; dưới lưới bằng lưu ly thì treo chuông thủy tinh; dưới lưới bằng thủy tinh thì treo chuông bằng lưu ly; dưới lưới bằng xích châu thì treo chuông bằng mã não; dưới lưới bằng mã não thì treo chuông bằng xích châu; dưới lưới xà cừ thì treo chuông bằng các thứ báu.

Về các hàng cây, cây bằng vàng thì gốc bằng vàng, cành bằng vàng, lá, hoa, trái bằng bạc; cây bằng bạc thì gốc bằng bạc, cành bằng bạc, lá, hoa, trái bằng vàng; với cây bằng thủy tinh thì gốc, cành bằng thủy tinh, lá, hoa, bằng lưu ly; cây bằng lưu ly thì gốc, cành bằng lưu ly, hoa, lá bằng thủy tinh; cây bằng xích châu thì gốc bằng xích châu, hoa, lá, bằng mã não; cây bằng mã não thì gốc, cành bằng mã não, hoa, lá bằng xích châu; cây bằng xà cừ thì gốc, cành bằng xà cừ, hoa, lá, trái bằng các thứ báu.

Về bảy lớp thành, thành có bốn cửa và mỗi cửa có lan can. Trên bảy lớp thành đều có lâu đài, nhà cửa bao bọc chung quanh; lại có rừng cây và ao tắm, có hoa các thứ báu với màu sắc xen kẽ. Cây báu xếp hàng, hoa trái sum suê, gió thơm phảng phất khắp bốn bề làm cho lòng người khoan khoái; lại có vô số các chim kỳ lạ, như cưu, nhạn, uyên ương cùng hòa ca, cũng như các cõi khác.

Và giữa hai thành nhỏ có Long cung Y-la-bát, ngang dọc sáu ngàn do-tuần, gồm có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp màn lưới, bảy hàng cây trang trí giáp vòng đều do bảy báu tạo nên… vô số chim chóc cùng hòa ca cũng như các cõi khác. Trong thành Thiện Kiến có Thiện Pháp đường, ngang dọc một trăm do-tuần, với bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây trang trí giáp vòng đều do bảy báu tạo thành. Nền móng của Thiện Pháp giảng đường làm toàn bằng vàng ròng, trên phủ lưu ly, thân cột trong giảng đường có chu vi mười do-tuần, cao một trăm do-tuần, dưới mỗi gốc cột trong giảng đường đều thiết trí một pháp tòa để cho Thiên đế ngự, ngang dọc một do-tuần, màu sắc xen kẽ do bảy báu tạo thành. Pháp tòa mềm mại tựa như áo trời. Hai bên pháp tòa thì có mười sáu pháp tòa khác. Giảng đường này có bốn cửa và có lan can bao quanh do bảy báu tạo thành. Con đường thềm của giảng đường rộng năm trăm do-tuần, có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp màn lưới, bảy lớp hàng cây trang trí giáp vòng đều do bảy báu tạo thành,… vô số chim chóc cùng hòa ca, cũng như các cõi khác.

Phía Bắc Thiện Kiến đường thì có cung điện Đế-thích ngang dọc một ngàn do-tuần, cũng có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp màn lưới, bảy lớp hàng cây, trang trí giáp vòng đều do bảy báu tạo thành,… vô số chim chóc cùng hòa ca, cũng như các cõi khác.

Phía Đông Thiện Kiến đường có khu vườn tên Thô Sáp, ngang dọc một ngàn do-tuần và có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp màn lưới, bảy lớp hàng cây trang trí giáp vòng đều do bảy báu tạo thành,… vô số chim chóc cùng hòa ca, cũng như các cõi khác.

Trong vườn Thô Sáp có hai tảng đá được trang trí bằng vàng trên trời: Một gọi là Hiền, hai là Thiện Hiền, mỗi tảng đều rộng năm mươi do-tuần, tảng đá ấy mềm mại như áo trời.

Phía Nam cung Thiện Kiến có khu vườn Họa Lạc, ngang dọc một ngàn do-tuần, vườn có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp màn lưới, bảy lớp hàng cây trang trí giáp vòng đều do bảy báu tạo thành,… vô số chim chóc cùng hòa ca, cũng như các cõi khác.

Trong khu vườn Họa Lạc có hai tảng đá do bảy báu tạo thành: Một là Họa, hai là Thiện Họa, mỗi tảng đá rộng năm mươi do-tuần, tảng đá ấy mềm mại như áo trời.

Phía Tây Thiện Kiến đường có khu vườn tên là Tạp, ngang dọc một ngàn do-tuần. Vườn này có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp màn lưới, bảy lớp hàng cây trang trí giáp vòng đều do bảy báu tạo thành,… vô số chim chóc cùng hòa ca, cũng như các cõi khác.

Trong khu vườn Tạp có hai tảng đá: Một là Thiện Kiến, hai là Thuận Thiện Kiến được trang trí bằng vàng trên trời, do bảy báu tạo thành. Mỗi tảng đá rộng năm mươi do-tuần, những tảng đá ấy mềm mại như áo trời.

Phía Bắc Thiện Kiến đường có khu vườn tên là Đại Hỷ, ngang dọc một ngàn do-tuần. Vườn này có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp màn lưới, bảy lớp hàng cây trang trí giáp vòng đều do bảy báu tạo thành,… vô số chim chóc cùng hòa ca, cũng như các cõi khác.

Trong vườn Đại Hỷ lại có hai tảng đá: Một là Hỷ, hai là Đại Hỷ được trang trí bằng xà cừ, ngang dọc năm mươi do-tuần. Những tảng đá ấy mềm mại như áo trời.

Giữa vườn Thô Sáp và vườn Họa Lạc có ao Nan-đà, ngang dọc một do-tuần. Nước ao trong xanh, không có vẩn đục, có bảy lớp hào báu vây quanh lũy đá. Có bảy lớp lan can, bảy lớp màn lưới, bảy lớp hàng cây trang trí giáp vòng đều do bảy báu tạo thành. Bốn mé ao đều có bốn bậc thang và có lan can bao quanh, do bảy báu tạo thành,… có vô số chim chóc cùng hòa ca, cũng như các cõi khác.

Trong ao Nan-đà có bốn thứ hoa xanh, vàng, đỏ, trắng, màu sắc xanh, đỏ chen nhau. Mỗi đóa hoa và mỗi chiếc lá phủ cả một do-tuần, mùi hương thơm phảng phất cả một do-tuần. Cọng hoa lớn như trục xe, tiết ra một loại nước màu trắng như sữa, vị ngọt như mật. Bốn phía ao lại có những khu vườn, giữa vườn Tạp và Đại Hỷ có cây tên là Trú Độ. Thân cây to bảy do-tuần, cao một trăm do-tuần, cành lá tỏa bốn bề năm mươi do-tuần. Kế bên cây có nhà nghỉ mát ngang dọc năm trăm do-tuần. Có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp màn lưới, bảy lớp hàng cây, trang trí giáp vòng đều do bảy báu tạo thành,… có vô số chim chóc cùng hòa ca, cũng như các cảnh khác.

Ngoài ra có các cung điện của Đao-lợi thiên khác đều ngang dọc một ngàn do-tuần, gồm có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp màn lưới, bảy lớp hàng cây trang trí giáp vòng đều do bảy báu tạo thành,… có vô số chim chóc cùng hòa ca, cũng như các cảnh khác.

Các cung điện của chư thiên ngang dọc chín trăm, hoặc tám trăm do-tuần và loại nhỏ nhất là trăm do-tuần. Có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp màn lưới, bảy lớp hàng cây trang trí giáp vòng đều do bảy báu tạo thành,… có vô số chim chóc cùng hòa ca, cũng như các cảnh khác. Còn có các cung điện của tiểu thiên ngang dọc một trăm do-tuần, hoặc chín mươi, tám mươi do-tuần và loại nhỏ nhất là mười hai do-tuần. Cung điện có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp màn lưới, bảy lớp hàng cây trang trí giáp vòng đều do bảy báu tạo thành,… có vô số chim chóc cùng hòa ca, cũng như các cảnh khác.

Phía Bắc Thiện Kiến đường có hai con đường dẫn đến cung Đế-thích. Phía Đông Thiện Kiến đường có hai con đường dẫn đến vườn Thô Sáp, lại có con đường dẫn đến nhà mát Họa Lạc. Lại có con đường dẫn đến vườn Tạp. Lại có con đường dẫn đến vườn Đại Hỷ. Lại có con đường dẫn đến ao Đại Hỷ. Lại có con đường dẫn đến cây Trú Độ. Lại có con đường dẫn đến cung Tam Thập Tam thiên. Lại có con đường dẫn đến cung chư thiên. Lại có con đường dẫn đến cung Y-la-bát long vương.

Nếu Đế-thích muốn ngự giá đến vườn Thô Sáp để ngoạn cảnh thì liền nghĩ đến các đại thần của Tam Thập Tam thiên. Các đại thần ấy cũng tự nghĩ: “Nay Đế-thích đang nghĩ đến ta.” Họ liền tự trang sức và cưỡi xe báu có vô số thiên chúng vây quanh đến trước Đế-thích và đứng một bên. Đế-thích lại nghĩ đến chư thiên khác. Chư thiên ấy cũng tự nghĩ: “Nay Đế-thích đang nghĩ đến ta.” Họ liền tự trang sức cùng với thiên chúng tự tay trang sức lấy và ngự trên xe báu, có vô số thiên chúng cùng nhau đến trước Đế-thích và đứng một bên.

Đế-thích lại nghĩ đến Y-la-bát long vương, Y-la-bát long vương cũng tự nghĩ: “Nay Đế-thích đang nghĩ đến ta.” long vương liền biến hóa ra ba mươi ba cái đầu. Mỗi đầu đều có sáu cái răng; mỗi cái răng đều có bảy cái ao tắm; mỗi ao tắm đều có bảy đóa hoa sen lớn, mỗi hoa sen có một trăm chiếc lá. Hơn nữa, trên mỗi hoa lá ấy đều có bảy ngọc nữ đánh trống, trỗi nhạc, đàn ca và khiêu vũ. Sau khi long vương biến hóa xong, bèn đến trước Đế-thích và đứng một bên.

Bấy giờ, Thích-đề-hoàn-nhân trang sức các thứ báu như anh lạc vào thân rồi ngự trên đầu long vương Y-la-bát bậc nhất, tiếp theo hai bên đều có mười sáu vị Thiên vương theo thứ tự mà ngự trên đầu long vương ấy. Khi Đế-thích, cùng chư thiên và quyến thuộc bao quanh, đi đến vườn Thô Sáp thì cơn gió tự nhiên thổi đến làm cho cánh cửa tự mở ra, đồng thời có cơn gió tự nhiên thổi đến làm cho đất đai sạch sẽ và cũng có cơn gió tự nhiên thổi đến làm cho hoa rải khắp mặt đất. Các hoa xếp lớp lên đến đầu gối. Lúc đó Đế-thích ngự trên hai tảng đá Hiền và Thiện Hiền, một cách tùy ý. Chư Tam Thập Tam thiên cũng theo thứ tự an tọa. Trong khi đó có một số chư thiên không được hầu cận, cũng thấy được ngôi vườn ấy nhưng không vào được để vui hưởng ngũ dục. Tại sao? Vì do công đức và hạnh nghiệp không đồng. Lại cũng có một số chư thiên khác cũng được thấy khu vườn ấy nhưng không được vào và không được cùng vui hưởng ngũ dục. Tại vì sao? Vì do công đức và hạnh nghiệp không đồng. Lại có một số chư thiên khác, được thấy, được vào khu vườn ấy nhưng không được vui hưởng ngũ dục. Tại vì sao? Vì do công đức và hạnh nghiệp không đồng. Lại có một số chư thiên khác, được thấy, được vào khu vườn ấy và được vui hưởng ngũ dục. Tại sao? Bởi vì do công đức và hạnh nghiệp không đồng nhau. Thế rồi, Đế-thích và thiên chúng du ngoạn trong khu vườn ấy tự vui hưởng ngũ dục từ một ngày, hai ngày, cho đến bảy ngày. Sau khi vui hưởng ngũ dục xong, tất cả trở về cung. Và về sau, Đế-thích cũng du ngoạn các khu vườn khác như vườn Họa Lạc, vườn Tạp, vườn Đại Hỷ, sự việc cũng như trên.

Vì sao gọi là vườn Thô Sáp? Vì khi vào vườn này thì thân thể trở nên thô tháp.

Vì sao gọi là vườn Họa Lạc? Vì khi vào khu vườn này thì thân thể tự nhiên có những nét vân sặc sỡ và lấy đó làm vui thích.

Vì sao gọi là vườn Tạp? Vì Đế-thích thường lấy ngày mùng tám, mười bốn và rằm mỗi tháng, cho phép các thể nữ, trừ các a-tu-luân, cùng với thiên tử dạo chơi tập thể trong khu vườn nên gọi là vườn Tạp.

Vì sao gọi là vườn Đại Hỷ? Vì khi vào khu vườn này thì vô cùng vui vẻ nên gọi là Đại Hỷ.

Vì sao gọi là Thiện Pháp đường? Vì ở trên nhà này để suy tư về diệu pháp và cảm thọ niềm vui thanh tịnh nên gọi là Thiện Pháp đường.

Vì sao gọi là cây Trú Độ? Vì cây này có vị thần tên Mạn-đà thường trỗi nhạc mà tự vui nên gọi là Trú Độ. Vả lại, cành cây đại thọ này tỏa bốn bề, hoa lá sum suê, như vầng mây báu lớn nên gọi là cây Trú Độ. Hai bên Thích-đề-hoàn-nhân thường có mười vị đại thiên tử theo hầu cận, bảo vệ. Mười vị ấy là ai?

Đó là: (1) Nhân-đà-la; (2) Cù-di; (3)Tỳ-lâu; (4) Tỳ-lâu-bà-đề; (5) Đà-la; (6) Bà-la; (7) Kỳ-bà; (8) Linh-ê-nậu; (9) Vật-la; (10) Nan-đầu. Thích-đề-hoàn-nhân có đại thần lực, có đại uy đức như thế. Lại nữa, châu Diêm-phù-đề có các loại hoa sống dưới nước mà người châu ấy rất quý, như hoa ưu-bát-la, hoa bát-đầu-ma, câu-vật-đầu, phân-đà-lợi, tu-càn-đầu, các hoa này mềm mại, thơm tho tinh khiết. Còn có các loại hoa sống ở trên đất như: Hoa giải thoát, hoa chiêm-bặc, hoa bà-la-đà, hoa tu-mạn-châu-na, hoa bà-sư, hoa đồng nữ. Và các châu khác như Câu-da-ni, Uất-đơn-việt, Phất-vu-đãi, Long cung, Kim Sí điểu cung, cũng có các loại hoa sống dưới nước và trên đất như thế. Ở cung a-tu-luân, có các loại hoa sống dưới nước như hoa ưu-bát-la, bát-đầu-ma, câu-vật-đầu, phân-đà-lợi, mềm mại thơm tho, tinh khiết. Ở đây có các loại hoa sống ở trên đất như hoa thù-hảo, hoa tần-phù, hoa già-già-lợi, hoa đại già-già-lợi, hoa mạn-đà-la, hoa đại mạn-đà-la. Và các cõi khác như Tứ Thiên Vương, Tam Thập Tam thiên, Diệm-ma thiên, Đâu-suất thiên, Hóa Tự Tại thiên, Tha Hóa Tự Tại thiên, cũng có các loại hoa sống dưới nước và trên đất như thế.

Chư thiên thì có mười phép. Mười phép ấy là gì?

(1) Bay đi không giới hạn là bao xa; (2) Bay lại không giới hạn là bao xa; (3) Bay đi vô ngại; (4) Bay lại vô ngại; (5) Thân chư thiên không có da, xương, gân, mạch máu, thịt; (6) Thân không có sự đại, tiểu tiện bất tịnh; (7) Thân không mỏi mệt; (8) Thiên nữ không sanh sản; (9) Thiên nhãn quan sát không bị chướng ngại; (10) Thân thể màu sắc tùy ý, nếu thích xanh thì xanh, thích vàng thì vàng; các màu đỏ, trắng theo ý mà xuất hiện. Đó là mười phép của chư thiên.

Thân thì có bảy màu. Bảy màu ấy là gì?

(1) Có vị thiên thì màu vàng của vàng; (2) Có vị thiên thì màu lửa; (3) Có vị thiên thì màu xanh; (4) Có vị thiên thì màu vàng; (5) Có vị thiên thì màu đỏ; (6) Có vị thiên thì màu đen; (7) Có vị thiên thì màu trắng.

Chư thiên a-tu-luân cũng có đủ bảy màu như thế.

– Này các Tỳ-kheo, ánh sáng đom đóm không bằng ánh sáng đèn đuốc; ánh sáng đèn đuốc không bằng ánh sáng bó đuốc to; ánh sáng bó đuốc to không bằng ánh sáng đống lửa; ánh sáng đống lửa không bằng ánh sáng của màu sắc, thân thể, y phục, anh lạc thành quách, cung điện của Tứ Thiên Vương; và ánh sáng màu sắc thân thể, y phục, thành quách, anh lạc của Tứ Thiên Vương không bằng ánh sáng của Tam Thập Tam thiên; ánh sáng Tam Thập Tam thiên không bằng ánh sáng Diệm-ma thiên; ánh sáng Diệm-ma thiên không bằng ánh sáng Đâu-suất thiên; ánh sáng Đâu-suất thiên không bằng ánh sáng của Hóa Tự Tại thiên; ánh sáng Hóa Tự Tại thiên không bằng ánh sáng của Tha Hóa Tự Tại thiên; ánh sáng của Tha Hóa Tự Tại thiên không bằng ánh sáng màu sắc, thân thể, y phục, cung điện của Phạm-ca-di thiên; ánh sáng, màu sắc, thân thể, y phục, cung điện của Phạm-ca-di thiên không bằng ánh sáng của Quang Âm thiên; ánh sáng của Quang Âm thiên không bằng ánh sáng của Biến Tịnh thiên; ánh sáng của Biến Tịnh thiên không bằng ánh sáng của Quả Thật thiên; ánh sáng của Quả Thật thiên không bằng ánh sáng của Vô Tưởng thiên; ánh sáng của Vô Tưởng thiên không bằng ánh sáng của Vô Tạo thiên; ánh sáng của Vô Tạo thiên không bằng ánh sáng của Vô Nhiệt thiên; ánh sáng của Vô Nhiệt thiên không bằng ánh sánh của Thiện Kiến thiên; ánh sáng của Thiện Kiến thiên không bằng ánh sáng Đại Thiện Kiến thiên; ánh sáng của Đại Thiện Kiến thiên không bằng ánh sáng của Sắc Cứu Cánh thiên; ánh sáng của Sắc Cứu Cánh thiên không bằng ánh sáng của Địa Tự Tại thiên; ánh sáng của Địa Tự Tại thiên không bằng ánh sáng của Phật. Từ ánh sáng của đom đóm cho đến ánh sáng của Phật, tổng hợp tất cả ánh sáng đó lại không bằng ánh sáng của khổ đế, ánh sáng của tập đế, diệt đế và đạo đế. Cho nên, này các Tỳ-kheo, muốn cầu ánh sáng trước hết phải cầu ánh sáng về khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế. Nên phải tu hành như thế.

Con người châu Diêm-phù-đề có thân dài ba trửu rưỡi, y phục dài bảy trửu, rộng ba trửu rưỡi. Con người châu Cù-da-ni, Phất-vu-đãi có thân cũng cao ba trửu rưỡi, y phục dài bảy trửu, rộng ba trửu rưỡi. Con người châu Uất-đơn-việt có thân cao bảy trửu, y phục dài mười bốn trửu, rộng bảy trửu, y phục nặng một lượng. A-tu-luân có thân cao một do-tuần, y phục dài hai do-tuần, rộng một do-tuần, y phục nặng sáu thù. Tứ Thiên Vương thân dài nửa do-tuần, y phục dài một do-tuần, rộng nửa do-tuần, y phục nặng nửa lượng. Về Đao-lợi thiên có thân cao một do-tuần, y phục dài hai do-tuần, rộng một do-tuần, y phục nặng sáu thù. Diệm-ma thiên có thân cao hai do-tuần, y phục dài bốn do-tuần, rộng hai do-tuần, y phục nặng ba thù. Đâu-suất thiên có thân cao bốn do-tuần, y phục dài tám do-tuần, rộng bốn do-tuần, nặng một thù rưỡi. Hóa Tự Tại thiên có thân cao tám do-tuần, y phục dài mười sáu do-tuần, rộng tám do-tuần, y phục nặng một thù. Tha Hóa Tự Tại thiên có thân cao mười sáu do-tuần, y phục dài ba mươi hai do-tuần, y phục nặng nửa thù. Chư thiên trên đây tùy theo kích thước của thân mà mặc y phục vào thì tự nhiên vừa vặn. Người Diêm-phù-đề sống trăm tuổi, tăng thì ít, giảm thì nhiều. Người châu Cù-da-ni sống hai trăm tuổi tăng ít giảm nhiều. Người châu Phất-vu-đãi sống ba trăm tuổi, tăng thì ít giảm thì nhiều. Người châu Uất-đơn-việt sống đúng ngàn tuổi, không tăng không giảm. Ngạ quỷ sống bảy vạn tuổi, tăng thì ít giảm thì nhiều. long vương, Kim Sí điểu sống một kiếp, hoặc ít hơn. A-tu-luân sống một ngàn tuổi trời, tăng thì ít giảm thì nhiều. Tứ Thiên Vương sống năm trăm tuổi trời, tăng thì ít giảm thì nhiều. Đao-lợi thiên sống một ngàn tuổi trời, tăng thì ít giảm thì nhiều. Diệm-ma thiên sống hai ngàn tuổi trời, tăng ít giảm nhiều. Đâu-suất thiên sống bốn ngàn tuổi trời, tăng ít giảm nhiều. Hóa Tự Tại thiên sống tám ngàn tuổi trời, tăng ít giảm nhiều. Tha Hóa Tự Tại thiên sống một vạn sáu ngàn tuổi trời, tăng ít giảm nhiều. Phạm-ca-di thiên sống một kiếp, hoặc ít hơn. Quang Âm thiên sống hai kiếp, hoặc ít hơn. Biến Tịnh thiên sống bốn kiếp hoặc ít hơn. Vô Tưởng thiên sống năm trăm kiếp hoặc ít hơn. Vô Tạo thiên sống một ngàn kiếp hoặc ít hơn. Vô Nhiệt thiên sống hai ngàn kiếp hoặc ít hơn. Thiện Kiến thiên sống ba ngàn kiếp hoặc ít hơn. Đại Thiện Kiến thiên sống bốn ngàn kiếp hoặc ít hơn. Sắc Cứu Cánh thiên sống năm ngàn kiếp hoặc ít hơn. Không Xứ thiên sống một vạn kiếp hoặc ít hơn, Thức Xứ thiên sống hai vạn một ngàn kiếp hoặc ít hơn. Bất Dụng Xứ thiên sống bốn vạn hai ngàn kiếp hoặc ít hơn, về Hữu Tưởng Vô Tưởng thiên sống tám vạn bốn ngàn kiếp hoặc ít hơn.

Chúng sanh ngang đây là thọ mạng, ngang đây là thế giới, ngang đây gọi là con đường qua lại sanh lão, bệnh tử, là nhóm, tụ, ấm, giới, xứ.

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Các chúng sanh đều do bốn thứ ăn mà sanh tồn. Bốn thứ ăn là gì?

Một là đoàn thực, hai là xúc thực, ba là niệm thực, bốn là thức thực. Sự ăn uống của chúng sanh không đồng. Con người Diêm-phù-đề thì lấy các thức ăn như gạo, mì, cá, thịt làm thức ăn đoàn thực. Lấy y phục, tắm gội làm thức ăn trơn mịn. Con người châu Cù-da-ni, Phất-vu-đãi cũng lấy các thứ gạo, mì, cá, thịt làm thức ăn đoàn thực và lấy y phục, tắm gội làm thức ăn trơn mịn. Con người châu Uất-đơn-việt thì chỉ dùng loại gạo thơm tự nhiên đầy đủ hương vị trời, làm thức ăn đoàn thực và lấy y phục, tắm gội làm thức ăn trơn mịn. long vương, Kim Sí điểu thì lấy cá, ba ba… làm thức ăn đoàn thực và lấy y phục tắm gội làm thức ăn trơn mịn. Về a-tu-luân thì lấy thức ăn thanh tịnh (nhẹ) làm thức ăn đoàn thực và lấy y phục, tắm gội làm thức ăn trơn mịn. Tứ Thiên Vương, Đao-lợi thiên, Diệm-ma thiên, Đâu-suất thiên, Hóa Tự Tại thiên, Tha Hóa Tự Tại thiên thì lấy thức ăn thanh tịnh làm thức ăn đoàn thực và lấy y phục, tắm gội làm thức ăn trơn mịn. Từ đây trở lên, chư thiên dùng thiền định, hỷ lạc làm thức ăn. Còn những loại chúng sanh nào thuộc xúc thực? Là các chúng sanh loài noãn sanh thuộc về xúc thực. Những loại chúng sanh nào thuộc về niệm thực? Có những chúng sanh dùng thức ăn bằng niệm mà tồn tại, các căn tăng trưởng, mạng sống kéo dài không dứt. Đó là niệm thực. Những loại chúng sanh nào thuộc về thức thực? Chúng sanh trong địa ngục và chư thiên cõi Vô sắc, thuộc về thức thực.

Con người ở Diêm-phù-đề thì dùng vàng bạc, của báu, lúa, vải, đầy tớ làm nghề nghiệp buôn bán để tự sinh sống. Con người Cù-da-ni thì dùng trâu, dê, châu báu đổi chác để sinh sống. Con người châu Phất-vu-đãi thì dùng lúa, vải, châu ngọc để buôn bán hoặc làm sự sinh sống. Con người châu Uất-đơn-việt thì sinh sống không buôn bán. Con người châu Diêm-phù-đề thì có hôn nhân, có nam nữ qua lại cưới hỏi. Con người châu Cù-da-ni, Phất-vu-đãi cũng có hôn nhân, có nam nữ cưới hỏi. Người Uất-đơn-việt không có hôn nhân, không có trai gái qua lại cưới hỏi. A-tu-luân, Kim Sí điểu cũng có hôn nhân, có nam nữ cưới hỏi. Tứ Thiên Vương, Đao-lợi thiên cho đến Tha Hóa Tự Tại thiên cũng có hôn nhân, nam nữ cưới hỏi. Từ đây trở lên, chư thiên không còn phân biệt nam nữ. Người châu Diêm-phù-đề thì nam nữ giao hợp nhau, thân thể tiếp xúc nhau thì thành ra âm dương. Người châu Phất-vu-đãi, Cù-da-ni và Uất-đơn-việt thì thân thể tiếp xúc nhau mà thành ra âm dương. Loài rồng, Kim Sí điểu thì thân thể cũng tiếp xúc nhau mà thành ra âm dương. A-tu-luân thì thân thể gần nhau mà thành ra âm dương. Tứ Thiên Vương, Đao-lợi thiên, Diệm-ma thiên cũng như vậy. Chư thiên ở Đâu-suất thiên nắm tay nhau thì thành ra âm dương. Chư thiên ở Hóa Tự Tại thiên nhìn kỹ nhau thì ra âm dương. Chư thiên ở Tha Hóa Tự Tại thiên liếc nhau thì thành ra âm dương. Từ đây trở lên, chư thiên không còn dâm dục.

Nếu có chúng sanh, tạo ác về thân, về khẩu, về ý thì sau khi lâm chung, hậu thức diệt, sơ thức địa ngục sanh khởi. Nhân thức mà có danh sắc; nhân danh sắc mà có lục nhập. Hoặc có chúng sanh tạo ác về thân, khẩu, ý thì sau khi mạng chung bị đọa vào loài súc sanh; ở đây, hậu thức diệt, sơ thức súc sanh sanh khởi. Nhân thức mà có danh sắc; nhân danh sắc mà có lục nhập…

Hoặc có chúng sanh làm ác về thân, khẩu, ý thì sau khi mạng chung bị đọa vào loài ngạ quỷ; ở đây, hậu thức diệt, sơ thức ngạ quỷ sanh khởi. Nhân thức mà có danh sắc; nhân danh sắc mà có lục nhập…

Hoặc có chúng sanh nào hành thiện về thân, khẩu, ý thì sau khi mạng chung được sanh vào loài người; ở đây, hậu thức diệt, sơ thức loài người sanh khởi. Nhân thức mà có danh sắc, nhân danh sắc mà có lục nhập…

Hoặc có chúng sanh hành thiện về thân, khẩu, ý thì sau khi mạng chung được sanh về cõi Tứ Thiên Vương. Ở đây, hậu thức diệt, sơ thức Tứ Thiên Vương sanh khởi. Nhân thức mà có danh sắc, nhân danh sắc mà có lục nhập...

Vị thiên sơ sanh ấy cũng như đứa hài nhi mới một, hai tuổi ở thế gian này. Vị ấy tự nhiên hóa hiện và ngồi trên đầu gối của vị thiên khác. Vị này nói: “Đây là con ta.”

Hài nhi này do hạnh nghiệp và phước báu nên tự nhiên trí tuệ phát sanh, tức thì liền nghĩ: “Ta do làm điều gì mà sanh về cõi này?” Lại nghĩ tiếp: “Xưa kia ta ở nhân gian hành thiện về thân, về khẩu, về ý, vì do hành động đó nên nay được sanh thiên. Ta dù mạng chung tại đây mà sanh lại cõi thế gian đi nữa thì cũng phải giữ gìn trong sạch về thân, về khẩu, về ý, phải siêng năng tu thiện hạnh hơn trước.”

Hài nhi ấy, sau khi chào đời không lâu thì có cảm giác đói, tự nhiên trước mặt liền có một vật báu chứa đầy cơm thơm tinh khiết, đủ cả trăm hương vị trời. Nếu là người phúc nhiều thì cơm màu trắng; nếu là người phúc trung bình thì cơm màu xanh; nếu là người phúc kém thì cơm màu đỏ. Hài nhi dùng tay bốc cơm để vào miệng. Ăn xong, cơm tự nhiên tiêu hóa cũng như bỏ vào lửa. Hài nhi ấy sau khi ăn xong có cảm giác khát thì tự nhiên có vật báu đầy cả nước cam lồ. Nếu là người phúc nhiều thì nước màu trắng; nếu là người phúc trung bình thì nước màu xanh; nếu là người phúc kém thì nước màu đỏ. Hài nhi ấy lấy nước mà uống, nước tự nhiên hóa như bơ bỏ vào lửa. Hài nhi ấy sau khi ăn uống xong, thân thể cao lớn và cùng chư thiên khác đi vào ao tắm để rửa ráy, tắm gội mà tự vui thú. Vui thú xong vị thiên ấy bèn ra khỏi ao, đến dưới cây Hương thì cây ấy cong rũ xuống, vị thiên ấy dùng tay lấy các thứ hương để xoa vào thân. Vị thiên ấy lại đến cây Kiếp-bối, cây này liền cong rũ xuống, vị thiên bèn lấy các thứ y phục mặc vào thân. Lại đến cây Trang Sức thì cây này lập tức cong rũ xuống, vị thiên bèn lấy các vật trang sức để trang sức thân thể. Lại đến cây Tràng Hoa, cây này lập tức cong rũ xuống, vị thiên bèn lấy tràng hoa cài lên đầu. Lại đến cây Khí Cụ thì cây này lập tức cong rũ xuống, vị thiên có các vật báu. Lại đến cây Quả thì cây này lập tức cong rũ xuống, vị thiên hái trái cây tự nhiên, hoặc là ăn, hoặc là ngậm, hoặc vắt lấy nước để uống. Lại đến cây Nhạc Khí tức thì cây này cong rũ xuống, vị thiên lấy các nhạc khí để hòa tấu những âm thanh tuyệt diệu mà ca hát. Rồi vị thiên hướng về khu vườn khác, trông thấy có vô số thiên nữ, cùng ca hát, nói năng, đùa vui với nhau. Sau khi vị thiên ấy đi du ngoạn xong bèn sanh tâm đắm nhiễm, nhìn hướng Đông quên hướng Tây, nhìn hướng Tây quên hướng Đông. Khi mới sanh ra miệng thường nói: “Ta do làm điều gì mà nay được sanh về cõi này?” Trong khi du ngoạn, vị ấy quên hết tâm niệm ấy, do đấy mà có sự việc thể nữ theo hầu.

Nếu có chúng sanh hành thiện về thân, về khẩu, về ý thì sau khi mạng chung được sanh về cõi Đao-lợi. Ở đây hậu thức diệt, sơ thức sanh về cõi ấy. Nhân nơi thức mà có danh sắc, nhân danh sắc mà có lục nhâp… Vị thiên sơ sanh ấy cũng như đứa bé hai, ba tuổi ở cõi Diêm-phù-đề. Vị ấy tự nhiên hóa hiện ngồi trên đầu gối của vị thiên khác, vị này nói: “Đây là con trai ta, đây là con gái ta.” Sự việc ấy cũng giống như ở cõi Tứ Thiên Vương…

Hoặc có chúng sanh hành thiện về thân, về khẩu, về ý thì sau khi mạng chung được sanh về cõi Diệm-ma thiên. Vị thiên sơ sanh ấy cũng như đứa bé ba, bốn tuổi ở cõi Diêm-phù-đề…

Hoặc có chúng sanh hành thiện về thân, về khẩu, về ý thì sau khi mạng chung được sanh về Đâu-suất thiên. Vị thiên sơ sanh ấy cũng như đứa bé bốn, năm tuổi ở cõi thế gian này…

Hoặc có chúng sanh hành thiện về thân, về khẩu, về ý sau khi mạng chung được sanh Hóa Tự Tại thiên. Vị thiên sơ sanh ấy cũng như đứa bé mới năm, sáu tuổi ở thế gian này...

Hoặc có chúng sanh hành thiện về thân, về khẩu, về ý thì sau khi mạng chung được sanh về Tha Hóa Tự Tại thiên. Vị thiên sơ sanh ấy cũng như đứa bé mới sáu, bảy tuổi ở thế gian này…

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Chư thiên ở cõi ấy cứ mỗi nửa tháng thì có ba ngày trai giới. Ba ngày trai ấy là gì? Ngày mùng tám, mười bốn, rằm của tháng là ba ngày trai giới. Vì sao lại nhằm ngày mùng tám của tháng? Vì vào ngày mùng tám, Tứ Thiên vương bảo sứ giả:

“Các người hãy đi khắp thế gian, hãy quan sát muôn dân, coi ai hiếu thuận với cha mẹ, cung kính Sa-môn, Bà-la-môn, tôn trọng các vị bô lão, trai giới, bố thí, cứu giúp những người nghèo khổ!”

Bấy giờ, sứ giả nghe Tứ Thiên vương bảo thế, bèn đi khắp thế gian để coi ai hiếu thảo cha mẹ, cung kính Sa-môn, Bà-la-môn, tôn trọng các vị bô lão, trai giới, bố thí cho người nghèo khổ. Sau khi quan sát kỹ, các sứ giả nhận thấy thế gian bất hiếu cha mẹ, không cung kính thầy tổ, không tu trai giới, không bố thí cho người nghèo đói. Họ liền trở về tâu:

“Tâu Đại vương, ở thế gian những người hiếu thuận cha mẹ, tôn thờ Sư trưởng, tu hành trai giới thanh tịnh, bố thí cho người nghèo khó thì rất ít, rất ít.”

Khi Tứ Thiên vương nghe xong, trong lòng buồn khổ, không vui và nói:

“Ôi ra là thế! Chúng sanh phần nhiều là độc ác, không hiếu thảo với cha mẹ, không thờ kính thầy tổ, không tu trai giới, không bố thí cho người nghèo khổ thì chúng trời sẽ giảm thiểu, chúng a-tu-luân sẽ gia tăng.”

Nếu sứ giả trông thấy ở thế gian có người thuận thảo với cha mẹ, tôn thờ Sư trưởng, siêng năng tu hành trai giới, bố thí cho người nghèo khó thì trở lại thưa với Thiên vương:

“Ở thế gian có người hiếu thảo với cha mẹ, cung kính, tôn thờ thầy tổ, siêng năng tu hành trai giới, bố thí cho người nghèo.”

Tứ Thiên vương nghe xong, vô cùng vui vẻ và nói:

“Lành thay! Ta nghe được tin lành. Nếu như thế gian có thể có người hiếu thảo với cha mẹ, tôn thờ Sư trưởng, siêng tu trai giới, đồng thời bố thí cho người nghèo khổ thì chúng trời sẽ gia tăng, chúng a-tu-luân sẽ giảm thiểu.”

Vì sao lấy ngày mười bốn là ngày trai giới?

Vì vào ngày trai giới mười bốn, Tứ Thiên vương bảo thái tử:

“Ngươi hãy đi khắp thiên hạ quan sát muôn dân để xem có ai hiếu thảo với cha mẹ, tôn thờ Sư trưởng, siêng tu trai giới, bố thí cho người nghèo khó hay không!”

Thái tử vâng lệnh xong, liền phi hành khắp thế gian quan sát muôn dân, thái tử nhận thấy ở thế gian có người bất hiếu cha mẹ, không tôn kính Sư trưởng, không tu trai giới, không bố thí cho người nghèo khó. Khi quan sát xong, thái tử bèn trở lại thưa với Thiên vương:

“Tâu Đại vương, ở thế gian người hiếu thuận với cha mẹ, tôn kính Sư trưởng, tu hành trai giới thanh tịnh, cứu giúp những người nghèo khó thì rất ít, rất ít.”

Tứ Thiên vương nghe xong, trong lòng lo buồn không vui nói rằng:

“Ôi, ra là thế! Người đời phần nhiều độc ác, không hiếu thảo với cha mẹ, không tôn thờ Sư trưởng, không tu trai giới, không bố thí cho người nghèo khổ thì chúng trời sẽ giảm thiểu, chúng a-tu-luân sẽ gia tăng.”

Nếu như thái tử nhận thấy thế gian có người hiếu thảo với cha mẹ, cung kính Sư trưởng, siêng tu trai giới, bố thí cho người nghèo khổ thì về thưa với Thiên vương:

“Tâu Đại vương, ở thế gian, có người hiếu thảo với cha mẹ, cung kính thầy tổ, siêng tu trai giới và bố thí cho những người nghèo khổ.”

Tứ Thiên vương nghe xong, trong lòng vui vẻ nói rằng:

“Lành thay! Ta nghe được tin lành. Nếu ở thế gian có người hiếu thảo với cha mẹ, tôn kính Sư trưởng, siêng tu trai giới, bố thí cho người nghèo khó thì chúng trời sẽ gia tăng, chúng a-tu-luân sẽ giảm thiểu.”

Cho nên gọi ngày mười bốn là ngày trai giới.

Vì sao lấy ngày rằm là ngày trai giới? Vì vào ngày rằm, Tứ Thiên vương đích thân du hành khắp thiên hạ mà quan sát muôn dân xem có ai hiếu thảo với cha mẹ, tôn kính Sư trưởng, siêng tu trai giới và bố thí cho những người nghèo khó không? Nếu như thấy thế nhân phần nhiều là bất hiếu với cha mẹ, không tôn kính Sư trưởng, không siêng tu trai giới, không bố thí cho những người nghèo khó thì Tứ Thiên vương đến Thiện Pháp đường mà thưa với Đế-thích:

“Tâu Đại vương, chúng sanh ở thế gian phần nhiều là bất hiếu với cha mẹ, không tôn thờ Sư trưởng, không siêng tu trai giới và không bố thí cho người nghèo khó.”

Đế-thích và chư thiên cõi Đao-lợi nghe xong trong lòng buồn tủi không vui, nói rằng:

“Ôi ra là thế! Chúng sanh ở thế gian phần nhiều là ác độc, không hiếu thuận cha mẹ, không tôn thờ Sư trưởng, không siêng tu trai giới, không bố thí cho những người nghèo khó thì chúng trời sẽ giảm thiểu, chúng a-tu-luân sẽ gia tăng.”

Nếu như Tứ Thiên vương nhận thấy có chúng sanh hiếu thảo với cha mẹ, cung kính Sư trưởng, siêng tu trai giới, có bố thí cho người nghèo khó thì trở lại Thiện Pháp đường tâu với Đế-thích:

“Tâu Đại vương, ở thế gian có chúng sanh hiếu thảo với cha mẹ, tôn kính Sư trưởng, siêng tu trai giới, bố thí cho người nghèo khó.”

Đế-thích và chư thiên Đao-lợi nghe xong trong lòng rất vui vẻ nói rằng:

“Lành thay! Vì chúng sanh ở thế gian có hiếu thuận với cha mẹ, tôn kính Sư trưởng, siêng tu trai giới và bố thí cho người nghèo khó. Do đó, chúng trời sẽ gia tăng, chúng a-tu-luân sẽ giảm thiểu.”

Vì thế cho nên gọi ngày rằm là ngày trai giới. Vì lý do đó mà gọi là ba ngày trai giới vậy.

Bấy giờ, Đế-thích muốn khiến cho chư thiên càng thêm vui vẻ, liền nói bài kệ:

Người nào lấy ngày tám,
Mười bốn, rằm mỗi tháng
Để tu hành trai giới,
Người ấy đồng với ta.

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Đế-thích nói bài kệ ấy, lời lẽ không phải là đáng lãnh thọ, không phải là tốt đẹp. Ta không chấp nhận. Tại vì sao? Vì Đế-thích chưa dứt hết dâm dục, sân hận, ngu si, chưa thoát khỏi sanh, lão, bệnh, tử và lo buồn, khổ não. Ta bảo đó là người chưa thoát ly được căn bản của khổ. Nếu Tỳ-kheo nào đệ tử của Ta là bậc Lậu tận A-la-hán, những điều cần làm đã làm xong, đã đặt gánh nặng xuống, việc tự lợi đã xong, không còn các kiết sử trong ba cõi, bình đẳng giải thoát, vị Tỳ-kheo như thế mới nên nói bài kệ này:

Người nào lấy ngày tám,
Mười bốn, rằm mỗi tháng,
Để tu hành trai giới,
Người ấy đồng với Ta.

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Vị Tỳ-kheo ấy nói bài kệ này, lời lẽ mới là đáng lãnh thọ, mới gọi là đúng, được Ta chấp nhận. Tại vì sao? Vì Tỳ-kheo đó đã dứt dâm dục, sân hận, ngu si, đã thoát khỏi sanh, lão, bệnh, tử và lo buồn, khổ não. Ta bảo đó là bậc đã thoát ly được nguồn gốc của khổ.

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Tất cả nhà cửa mà nhân dân ở đều có quỷ thần, không có chỗ nào là không có. Tất cả ngõ hẻm, ngã tư, hàng thịt, chợ búa và bãi tha ma cũng đều có quỷ thần, không chỗ nào là không có. Các loại quỷ thần đều tùy theo nơi nương tựa mà có tên. Nếu nương tựa vào người thì gọi thần người. Nếu nương tựa vào thôn thì gọi thần thôn. Nếu nương tựa vào thành thì gọi thần thành. Nếu nương tựa vào nước thì gọi thần nước. Nếu nương tựa vào đất thì gọi thần đất. Nếu nương tựa vào núi thì gọi thần núi. Nếu nương tựa vào sông thì gọi thần sông.

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Tất cả cây cối, loại nhỏ nhất như trục xe cũng đều có quỷ thần nương tựa, không chỗ nào là không có. Tất cả nam, nữ khi mới chào đời đều có quỷ thần theo ủng hộ. Nếu khi họ chết thì quỷ thần ủng hộ họ, thu nhiếp tinh khí người đó. Vì thế, người ấy chết ngay.

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Giả sử có Phạm chí ngoại đạo hỏi: “Này chư Hiền, nếu tất cả nam, nữ khi sanh ra đều có quỷ thần theo thủ hộ thì khi người muốn chết, những quỷ thần thủ hộ ấy sẽ thu nhiếp tinh khí của người ấy, thế là người ấy chết. Nhưng sao lại có người bị quỷ thần quấy nhiễu, có người không bị quỷ thần quấy nhiễu?” Nếu có ai hỏi như thế thì các ông hãy đáp với họ: “Vì người đời hành động phi pháp, tà kiến điên đảo, thực hiện mười điều ác, những người như thế dù có trăm ngàn thì chỉ có một vị quỷ thần theo hộ vệ; cũng như một bầy trâu, bầy dê có cả trăm con, ngàn con nhưng chỉ có một người chăn mà thôi, việc ủng hộ con người cũng vậy; con người làm ác, hành động phi pháp, tà kiến điên đảo, thực hiện mười điều ác; những người như thế, hoặc là trăm, hay là ngàn cũng chỉ có một quỷ thần ủng hộ.”

Nếu có người tu hành thiện pháp, có chánh kiến, chánh tín, chánh hạnh, đầy đủ mười điều thiện. Một người như thế thì có trăm ngàn vị thần ủng hộ, ví như quốc vương, đại thần của quốc vương thì được hàng trăm, hàng ngàn người hộ vệ một người. Thế nên, người hành thiện được quỷ thần ủng hộ. Vì tu hành thập thiện và đầy đủ mười điều thiện, cũng như một người có trăm ngàn quỷ thần ủng hộ. Vì lý do đó nên người đời có người thì bị quỷ thần quấy nhiễu, có người không bị quỷ thần quấy nhiễu.

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Người Diêm-phù-đề có ba điều hơn người châu Cù-da-ni. Ba điều ấy là gì? Một là mạnh mẽ, nhớ dai, có khả năng tạo tác hành nghiệp; hai là mạnh mẽ, nhớ dai, cần mẫn tu hành Phạm hạnh; ba là mạnh mẽ, nhớ dai về đức Phật ra đời ở châu ấy.

Người châu Cù-da-ni có ba điều hơn người Diêm-phù-đề. Ba điều ấy là gì? Một là nhiều bò; hai là nhiều dê; ba là nhiều châu ngọc. Do ba điều này mà người ở châu Cù-da-ni hơn người ở châu Diêm-phù-đề.

Người Diêm-phù-đề có ba điều hơn người Phất-vu-đãi. Ba điều ấy là gì? Một là mạnh mẽ, nhớ dai, có khả năng tạo tác hành nghiệp; hai là mạnh mẽ, nhớ dai, có khả năng tu hành Phạm hạnh; ba là mạnh mẽ, nhớ dai về đức Phật ra đời ở châu ấy. Do ba điều trên nên người Diêm-phù-đề hơn người ở châu Phất-vu-đãi.

Người châu Phất-vu-đãi có ba điều hơn châu Diêm-phù-đề. Ba điều ấy là gì? Một là đất rất rộng; hai là đất rất lớn; ba là đất rất tốt. Do ba điều này mà người châu Phất-vu-đãi hơn người châu Diêm-phù-đề.

Người Diêm-phù-đề hơn người Uất-đơn-việt ba điều. Ba điều ấy là gì? Một là mạnh mẽ, nhớ dai, có khả năng tạo tác hành nghiệp; hai là mạnh mẽ, nhớ dai, có khả năng tu hành Phạm hạnh; ba là mạnh mẽ, nhớ dai về đức Phật xuất thế ở châu ấy. Do ba điều ấy nên người Diêm-phù-đề hơn người Uất-đơn-việt.

Người châu Uất-đơn-việt có ba điều hơn người châu Diêm-phù-đề. Ba điều ấy là gì? Một là không bị ràng buộc, lệ thuộc; hai là không có vật sở hữu; ba là tuổi thọ nhất định một ngàn năm. Do ba điều ấy mà người Uất-đơn-việt hơn người Diêm-phù-đề.

Người Diêm-phù-đề cũng có ba điều trên hơn ngạ quỷ; ngược lại, ngạ quỷ cũng có ba điều hơn người Diêm-phù-đề. Ba điều ấy là gì? Một là trường thọ; hai là thân hình to lớn; ba là người khác làm mà mình nhận lãnh. Do ba điều này mà ngạ quỷ hơn Diêm-phù-đề.

Người Diêm-phù-đề cũng có ba điều trên hơn long vương và Kim Sí điểu; long vương, Kim Sí điểu cũng có ba điều hơn người Diêm-phù-đề. Ba điều ấy là gì? Một là trường thọ; hai là thân hình to lớn; ba là có cung điện. Do ba điều này mà long vương và Kim Sí điểu hơn người Diêm-phù-đề.

Lại nữa, người châu Diêm-phù-đề cũng có ba điều trên hơn a-tu-luân; a-tu-luân cũng có ba điều hơn người Diêm-phù-đề. Ba điều ấy là gì? Một là cung điện cao rộng; hai là cung điện trang nghiêm; ba là cung điện thanh tịnh. Do ba điều này mà hơn người Diêm-phù-đề.

Người Diêm-phù-đề cũng có ba điều trên mà hơn Tứ Thiên Vương; Tứ Thiên Vương cũng có ba điều hơn người Diêm-phù-đề. Ba điều ấy là gì? Một là trường thọ; hai là đoan chánh; ba là nhiều sự an vui. Do ba điều trên mà Tứ Thiên Vương hơn người Diêm-phù-đề. Người Diêm-phù-đề cũng có ba điều trên hơn Đao-lợi thiên, Diệm-ma thiên, Đâu-suất thiên, Hóa Tự Tại thiên, Tha Hóa Tự Tại thiên. Chư thiên ở đấy cũng có ba điều hơn người Diêm-phù-đề. Ba điều ấy là gì? Một là trường thọ; hai là đoan chánh; ba là nhiều sự an vui.

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Có mười hai loại chúng sanh ở Dục giới. Mười hai loại ấy là gì? (1) Địa ngục; (2) Súc sanh; (3) Ngạ quỷ; (4) Nhân; (5) A-tu-luân; (6) Tứ Thiên Vương; (7) Đao-lợi thiên; (8) Diệm-ma thiên; (9) Đâu-suất thiên; (10) Hóa Tự Tại thiên; (11) Tha Hóa Tự Tại thiên; (12) Ma thiên.

Có hai mươi hai loại chúng sanh ở Sắc giới. Hai mươi hai loại ấy là gì? (1) Phạm Thân thiên; (2) Phạm Phụ thiên; (3) Phạm Chúng thiên; (4) Đại Phạm thiên; (5) Quang thiên; (6) Thiểu Quang thiên; (7) Vô Lượng Quang thiên; (8) Quang Âm thiên; (9) Tịnh thiên; (10) Thiểu Tịnh thiên; (11) Vô Lượng Tịnh thiên; (12) Biến Tịnh thiên; (13) Nghiêm Sức thiên; (14) Tiểu Nghiêm Sức thiên; (15) Vô Lượng Nghiêm Sức thiên; (16) Nghiêm Thắng Quả Thật thiên; (17) Vô Tưởng thiên; (18) Vô Phiền thiên; (19) Vô Nhiệt thiên; (20) Thiện Kiến thiên; (21) Đại Thiện Kiến thiên; (22) A-ca-ni-trá thiên.

Có bốn loại chúng sanh ở cõi Vô sắc. Bốn loại ấy là gì? (1) Không Trí thiên; (2) Thức Trí thiên; (3) Vô Sở Trí thiên; (4) Hữu Tưởng Vô Tưởng Trí thiên.

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Có bốn đại thiên thần. Bốn vị ấy là ai? (1) Địa thần; (2) Thủy thần; (3) Phong thần; (4) Hỏa thần.

Ngày xưa, địa thần phát sanh ý niệm sai lầm rằng:

“Trong đất không có nước, lửa, gió.”

Ta biết tâm niệm của địa thần, liền đến đó bảo:

“Ông đang phát sanh ý niệm: ‘Trong đất không có nước, lửa, gió’ chăng?”

Địa thần đáp:

“Bạch, vâng, trong đất quả thật không có nước, gió, lửa!”

Lúc đó, Ta nói:

“Ngươi chớ sinh ý niệm: ‘Trong đất không có nước, lửa, gió’ như thế. Tại sao? Vì trong đất có nước, lửa, gió, chỉ vì thành tố đất nhiều nên gọi là đất” (địa đại).

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Khi ấy, Ta vì địa thần mà tuần tự nói pháp, dứt trừ ác kiến, chỉ bày những điều lợi ích hoan hỷ về thực hành bố thí, nói về trì giới, về sự sanh thiên. Đồng thời, nói dục là bất tịnh, nói lậu hoặc là khổ đau, pháp giải thoát là trên hết và trình bày tường tận về hạnh thanh tịnh. Lúc ấy, Ta biết tâm địa thần đã thanh tịnh, nhu nhuyến, hoan hỷ, không còn năm triền cái, dễ dàng được khai hóa. Ta cũng theo thường pháp chư Phật mà khai thị, chỉ bày và giảng rộng về khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế. Bấy giờ, địa thần ngay tại chỗ ngồi, xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Ví như chiếc áo trắng sạch sẽ thì dễ nhuộm thắm màu. Địa thần cũng vậy, tín tâm đã thanh tịnh, đã được pháp nhãn, không còn nghi ngờ, thấy pháp rõ ràng, không còn đọa vào đường ác, không còn khuynh hướng theo đạo khác, thành tựu pháp vô úy, liền nói với Ta:

“Nay con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, trọn đời nguyện không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Con xin đức Thế Tôn hãy chấp nhận cho con ở trong Chánh pháp của Ngài làm một vị ưu-bà-di!”

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Thuở xưa, thủy thần phát sanh ý niệm sai lầm rằng: “Trong nước không có đất, lửa, gió.” Khi đó, địa thần biết thủy thần sinh ý niệm này, bèn đến nói với thủy thần:

“Ngươi thật có khởi ý niệm: ‘Trong nước không có đất, gió, lửa’ chăng?”

Thủy thần đáp:

“Thật có!”

Bấy giờ, địa thần nói:

“Ngươi chớ nên sanh ý niệm ấy mà cho rằng trong nước không có đất, lửa, gió. Tại sao? Vì trong nước có đất, lửa, gió, chẳng qua vì thành tố nước nhiều, cho nên gọi là nước” (thủy đại).

Khi ấy, địa thần vì thủy thần mà nói pháp, dứt trừ ý niệm sai lầm, trình bày về giáo pháp, được lợi ích hoan hỷ, luận về bố thí, luận về trì giới, về sự sanh thiên, nói dục là bất tịnh, các lậu hoặc là khổ đau, pháp giải thoát là trên hết, trình bày tường tận về hạnh thanh tịnh. Lúc ấy, địa thần biết tâm thủy thần đã nhu nhuyến, hoan hỷ, tin hiểu, thanh tịnh, không bị ngăn che, dễ dàng được khai hóa. Địa thần theo thường pháp của chư Phật mà thuyết pháp giảng về khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế một cách sâu rộng.

Bấy giờ, thủy thần tức thì xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Ví như chiếc áo trắng sạch sẽ thì dễ nhuộm thắm màu. Thủy thần cũng như vậy, tín tâm đã thanh tịnh, được sự thanh tịnh của pháp nhãn, không còn nghi ngờ, chắc chắn chứng quả, không còn đọa vào đường ác, không còn khuynh hướng theo đạo khác, thành tựu pháp vô úy, liền nói với địa thần:

“Nay tôi xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, trọn đời nguyện không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Hãy chấp nhận tôi ở trong Chánh pháp làm một vị ưu-bà-di!”

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Thuở xưa, hỏa thần phát sanh ý niệm sai lầm rằng: “Trong lửa không có đất, nước, gió.” Khi đó, địa thần, thủy thần biết được hỏa thần phát sanh kiến giải như thế, bèn nói với hỏa thần:

“Ngươi thật có khởi ý niệm: ‘Trong lửa không có đất, nước, gió’ chăng?”

Hỏa thần đáp:

“Thật có!”

Bấy giờ, địa thần, thủy thần nói:

“Ngươi chớ nên sanh ý niệm ấy mà cho rằng: ‘Trong lửa không có đất, nước, gió.’ Tại vì sao? Vì trong lửa có đất, nước và gió, chỉ vì thành tố lửa nhiều, cho nên gọi là lửa” (hỏa đại).

Khi ấy, hai vị thần vì hỏa thần mà nói pháp, dứt trừ kiến giải sai lầm, trình bày những điều lợi ích hoan hỷ, luận về bố thí, trì giới, về sự sanh thiên, nói dục là bất tịnh, các lậu hoặc là đau khổ, pháp giải thoát là trên hết, trình bày tường tận về hạnh thanh tịnh. Lúc ấy, hai vị thần biết tâm niệm hỏa thần đã nhu nhuyến, hoan hỷ, thanh tịnh, không còn bị ngăn che, dễ dàng được khai hóa. Hai vị ấy cũng theo thông lệ của chư Phật mà trình bày rộng rãi về khổ Thánh đế, tập Thánh đế, diệt Thánh đế và đạo Thánh đế.

Bấy giờ, hỏa thần tức thì xa lìa trần cấu, được sự thanh tịnh của pháp nhãn. Ví như chiếc áo trắng sạch sẽ thì dễ nhuộm thắm màu. Hỏa thần lúc đó cũng vậy, tín tâm đã thanh tịnh, đã được pháp nhãn không còn nghi ngờ, chắc chắn chứng quả, không còn đọa vào đường ác, không còn khuynh hướng theo đạo khác, thành tựu pháp vô úy, liền nói với hai vị thần:

“Nay tôi xin quy y Phật, Pháp, Thánh chúng, trọn đời nguyện không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Hãy chấp nhận tôi ở trong Chánh pháp làm một vị ưu-bà-di!”

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Thuở xưa, phong thần phát sanh kiến giải sai lầm, bảo rằng: “Trong gió không có đất, nước, lửa.” Khi đó, ba vị địa thần, thủy thần, hỏa thần biết phong thần phát sanh kiến giải như thế, bèn đến nói với phong thần:

“Ngươi thật có phát sanh kiến giải rằng: ‘Trong gió không có đất, nước, lửa’ chăng?”

Phong thần đáp:

“Thật có!”

Ba vị thần nói:

“Ngươi chớ nên sanh kiến giải ấy. Tại vì sao? Vì trong gió có đất, nước, lửa. Chỉ vì thành tố gió nhiều, cho nên gọi là gió” (phong đại).

Khi đó, ba vị thần vì phong thần mà nói pháp, dứt trừ kiến giải sai lầm, trình bày sự lợi ích hoan hỷ và luận về bố thí, trì giới và về sanh thiên, nói dục là bất tịnh, các lậu hoặc là đau khổ, pháp giải thoát là trên hết, trình bày tường tận về Phạm hạnh. Lúc đó, ba vị thần biết tâm niệm phong thần đã nhu nhuyến, hoan hỷ, tin hiểu, không còn bị ngăn che, dễ dàng được khai hóa. Ba vị ấy cũng theo thông lệ của chư Phật mà trình bày rộng rãi về khổ Thánh đế, tập Thánh đế, diệt Thánh đế, đạo Thánh đế.

Bấy giờ, phong thần liền xa lìa trần cấu, được sự thanh tịnh của pháp nhãn. Ví như chiếc áo trắng sạch sẽ thì dễ nhuộm thắm màu. Phong thần cũng vậy, tín tâm đã thanh tịnh, được pháp nhãn, không còn nghi ngờ, chắc chắn chứng quả, không còn đọa vào đường ác, không còn khuynh hướng theo đạo khác, thành tựu pháp vô úy, liền nói với ba vị thần:

“Nay tôi xin quy y Phật, Pháp, Thánh chúng, trọn đời nguyện không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Hãy chấp nhận tôi ở trong Chánh pháp làm một vị ưu-bà-di, có tâm từ bi đối với tất cả chúng sanh, không còn phá phách chúng sanh!”

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Mây có bốn thứ. Bốn thứ ấy là gì? Một là màu trắng, hai là màu đen, ba là màu đỏ, bốn là màu hồng. Nếu mây màu trắng là vì địa đại nhiều hơn. Nếu mây màu đen là vì thủy đại nhiều hơn. Nếu mây màu đỏ là vì hỏa đại nhiều hơn. Nếu mây màu hồng là vì phong đại nhiều hơn. Mây cách mặt đất mười dặm, hai mươi dặm, ba mươi dặm, bốn mươi dặm, cho đến bốn ngàn dặm. Từ khi kiếp số mới thành lập mây lên đến Quang Âm thiên.

Chớp có bốn loại. Bốn loại ấy là gì? Chớp ở phương Đông gọi là Thần Quang. Chớp ở phương Nam gọi là Nan Hủy. Chớp ở phương Tây gọi là Lưu Diệm. Chớp ở phương Bắc gọi là Định Minh. Vì sao mây trong hư không lại có ánh chớp này? Có khi Thần Quang và Nan Hủy chạm nhau, hoặc có khi Thần Quang và Lưu Diệm chạm nhau, hoặc có khi Thần Quang và Định Minh chạm nhau, hoặc có khi Nan Hủy và Lưu Diệm chạm nhau, hoặc có khi Nan Hủy và Định Minh chạm nhau. Do đó nên trong hư không có ánh chớp sanh khởi.

Vì sao trong mây ở hư không có tiếng sấm sét? Vì mây trong hư không có khi địa đại và thủy đại chạm nhau, hoặc có khi địa đại cùng hỏa đại chạm nhau, hoặc có khi địa đại cùng phong đại chạm nhau, hoặc có khi thủy đại cùng hỏa đại chạm nhau, hoặc có khi thủy đại cùng phong đại chạm nhau. Vì lý do đó nên trong mây ở hư không có tiếng sét sanh khởi.

Có năm trường hợp mà các thầy tướng tiên đoán về mưa không thể biết được một cách chắc chắn mà vướng sai lầm. Năm trường hợp ấy là gì? Một là mây có sấm chớp, thầy tướng đoán rằng: “Sắp mưa.” Nhưng vì hỏa đại nhiều, cho nên thiêu hủy mây đi, do đó không mưa. Đó là lý do thứ nhất làm cho thầy tướng đoán sai lầm. Hai là mây có sấm chớp, thầy tướng đoán rằng: “Sắp mưa.” Nhưng vì có phong đại nổi lên thổi mây bay đi tứ tán vào trong các núi. Đó là lý do thứ hai làm cho thầy tướng đoán sai lầm. Ba là có sấm chớp, thầy tướng đoán rằng: “Sắp mưa.” Nhưng bấy giờ Đại A-tu-luân đem mây trôi lơ lửng đặt giữa biển cả. Đó là lý do làm cho thầy tướng đoán sai lầm. Bốn là mây có sấm chớp, các thầy tướng bảo: “Sắp mưa.” Nhưng vì thần mây, thần mưa mải lo phóng túng, dâm loàn nên cuối cùng không làm mưa xuống. Đó là lý do làm cho thầy tướng đoán sai lầm. Năm là mây có sấm chớp, các thầy tướng đoán rằng: “Sắp mưa.” Nhưng vì thế nhân hành động phi pháp, phóng túng, thực hành bất tịnh, xan tham, tật đố, tà kiến, điên đảo, cho nên khiến trời không mưa. Vì lý do đó nên thầy tướng đoán sai lầm. Đó là năm trường hợp làm cho thầy tướng đoán về mưa không biết chắc được có mưa hay không.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.