Viện Nghiên Cứu Phật Học

12. PHẨM THẾ BỔN DUYÊN 113

 

 Đức Phật dạy:

– Này các Tỳ-kheo! Sau khi nạn lửa đã qua thì trời, đất và thế gian này sắp khôi phục. Có những chúng sanh vì phước hết, nghiệp hết và mạng hết, qua đời tại cõi trời Quang Âm rồi sanh về cõi Phạm thiên trống không.114 Ở đây, những chúng sanh này sanh tâm đắm nhiễm, yêu thích cõi này rồi mong những chúng sanh khác cùng đến sống chung. Sau khi có ý niệm như thế, có những chúng sanh khác vì phước hết, nghiệp hết và mạng hết, qua đời tại cõi trời Quang Âm rồi sanh về cõi Phạm thiên trống không. Bấy giờ, vị Phạm thiên sanh ra trước tiên tự nghĩ: “Ta là Phạm vương, là Đại Phạm thiên vương, ta không do ai sanh ra, tự nhiên mà có, không do thọ thai. Ở trong một ngàn thế giới, ta là đấng tự tại bậc nhất, thông hiểu các nghĩa lý, giàu có sung túc, có khả năng tạo ra vạn vật, là cha mẹ của tất cả chúng sanh.”

Những Phạm thiên đến sau cũng tự nghĩ: “Vị Phạm thiên sanh ra trước kia là Phạm vương, là Đại Phạm thiên vương, tự nhiên mà có, không do ai sanh ra. Ở trong một ngàn thế giới, vị ấy là đấng tôn kính bậc nhất, không thừa hưởng gì từ ai khác, thông hiểu các nghĩa lý, giàu có sung túc, có khả năng tạo ra vạn vật, là cha mẹ của tất cả chúng sanh, ta được sanh ra từ vị ấy.”

Vị Phạm thiên vương ấy có hình dáng và dung nhan trông giống như trẻ thơ, thế nên Phạm vương còn được gọi là đồng tử.115

Hoặc có lúc, khi thế gian này khôi phục, đa số chúng sanh được sanh về cõi trời Quang Âm, tự nhiên hóa sanh, lấy sự hoan hỷ làm thức ăn, thân tự phát ra ánh sáng, có thần túc bay giữa hư không, an vui, không bị chướng ngại, mạng sống lâu dài. Sau đó, thế gian này biến thành một biển nước lớn, tràn ngập khắp nơi. Ngay lúc đó, cả thiên hạ đều tối tăm, không có mặt trời, mặt trăng, các vì sao và cả ngày, đêm, cũng không có con số năm, tháng hay bốn mùa. Sau thời gian đó, thế giới này bắt đầu chuyển biến để khôi phục. Có những chúng sanh khác vì phước hết, nghiệp hết và mạng hết, qua đời tại cõi trời Quang Âm rồi sanh đến thế giới này, đều do hóa sanh và lấy sự hoan hỷ làm thức ăn, thân tự phát ra ánh sáng, có thần túc bay giữa hư không, an lạc không chướng ngại và sống một thời gian rất lâu ở cõi này. Thuở ấy không có nam, nữ, không có tôn ti trên, dưới, cũng không có tên gọi khác nhau mà chỉ có nhiều người cùng sanh ra trong một thế giới, cho nên gọi là chúng sanh.

Lúc đó, đất này tự nhiên sanh ra mùi vị của đất,116 ngưng tụ trong đất, giống như đề-hồ.117 Vị đất khi xuất hiện cũng thế, giống như sanh tô,118 vị ngọt như mật.

Sau đó, những chúng sanh này dùng tay nếm thử xem là vị gì. Lúc đầu nếm thấy ngon, liền sanh tâm đắm nhiễm mùi vị. Do nếm liên tục không dứt nên sanh tâm tham đắm, vì dùng tay bốc nên hình thành cách ăn đoàn thực, do cứ mãi bốc đất ăn nên chúng sanh khác trông thấy liền bắt chước theo, rồi cứ bốc đất ăn mãi. Khi ấy, thân thể của chúng sanh trở nên thô kệch, ánh sáng mất dần, không còn thần túc, không thể bay trong hư không.

Lúc ấy chưa có mặt trời, mặt trăng mà ánh sáng của chúng sanh thì đã mất hẳn nên trời đất tối tăm, cũng như giai đoạn đầu không khác.

Trải qua một thời gian rất lâu, có trận cuồng phong thổi vào biển cả, mực nước sâu tám mươi bốn ngàn do-tuần, khiến cho nước rẽ làm đôi, cuốn cung điện mặt trời đặt ở lưng chừng núi Tu-di rồi tạo thành quỹ đạo mặt trời, mọc từ hướng Đông, lặn ở phía Tây, xoay vần khắp thiên hạ.

[0145b11] Cung điện mặt trời thứ hai, mọc từ hướng Đông, lặn về hướng Tây. Lúc đó, có chúng sanh nói: “Đó là ngày hôm qua.” Hoặc có người nói: “Đó không phải là ngày hôm qua.”

Cung điện mặt trời thứ ba xoay quanh núi Tu-di, mọc từ hướng Đông, lặn ở hướng Tây. Lúc đó, có chúng sanh nói: “Quy định như thế là một ngày.” Ngày, nghĩa là nương vào sự tiến lên của ánh sáng, nên gọi đó là ngày. Mặt trời có hai nghĩa: Một là trú ở nơi cố định,119 hai là cung điện. Nhìn xa từ bốn phía, thấy cung điện có hình tròn, nóng lạnh điều hòa, do vàng cõi trời tạo nên, xen lẫn với pha lê; hai phần là vàng ròng cõi trời, thuần chất không pha tạp, trong ngoài trong suốt, ánh sáng tỏa chiếu rất xa; một phần là pha lê thuần chất không pha tạp, trong ngoài trong suốt, ánh sáng chiếu rất xa.

Cung điện mặt trời dài rộng năm mươi mốt do-tuần, đất và tường thành của cung điện mỏng manh như lau lách.120

Cung điện có bảy lớp tường thành, bảy lớp lan can, bảy lớp màn lưới, bảy lớp hàng cây, bảy lớp linh báu, trang trí giáp vòng, đều do bảy báu tạo thành. Tường bằng vàng thì cửa bằng bạc, tường bằng bạc thì cửa bằng vàng, tường bằng lưu ly thì cửa bằng thủy tinh, tường bằng thủy tinh thì cửa bằng lưu ly, tường bằng xích châu thì cửa bằng mã não, tường bằng mã não thì cửa bằng xích châu, tường bằng xà cừ thì cửa bằng các loại báu, tường bằng các loại báu thì cửa bằng xà cừ.

Lại nữa, với các lan can, nếu lan can bằng vàng thì tay vịn bằng bạc, lan can bằng bạc thì tay vịn bằng vàng, lan can bằng lưu ly thì tay vịn bằng thủy tinh, lan can bằng thủy tinh thì tay vịn bằng lưu ly, lan can bằng xích châu thì tay vịn bằng mã não, lan can bằng mã não thì tay vịn bằng xích châu, lan can bằng các loại báu thì tay vịn bằng xà cừ, lan can bằng xà cừ thì tay vịn bằng các loại báu.

Màn lưới bằng vàng thì treo chuông bằng bạc, màn lưới bằng bạc thì treo chuông bằng vàng, màn lưới bằng thủy tinh thì treo chuông bằng lưu ly, màn lưới bằng lưu ly thì treo chuông bằng thủy tinh, màn lưới bằng xích châu thì treo chuông bằng mã não, màn lưới bằng mã não thì treo chuông bằng xích châu, màn lưới bằng xà cừ thì treo chuông bằng các loại báu, màn lưới bằng các loại báu thì treo chuông bằng xà cừ.

Cây bằng vàng thì lá, hoa và trái bằng bạc; cây bằng bạc thì lá, hoa và trái bằng vàng; cây bằng lưu ly thì hoa và trái bằng thủy tinh; cây bằng thủy tinh thì hoa và trái bằng lưu ly; cây bằng xích châu thì hoa và trái bằng mã não; cây bằng mã não thì hoa và trái bằng xích châu; cây bằng xà cừ thì hoa và trái bằng các loại báu; cây bằng các loại báu thì hoa và trái bằng xà cừ.

Tường thành cung điện có bốn cửa, mỗi cửa có bảy bậc thềm, có lan can bao quanh, có đền đài, lầu gác, vườn rừng, ao tắm, theo thứ lớp đối nhau. Cung điện có các loài hoa báu, mỗi hàng mỗi lớp đối xứng nhau, có vô số loại cây trái, hoa lá nhiều màu sắc xen kẽ, tỏa hương thơm ngát, lan khắp bốn phương, có vô số loài chim cùng nhau ca hót.

[0145c07] Cung điện mặt trời được năm ngọn gió duy trì: Một là Trì phong, hai là Dưỡng phong, ba là Thọ phong, bốn là Chuyển phong và năm là Điều phong. Chánh điện của Nhật thiên tử cư ngụ, do vàng ròng tạo thành, cao mười sáu do-tuần. Cung điện có bốn cửa, có lan can bao quanh. Tòa của Nhật thiên tử dài rộng nửa do-tuần, do bảy báu tạo thành, tinh sạch, mềm mại như áo trời. Thân thể của Nhật thiên tử phát ra ánh sáng, chiếu khắp cung điện bằng vàng. Cung điện bằng vàng phát ra ánh sáng, chiếu vào cung điện mặt trời, ánh sáng của cung điện mặt trời chiếu khắp bốn thiên hạ. Nhật thiên tử thọ năm trăm tuổi trời. Con cháu thừa kế nhau, không gián đoạn, không có người khác họ kế vị. Cung điện mặt trời không bị tiêu hoại, tồn tại suốt một kiếp.

Khi cung điện mặt trời di chuyển nhưng Nhật thiên tử không có ý di chuyển nên bảo rằng: “Ta dừng”, luôn tự vui thú bằng năm thứ dục lạc. Khi cung điện mặt trời vận hành, có vô số trăm ngàn chư thiên cùng thiên thần đi theo dẫn đường trước, hoan hỷ không mệt mỏi, ưa thích nhanh nhẹn, cho nên Nhật thiên tử được gọi là Nhanh Nhẹn.

Thân của Nhật thiên tử phát ra ngàn tia sáng, năm trăm tia sáng chiếu xuống và năm trăm tia sáng chiếu chung quanh, đây là do công đức và hạnh nguyện đời trước nên có ngàn tia sáng này, vì thế Nhật thiên tử còn được gọi là Thiên Quang.121

Công đức, hạnh nguyện của Nhật thiên tử ở đời trước như thế nào? Đó là, hoặc có người cúng dường cho Sa-môn, Bà-la-môn, cấp dưỡng cho người nghèo khó, như bố thí thực phẩm, áo quần, thuốc thang, voi, ngựa, xe cộ, phòng ốc và đèn đuốc. Trong khi bố thí thì tùy theo nhu cầu của họ mà cho, không trái ý họ. Hoặc cúng dường cho người giữ giới, các bậc Hiền thánh. Do thực hành vô số các pháp hỷ sáng suốt như thế, nên khởi tâm lành hoan hỷ. Như vua thuộc dòng Sát-lợi được rưới nước lên đỉnh đầu trong lễ đăng quang cũng khởi tâm lành hoan hỷ như thế. Do nhân duyên này, người ấy khi mạng chung được làm Nhật thiên tử, có cung điện mặt trời và có ngàn tia sáng, cho nên nói do nghiệp lành mà có được ngàn tia sáng.

Lại nữa, do những việc gì mà gọi là tạo nghiệp lành sáng suốt đời trước? Đó là, có người không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không nói lời thô ác, không nói hai chiều, không nói thêu dệt, không tham lam, không sân hận, không tà kiến, vì nhân duyên đó nên khởi tâm lành hoan hỷ. Ví như ở ngã tư đường có ao tắm lớn, trong sạch, không dơ bẩn, có người từ phương xa đến, đang nóng khát mệt lả, vào ao này tắm gội, liền được mát mẻ nên cảm thấy vui vẻ, sảng khoái. Người tu mười hạnh lành ấy, tâm lành hoan hỷ cũng như thế. Người ấy sau khi mạng chung được làm Nhật thiên tử, ở trong cung điện mặt trời có ngàn tia sáng, vì nhân duyên đó nên gọi là nghiệp lành sáng suốt.

[0146a06] Lại nữa, vì nguyên do gì mà gọi là có ngàn tia sáng? Vì có người không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, do nhân duyên này nên tâm lành hoan hỷ, sau khi mạng chung được làm Nhật thiên tử, ở trong cung điện mặt trời, có ngàn tia sáng, do nhân duyên này nên gọi là nghiệp lành ngàn tia sáng.

Một la-da122 bao gồm sáu mươi sát-na,123 ba mươi la-da thì gọi là ma-hầu- đa;124 trăm ma-hầu-đa thì gọi là ưu-ba-ma.125 Cung điện mặt trời sáu tháng di chuyển về phía Nam, một ngày đi được ba mươi dặm về hướng cực Nam nhưng không vượt qua Diêm-phù-đề. Cung điện mặt trời lúc di chuyển về phía Bắc cũng lại như thế.

 Do nguyên nhân gì mà ánh sáng mặt trời nóng bức? Có mười nguyên nhân.

Mười nguyên nhân đó là gì?

Một là, ngoài núi Tu-di có núi Khư-đà-la126 cao bốn mươi hai ngàn do- tuần, dài rộng bốn mươi hai ngàn do-tuần, giáp vòng núi không có giới hạn, do bảy báu tạo thành. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến ngọn núi ấy, do sự tiếp xúc nên phát ra nhiệt, đó là nguyên nhân thứ nhất khiến cho ánh sáng mặt trời nóng bức.

Hai là, ngoài núi Khư-đà-la có núi Y-sa-đà127 cao hai mươi mốt ngàn do- tuần, ngang dọc hai mươi mốt ngàn do-tuần, giáp vòng núi không có giới hạn, do bảy báu tạo thành. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến ngọn núi ấy, do sự tiếp xúc nên phát ra nhiệt, đó là nguyên nhân thứ hai khiến cho ánh sáng mặt trời nóng bức.

Ba là, ngoài núi Y-sa-đà có núi Thọ-đề-đà-la128 cao mười hai ngàn do-tuần, ngang dọc mười hai ngàn do-tuần, giáp vòng núi không có giới hạn, do bảy báu tạo thành. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến ngọn núi ấy, do sự tiếp xúc nên phát ra nhiệt, đó là nguyên nhân thứ ba khiến cho ánh sáng mặt trời nóng bức.

Bốn là, cách núi Thọ-đề-đà-la có núi Thiện Kiến cao sáu ngàn do-tuần, ngang dọc sáu ngàn do-tuần, giáp vòng núi không có giới hạn, do bảy báu tạo thành. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến ngọn núi ấy, do sự tiếp xúc nên phát ra nhiệt, đó là nguyên nhân thứ tư khiến cho ánh sáng mặt trời nóng bức.

Năm là, ngoài núi Thiện Kiến có núi Mã Tự129 cao ba ngàn do-tuần, ngang dọc ba ngàn do-tuần, giáp vòng núi không có giới hạn, do bảy báu tạo thành. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến ngọn núi ấy, do sự tiếp xúc nên phát ra nhiệt, đó là nguyên nhân thứ năm khiến cho ánh sáng mặt trời nóng bức.

Sáu là, cách xa núi Mã Tự có núi Ni-di-đà-la130 cao một ngàn hai trăm do- tuần, ngang dọc một ngàn hai trăm do-tuần, giáp vòng núi không có giới hạn, do bảy báu tạo thành. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến ngọn núi ấy, do sự tiếp xúc nên phát ra nhiệt, đó là nguyên nhân thứ sáu khiến cho ánh sáng mặt trời nóng bức.

Bảy là, cách núi Ni-di-đà-la có núi Điều Phục cao sáu trăm do-tuần, ngang dọc sáu trăm do-tuần, giáp vòng núi không có giới hạn, do bảy báu tạo thành. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến ngọn núi ấy, do sự tiếp xúc nên phát ra nhiệt, đó là nguyên nhân thứ bảy khiến cho ánh sáng mặt trời nóng bức.

Tám là, cách núi Điều Phục có núi Kim Cang Luân cao ba trăm do-tuần, ngang dọc ba trăm do-tuần, giáp vòng núi không có giới hạn, do bảy báu tạo thành. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến ngọn núi ấy, do sự tiếp xúc nên phát ra nhiệt, đó là nguyên nhân thứ tám khiến cho ánh sáng mặt trời nóng bức.

Lại nữa, lên cao mười ngàn do-tuần, có cung trời tên Tinh Tú do lưu ly tạo thành. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến cung điện ấy, do sự tiếp xúc nên phát ra nhiệt, đó là nguyên nhân thứ chín khiến cho ánh sáng mặt trời nóng bức.

Lại nữa, khi ánh sáng của cung điện mặt trời chiếu đến đại địa này, do sự tiếp xúc nên phát nhiệt, đó là nguyên nhân thứ mười khiến cho ánh sáng mặt trời nóng bức.

Bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài kệ:
Phật nói về mặt trời, Vì có mười nguyên nhân, Nên có tên Thiên Quang, Và ánh sáng nóng rực.

[0146b16] Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

– Vì lý do gì [mà] vào mùa đông thì cung điện mặt trời lạnh đến nỗi không thể đến gần, dù có ánh sáng nhưng vẫn lạnh? Do mười ba nguyên nhân, tuy là có ánh sáng nhưng vẫn lạnh. Mười ba nguyên nhân đó là gì?

Một là, giữa núi Tu-di và Khư-đà-la có hồ nước rộng tám mươi bốn ngàn do-tuần, giáp vòng mênh mông không giới hạn. Trong hồ nước ấy mọc các loài hoa như: Hoa ưu-bát-la, hoa câu-vật-đầu, hoa bát-đầu-ma, hoa phân-đà-lợi và hoa tu-càn-đề. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến, do sự tiếp xúc nên sanh khí lạnh, đó là nguyên nhân thứ nhất khiến cho ánh sáng mặt trời lạnh giá.

Hai là, giữa núi Khư-đà-la và Y-sa-đà-la có hồ nước rộng bốn mươi hai ngàn do-tuần, ngang dọc bốn mươi hai ngàn do-tuần, giáp vòng mênh mông không giới hạn. Trong hồ nước ấy có nhiều loài hoa mọc xen lẫn. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến, do sự tiếp xúc nên sanh khí lạnh, đó là nguyên nhân thứ hai khiến cho ánh sáng mặt trời lạnh giá.

Ba là, giữa núi Y-sa-đà-la và núi Thọ-đề-đà-la có hồ nước rộng hai mươi mốt ngàn do-tuần, giáp vòng mênh mông không giới hạn, có các loài hoa mọc xen lẫn. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến, do sự tiếp xúc nên sanh khí lạnh, đó là nguyên nhân thứ ba khiến cho ánh sáng mặt trời lạnh giá.

Bốn là, giữa núi Thiện Kiến và núi Thọ-đề có hồ nước rộng mười hai ngàn do-tuần, giáp vòng mênh mông không giới hạn, có các loài hoa mọc xen lẫn. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến, do sự tiếp xúc nên sanh khí lạnh, đó là nguyên nhân thứ tư khiến cho ánh sáng mặt trời lạnh giá.

Năm là, giữa núi Thiện Kiến và núi Mã Tự có hồ nước rộng sáu ngàn do- tuần, có các loài hoa mọc xen lẫn. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến, do sự tiếp xúc nên sanh khí lạnh, đó là nguyên nhân thứ năm khiến cho ánh sáng mặt trời lạnh giá.

Sáu là, giữa núi Mã Tự và núi Ni-di-đà-la có một hồ nước rộng một ngàn hai trăm do-tuần, giáp vòng mênh mông không giới hạn, có các loài hoa mọc xen lẫn. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến, do sự tiếp xúc nên sanh khí lạnh, đó là nguyên nhân thứ sáu khiến cho ánh sáng mặt trời lạnh giá.

Khoảng giữa núi Ni-di-đà-la và núi Điều Phục có một hồ nước rộng sáu trăm do-tuần, giáp vòng mênh mông không giới hạn, có các loài hoa mọc xen lẫn. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến, do sự tiếp xúc nên sanh khí lạnh, đó là nguyên nhân thứ bảy khiến cho ánh sáng mặt trời lạnh giá.

Khoảng giữa núi Điều Phục và núi Kim Cang Luân có một hồ nước rộng ba trăm do-tuần, giáp vòng mênh mông không giới hạn, có các loài hoa mọc xen lẫn. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến, do sự tiếp xúc nên sanh khí lạnh, đó là nguyên nhân thứ tám khiến cho ánh sáng mặt trời lạnh giá.

Lại nữa, cõi đất Diêm-phù thuận lợi về sông, suối, biển cả. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến, do sự tiếp xúc nên sanh khí lạnh, đó là nguyên nhân thứ chín khiến cho mặt trời lạnh giá.

Châu Diêm-phù-đề ít sông, suối, còn châu Cù-da-ni thì nhiều sông, hồ. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến, do sự tiếp xúc nên sanh khí lạnh, đó là nguyên nhân thứ mười khiến cho ánh sáng mặt trời lạnh giá.

Châu Cù-da-ni ít sông, suối, còn châu Phất-vu-đãi thì nhiều sông, hồ. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến, do sự tiếp xúc nên sanh khí lạnh, đó là nguyên nhân thứ mười một khiến cho mặt trời lạnh giá.

Châu Phất-vu-đãi ít sông, suối, châu Uất-đan-việt thì nhiều sông, hồ. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến, do sự tiếp xúc nên sanh khí lạnh, đó là nguyên nhân thứ mười hai khiến cho mặt trời lạnh giá.

Lại nữa, khi ánh sáng của cung điện mặt trời chiếu vào mặt nước của biển cả, do sự tiếp xúc nên sanh khí lạnh, đó là nguyên nhân thứ mười ba khiến cho ánh sáng mặt trời lạnh giá.

Bấy giờ, đức Phật nói bài kệ:
Phật nói về mặt trời, Có mười ba nguyên nhân, Nên gọi tên Thiên Quang, Ánh sáng trong, lạnh giá.

[0146c23] Đức Phật dạy:

– Này Tỳ-kheo! Cung điện mặt trăng có khi tròn, khi khuyết. Do ánh sáng có phần giảm thiểu nên cung điện mặt trăng được gọi là Tổn. Mặt trăng có hai nghĩa: Một là trú nơi cố định, hai là cung điện. Từ bốn phương xa mà nhìn thì thấy cung điện có hình tròn, ấm, lạnh điều hòa, do lưu ly và bạc cõi trời tạo thành; hai phần là bạc cõi trời, hoàn toàn thuần chất không pha tạp, trong ngoài trong suốt, ánh sáng chiếu rất xa; một phần là lưu ly, hoàn toàn thuần chất không pha tạp, trong ngoài trong suốt, ánh sáng chiếu rất xa.

Cung điện mặt trăng ngang dọc bốn mươi chín do-tuần, tường thành và đất của cung điện mỏng như lau lách. Cung điện có bảy lớp tường thành, bảy lớp lan can, bảy lớp màn lưới, bảy lớp chuông báu, bảy lớp hàng cây, trang trí giáp vòng, đều do bảy báu tạo thành,... cho đến có vô số chim muông cùng nhau ca hót.

[0147a02] Cung điện ấy được giữ gìn bởi năm ngọn gió: Một là Trì phong, hai là Dưỡng phong, ba là Thọ phong, bốn là Chuyển phong và năm là Điều phong.

Chánh điện nơi Nguyệt thiên tử ngự được làm bằng lưu ly, cao mười sáu do-tuần. Cung điện có bốn cửa và lan can bao quanh. Tòa của Nguyệt thiên tử dài rộng nửa do tuần, do bảy báu tạo thành, trong sạch và mềm mại như áo trời. Thân thể của Nguyệt thiên tử thường phát ra ánh sáng chiếu đến cung điện lưu ly, ánh sáng của cung điện lưu ly chiếu đến cung điện mặt trăng. Ánh sáng của cung điện mặt trăng chiếu khắp bốn phương thiên hạ. Nguyệt thiên tử sống năm trăm tuổi trời, con cháu thừa kế nhau, không có người khác họ kế vị. Cung điện ấy không hư hoại cho đến một kiếp.

Khi cung điện mặt trăng di chuyển nhưng Nguyệt thiên tử không có ý di chuyển nên bảo rằng: “Ta dừng!” Nguyệt thiên tử thường vui thú trong ngũ dục. Lúc cung điện mặt trăng di chuyển thì có vô số trăm ngàn các đại thần đi phía trước dẫn đường, hoan hỷ, không mỏi mệt, ưa thích nhanh nhẹn, do vậy Nguyệt thiên tử còn có tên là Nhanh Nhẹn.

Thân thể của Nguyệt thiên tử phát ra một ngàn tia sáng, năm trăm tia sáng chiếu xuống và năm trăm tia sáng chiếu chung quanh, tất cả là do công đức và hạnh nguyện đời trước nên có ánh sáng này, vì thế Nguyệt thiên tử còn được gọi là Ngàn Ánh Sáng.

Công đức, hạnh nghiệp đời trước của Nguyệt thiên tử thế nào? Đó là, có người ở thế gian cúng dường cho Sa-môn, Bà-la-môn và bố thí cho người nghèo đói như thực phẩm, y phục, thuốc thang, voi, ngựa, xe cộ, phòng ốc, đèn đuốc. Trong khi cho, họ tùy theo nhu cầu mà cung cấp, không trái với ý muốn của người, hoặc cúng dường cho người trì giới, các bậc Hiền thánh. Do thực hành vô số các pháp hỷ khác nhau như thế nên tâm lành trong sáng, như vua thuộc dòng Sát-lợi được rưới nước lên đỉnh đầu trong lễ đăng quang, cũng khởi tâm lành hoan hỷ như thế. Do nhân duyên này, người ấy sau khi qua đời được làm Nguyệt thiên tử ở cung điện mặt trăng có ngàn tia sáng, cho nên nói rằng do nghiệp lành mà có được ngàn tia sáng.

Lại nữa, do hạnh nghiệp gì mà được ngàn tia sáng? Vì ở thế gian, có người không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói hai chiều, không nói lời thô ác, không nói dối, không nói thêu dệt, không tham lam, không sân hận và không có tà kiến, do nhân duyên này nên có tâm lành hoan hỷ. Ví như ở ngã tư đường có ao tắm lớn, trong sạch không dơ bẩn, có người từ phương xa đến, đang nóng khát mệt lả, vào ao này tắm gội mát mẻ nên cảm thấy vui vẻ, sảng khoái. Người tu mười hạnh lành với tâm lành hoan hỷ cũng như thế. Sau khi qua đời, người ấy được làm Nguyệt thiên tử ở cung điện mặt trăng có ngàn tia sáng, vì nhân duyên ấy nên nói do nghiệp lành mà được ngàn tia sáng.

[0147b01] Lại nữa, vì nhân duyên gì mà được ngàn tia sáng? Vì ở thế gian có người không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu, do nhân duyên này nên khởi tâm lành hoan hỷ. Sau khi qua đời, người ấy được làm Nguyệt thiên tử ở cung điện mặt trăng có ngàn tia sáng, vì nhân duyên ấy nên nói do nghiệp lành mà có ngàn tia sáng.

Một la-da bao gồm sáu mươi sát-na, ba mươi la-da gọi là ma-hầu-đa, một trăm ma-hầu-đa thì gọi là ưu-bà-ma. Nếu cung điện mặt trời sáu tháng di chuyển về hướng Nam, mỗi ngày di chuyển ba mươi dặm về phía cực Nam nhưng không vượt quá Diêm-phù-đề thì lúc đó, cung điện mặt trăng nửa năm di chuyển về hướng Nam nhưng không vượt quá Diêm-phù-đề. Khi mặt trăng di chuyển về hướng Bắc cũng như thế.

Vì nguyên nhân gì mà cung điện mặt trăng khuyết dần? Có ba nguyên nhân khiến cho mặt trăng khuyết dần:

Một là, mặt trăng mọc chênh một phía, đó là nguyên nhân thứ nhất khiến cho mặt trăng bị khuyết.

Lại nữa, trong cung điện mặt trăng có những đại thần mặc y phục xanh, theo thứ tự đi lên, hễ họ dừng lại chỗ nào thì chỗ đó biến thành màu xanh, cho nên mặt trăng khuyết, đó là nguyên nhân thứ hai khiến cho mặt trăng càng ngày càng khuyết.

Lại nữa, cung điện mặt trời có sáu mươi tia sáng, chiếu đến cung điện mặt trăng, do phản chiếu ánh sáng nên ánh sáng mặt trăng không hiện. Do đó, nơi bị phản chiếu ánh sáng thì mặt trăng khuyết, đó là nguyên nhân thứ ba khiến cho mặt trăng khuyết.

Vì nguyên nhân gì mà ánh sáng mặt trăng tròn dần? Có ba nguyên nhân khiến cho ánh sáng mặt trăng tròn dần. Ba nguyên nhân đó là gì?

Một là, mặt trăng mọc chính hướng cho nên ánh sáng mặt trăng tròn đầy.

Hai là, trong cung điện mặt trăng, vào ngày rằm, các vị thần đều mặc y phục màu xanh, Nguyệt thiên tử ngồi ở giữa hư không rồi cùng nhau vui chơi, ánh sáng chiếu khắp nơi, lấn át ánh sáng của các vị trời khác, cho nên ánh sáng mặt trăng tròn đầy và soi sáng khắp nơi. Cũng như trong các loại đèn đuốc thì ánh sáng của ngọn đuốc lớn sẽ lấn át ánh sáng của những đèn đuốc kia. Ánh sáng của Nguyệt thiên tử cũng như thế. Vào ngày rằm, vị ấy ngồi giữa chúng trời, ánh sáng của vị ấy lấn át các ánh sáng khác, chỉ có ánh sáng của vị ấy chiếu sáng duy nhất, đó là nguyên nhân thứ hai.

Ba là, tuy Nhật thiên tử có sáu mươi tia sáng chiếu vào cung điện mặt trăng nhưng vào ngày rằm, Nguyệt thiên tử dùng ánh sáng của mình chiếu ngược lại, khiến cho mặt trăng không bị che khuất, đó là nguyên nhân thứ ba khiến cho mặt trăng tròn đầy, không có khuyết giảm.

Vì nhân duyên gì mặt trăng có bóng đen? Vì có bóng cây Diêm-phù131 ở trong mặt trăng cho nên mặt trăng có bóng đen.

Đức Phật dạy Tỳ-kheo:

– Tâm của các thầy phải như ánh trăng, trong mát không nóng bức, khi đến nhà đàn-việt thì phải nhất tâm, không tán loạn.

Lại do nguyên nhân gì mà thế gian này có các sông ngòi? Do vì mặt trăng và mặt trời có sức nóng, do sức nóng phát ra lửa, do lửa mà có nước rỉ ra, do có nước rỉ ra nên hình thành sông ngòi, do vậy, trong thế gian có những sông ngòi.

Do nhân duyên gì mà thế gian có năm loại hạt? Do có cơn gió lốc lớn từ một thế giới không tan hoại khác thổi những loại hạt ấy đến với cõi này: Một là hạt sanh từ rễ, hai là hạt sanh từ thân cây, ba là hạt sanh từ mắt cây, bốn là hạt sanh từ lỗ hổng của cây và năm là hạt sanh từ hạt cây, vì nhân duyên này nên thế gian có năm loại hạt.

[0147c06] Lại nữa, lúc mặt trời đang ở giữa trưa trong cõi Diêm-phù-đề thì ở cõi Phất-vu-đãi132 mặt trời đang lặn; khi mặt trời mới mọc ở châu Câu-da-ni133 thì ở châu Uất-đan-việt134 đã là nửa đêm; khi mặt trời ở châu Câu-da-ni vào buổi trưa thì ở châu Diêm-phù-đề mặt trời lặn; khi mặt trời mới mọc ở châu Uất-đan- việt thì ở châu Phất-vu-đãi đã là nửa đêm; khi mặt trời ở châu Uất-đan-việt vào giữa trưa thì ở châu Câu-da-ni mặt trời đang lặn; khi mặt trời mới mọc ở châu Phất-vu-đãi thì ở châu Diêm-phù-đề là đã nửa đêm; khi mặt trời ở châu Phất- vu-đãi vào giữa trưa thì ở châu Uất-đan-việt mặt trời đang lặn; khi mặt trời mới mọc ở châu Diêm-phù-đề thì ở châu Câu-da-ni đã là nửa đêm.

Châu Diêm-phù-đề ở hướng Đông thì châu Phất-vu-đãi ở hướng Tây; châu Diêm-phù-đề ở hướng Tây thì châu Câu-da-ni ở hướng Đông; châu Câu-da-ni ở hướng Tây thì châu Uất-đan-việt ở hướng Đông; châu Uất-đan-việt ở hướng Tây thì châu Phất-vu-đãi ở hướng Đông.

Sở dĩ châu Diêm-phù-đề được gọi là Diêm-phù, vì phía dưới có núi vàng cao ba mươi do-tuần,135 do cây Diêm-phù sanh ra nên được gọi là vàng Diêm- phù. Trái của cây Diêm-phù như tai nấm,136 vị ngọt như mật. Cây này có năm góc lớn, bốn mặt có bốn góc và phía trên có một góc. Trái ở góc hướng Đông thì để cho càn-thát-bà ăn, còn trái ở góc hướng Nam dành cho dân chúng bảy nước ăn. Bảy nước là: Câu-lâu, Câu-la-bà, Tỳ-đề, Thiện-tỳ-đề, Mạn-đà, Bà-la và Bà-lê. Trái ở góc hướng Tây dành cho các loài côn trùng ở biển ăn. Trái ở góc hướng Bắc dành cho các loài cầm thú ăn. Trái ở góc phía trên dành cho các vị thiên thần trong cõi trăng, sao ăn.

Bảy nước lớn phía Bắc có bảy ngọn núi đen lớn: Một là núi Khỏa, hai là núi Bạch Hộc, ba là núi Thủ Cung, bốn là núi Tiên, năm là núi Cao, sáu là núi Thiền và bảy là núi Thổ. Trên đỉnh bảy ngọn núi đen này có bảy vị tiên thuộc dòng Bà-la-môn. Đây là nơi ở của bảy vị tiên: Thiện Đế, Thiện Quang, Thủ Cung, Tiên Nhơn, Hộ Cung, Già-na-na và Tăng Ích.

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

– Thuở thế giới mới hình thành,137 sau khi nếm vị đất thì chúng sanh tồn tại ở thế gian một thời gian lâu dài. Trong số đó, nếu người nào ăn nhiều thì nhan sắc trở nên thô xấu, người nào ăn ít thì nhan sắc còn tươi đẹp. Sau đó, chúng sanh mới thấy có sự sai biệt về nhan sắc, dung mạo đẹp, xấu, nên tranh luận phải, trái. Họ nói: “Ta hơn ngươi, ngươi không bằng ta.” Vì tâm họ phân biệt nên luôn ôm lòng cạnh tranh với nhau, từ đó, vị của đất tiêu mất dần. Sau đó, lại sanh ra một lớp vỏ đất, giống như cái bánh mỏng, màu đẹp, vị thơm và tinh khiết.

Bấy giờ, chúng sanh tụ tập lại một nơi, buồn rầu rơi lệ, đấm ngực than rằng: “Khổ thay! Đây là tai họa. Nay vị của đất bỗng nhiên biến mất.” Cũng như ngày nay, khi con người được ăn đầy đủ vị ngon thì họ khen là ngon tuyệt nhưng về sau, thức ăn ngon ấy mất đi thì họ rất buồn khổ. Những chúng sanh kia cũng buồn rầu, hối tiếc giống như thế.

Sau đó, họ tiếp tục ăn lớp vỏ đất rồi dần dần quen mùi vị, những ai ăn nhiều thì nhan sắc trở nên thô xấu, những người ăn ít thì nhan sắc vẫn còn tươi đẹp. Từ đó, chúng sanh mới thấy có sự sai biệt nhan sắc, dung mạo đẹp xấu, tranh luận với nhau về phải, trái, nói rằng: “Ta hơn ngươi, ngươi không bằng ta.” Vì tâm phân biệt nên ôm lòng cạnh tranh với nhau, thế nên lớp vỏ đất dần dần tiêu mất.

[0148a11] Về sau, đất lại sanh ra một lớp vỏ đất,138 càng lúc càng dày thêm, màu sắc như hoa trời, mềm mại như áo trời, vị ngọt như mật. Khi ấy, những chúng sanh lại cùng nhau lấy ăn và sống ở thế giới này một thời gian dài. Trong số đó, những người ăn nhiều thì nhan sắc trở nên thô xấu, những người ăn ít thì nhan sắc vẫn còn tươi đẹp. Do đó, chúng sanh mới thấy có sự sai biệt về nhan sắc, dung mạo đẹp, xấu, tranh luận với nhau về phải, trái, nói rằng: “Ta hơn ngươi, ngươi không bằng ta.” Vì tâm của họ còn phân biệt, ôm lòng cạnh tranh với nhau nên lớp vỏ đất dần dần biến mất.

Sau đó, lại có một loại lúa tẻ, mọc tự nhiên, không có cám, trấu, không cần thêm gì cả mà vẫn đầy đủ các vị ngon. Khi đó, chúng sanh nhóm họp một chỗ và nói: “Khổ thay, đây là tai họa! Ngày nay, lớp vỏ đất bỗng nhiên biến mất.” Cũng như ngày nay, khi con người gặp tai nạn thì liền nói: “Khổ thay!” Bấy giờ, những chúng sanh kia buồn rầu, khổ não cũng lại như thế.

Về sau, những chúng sanh ấy cùng nhau lấy lúa tẻ mà ăn, nên thân hình của họ trở nên thô xấu và có hình dáng nam, nữ sai khác. Họ nhìn ngắm nhau rồi từ đó sanh tâm ái dục, rồi cùng nhau đến nơi vắng vẻ làm điều bất tịnh. Những chúng sanh khác nhìn thấy và nói: “Than ôi! Đây là việc sai trái! Tại sao những chúng sanh này cùng nhau làm những điều như thế?” Những người nam làm việc bất tịnh ấy, thấy người khác quở trách liền tự ăn năn và nói: “Tôi đã làm điều sai quấy”, liền gieo mình xuống đất. Những người nữ thấy người đàn ông này gieo mình xuống đất, ăn năn không đứng dậy, họ liền đem thức ăn đến cho người nam kia. Những người khác trông thấy mới hỏi người nữ:

“Ngươi muốn đem thức ăn này cho ai?”

Người nữ đáp:

“Người nam kia, vì ăn năn với những chúng sanh khác về hành động bất thiện của mình, do vậy nên tôi đem thức ăn này cho ông ta.”

Nhân lời nói này nên trong thế gian mới có danh từ người chồng bất thiện và do hành động đem cơm đến cho chồng nên mới có danh từ người vợ.

[0148b01] Về sau, chúng sanh đam mê dâm dục nên pháp bất thiện gia tăng, vì muốn che giấu pháp bất thiện nên tạo ra phòng ốc, do nhân duyên ấy mới có danh từ nhà cửa. Về sau, sự dâm dục của chúng sanh càng gia tăng nên thành ra chồng vợ. Có những chúng sanh khác hoặc mạng hết, hoặc nghiệp hết, hoặc phước hết nên mạng chung ở cõi trời Quang Âm rồi thác sanh về thế gian này và ở trong thai mẹ, nhân đó thế gian mới có danh từ thọ thai.139

Bấy giờ, trước tiên họ xây thành Chiêm-bà,140 sau đó xây thành Già-thi,141 Ba-la-nại,142 tiếp theo xây thành Vương Xá. Khi mặt trời mọc thì khởi công xây cất, đến lúc mặt trời mọc hôm sau là hoàn thành. Do nhân duyên này, thế gian mới có danh từ thành, quách, quận, ấp, là nơi vua ngự trị.

Khi chúng sanh mới ăn loại lúa gạo tự nhiên thì sáng lấy chiều chín, tối nay lấy sáng mai chín, sau khi lấy xong thì sanh trở lại, không có trấu, cám. Lúc đó, có chúng sanh tự nghĩ: “Nếu mỗi ngày phải đi lấy thì nhọc công quá, nay ta nên lấy để dùng nhiều ngày.” Tức thì, họ cùng gặt hái lương thực để dự trữ cho vài ngày sau. Những người sau nói với những người này:

“Hôm nay, chúng ta hãy cùng nhau đi lấy lúa gạo.”

 “Tôi đã lấy dự trữ trước rồi nên không cần đi lấy nữa. Nếu ngươi muốn đi lấy thì tùy ý đi lấy.”

Bấy giờ, những người sau tự nghĩ: “Người trước đã lấy lúa gạo để dành ăn trong hai ngày, sao ta không lấy lúa gạo để dành ăn ba ngày?” Những người này liền lấy lúa gạo dự trữ ba ngày. Kế tiếp, có người khác nói: “Chúng ta hãy cùng nhau đi lấy lương thực về.”

Người này đáp:
“Tôi đã lấy lúa gạo dự trữ ba ngày. Nếu ngươi muốn lấy thì tùy ý mà lấy.”

Thế rồi, người đó tự nghĩ: “Người trước đã lấy lúa gạo dự trữ ba ngày. Sao ta lại không lấy lương thực dự trữ năm ngày?” Tức thì, họ lấy lúa gạo dự trữ năm ngày.

Khi ấy, vì chúng sanh tranh nhau tích trữ lương thực, cho nên lúa tẻ mới sanh ra vỏ trấu, rồi không sanh nữa và cỏ lác xuất hiện.

Lúc đó, chúng sanh tập hợp lại một chỗ, buồn rầu, khổ não, đấm ngực than rằng: “Khổ thay, đây là tai họa!” Rồi tự trách: “Chúng ta trước đây đều do hóa sanh, dùng niệm lực làm thức ăn, thân thể tự phát ra ánh sáng, có thần túc bay trên hư không, an lạc, vô ngại. Rồi sau đó, vị đất mới sanh, đầy đủ màu sắc, hương vị. Chúng ta ăn vị đất này và sống ở thế gian này một thời gian dài. Thế rồi, những người ăn nhiều thì nhan sắc dần dần thô xấu. Những người ăn ít thì nhan sắc vẫn còn tươi đẹp. Lúc đó, chúng ta ôm lòng phân biệt, sanh tâm kiêu mạn và nói: ‘Nhan sắc ta đẹp hơn ngươi, nhan sắc ngươi không bằng ta.’ Do vì tranh cãi về nhan sắc rồi có tâm kiêu mạn nên vị đất biến mất, sanh ra lớp vỏ đất, đầy đủ hương vị và màu sắc. Thế rồi, chúng ta cùng nhau lấy ăn và sống ở thế gian này khá lâu. Trong số đó, nếu người nào ăn nhiều thì nhan sắc trở nên thô xấu, người nào ăn ít thì nhan sắc vẫn còn tươi đẹp. Lúc đó, chúng ta vì có tâm phân biệt, sanh tâm kiêu mạn và nói: ‘Ta nhan sắc hơn ngươi, nhan sắc ngươi không bằng ta.’ Vì kiêu mạn, tranh hơn kém nhau về nhan sắc nên lớp vỏ đất biến mất, sanh ra lớp vỏ đất khác, dần dần dày hơn, đầy đủ hương vị, màu sắc. Chúng ta dùng lớp vỏ đất này làm thức ăn, rồi sống một thời gian dài. Những ai ăn nhiều thì nhan sắc trở nên thô xấu, người nào ăn ít thì nhan sắc vẫn còn tươi đẹp. Lúc đó, chúng ta có tâm phân biệt, sanh lòng kiêu mạn và nói: ‘Nhan sắc của ta đẹp, nhan sắc của ngươi không bằng.’ Vì có sự tranh nhau hơn thua về nhan sắc, có tâm kiêu mạn nên lớp vỏ đất biến mất, lúa tẻ tự nhiên sanh ra, đầy đủ màu sắc, hương vị. Chúng ta lại cùng lấy thứ đó mà ăn, buổi sáng gặt lấy thì chiều tối chín, buổi tối gặt lấy thì sáng mai chín, gặt xong thì sanh ra lại, không cần thu giữ.

Bấy giờ, vì chúng ta cạnh tranh, tích trữ nên lúa tẻ sanh trấu, cám, gặt xong không sanh lại như trước mà chỉ sanh cỏ lác. Hôm nay, chúng ta nên phân chia ruộng đất, nhà cửa, phân chia ranh giới, bờ cõi.”
Người đó đáp:

[0148c12] Tức thì, họ phân chia ruộng đất, vạch ranh giới, bờ cõi khác nhau, phân biệt “của ta”, “của người.” Sau đó, mọi người tự cất giấu lúa gạo của mình rồi trộm lúa ruộng của người khác. Những chúng sanh khác thấy, nên nói: “Ngươi làm điều quấy, ngươi làm điều quấy! Tại sao lại cất giấu tài vật của mình mà đi lấy tài vật của người?” Rồi quở trách: “Từ đây về sau, ngươi không được lấy trộm nữa.” Nhưng họ vẫn tiếp tục như thế, không từ bỏ, lại tiếp tục trộm cắp. Những người khác trách rằng: “Ngươi làm sai, tại sao không từ bỏ?”

Tức thì, họ dùng tay, dùng gậy đánh đập người này và kéo đến giữa đám đông rồi tuyên bố với mọi người: “Người này tự giấu lúa gạo của mình rồi đi trộm lúa gạo của người khác.” Kẻ trộm lại nói: “Người kia đánh tôi.” Lúc ấy, mọi người nghe xong, buồn rầu rơi lệ, đấm ngực nói rằng: “Thế gian dần dần trở nên xấu ác nên đã sanh ra pháp ác này chăng?” Nhân đó mà sanh lòng buồn khổ và kết thành quả báo khổ não, đây là nguồn gốc của sanh, già, bệnh, chết, là nguyên nhân rơi vào đường dữ.

Vì do có ruộng đất, nhà cửa, ranh giới, bờ cõi khác nhau nên sanh ra tranh chấp, kiện tụng, thậm chí đưa đến oán thù, không ai có thể giải quyết được. Vậy ngày nay, chúng ta nên cử một vị giữ gìn lẽ công bằng,143 khéo ủng hộ dân chúng, thưởng người thiện, phạt người ác. Chúng ta sẽ giảm bớt tài sản của mình để cung cấp cho vị đó.

Lúc đó, trong chúng có một người hình vóc to lớn, dung mạo đoan chánh, rất có oai đức. Mọi người nói: “Chúng tôi muốn tôn ngài lên làm nhân chủ. Xin hãy khéo ủng hộ dân chúng, nên thưởng người thiện, phạt kẻ ác, chúng tôi sẽ giảm bớt tài sản để cung cấp cho ngài!” Người ấy nghe xong, liền chấp nhận lên ngôi nhân chủ, đối với người đáng thưởng thì thưởng, người đáng phạt thì phạt, từ đó mới có danh từ vua của dân.

Vị vua của dân đầu tiên có con tên là Trân Bảo, Trân Bảo có con tên là Hảo Vị, Hảo Vị có con tên là Tịnh Trai, Tịnh Trai có con tên Đảnh Sanh, Đảnh Sanh có con tên Thiện Hạnh, Thiện Hạnh có con tên là Trạch Hạnh, Trạch Hạnh có con tên là Diệu Vị, Diệu Vị có con tên là Vị Đế, Vị Đế có con tên Thủy144 Tiên, Thủy Tiên có con tên là Bách Trí, Bách Trí có con tên là Thị Dục, Thị Dục có con tên là Thiện Dục, Thiện Dục có con tên Đoạn Kết, Đoạn Kết có con tên là Đại Đoạn Kết, Đại Đoạn Kết có con tên là Bảo Tạng, Bảo Tạng có con tên là Đại Bảo Tạng, Đại Bảo Tạng có con tên Thiện Kiến, Thiện Kiến có con tên là Đại Thiện Kiến, Đại Thiện Kiến có con tên là Vô Ưu, Vô Ưu có con tên là Châu Chử, Châu Chử có con tên là Thực145 Sanh, Thực Sanh có con tên là Sơn Nhạc, Sơn Nhạc có con tên là Thần Thiên, Thần Thiên có con tên Khiển146 Lực,

Khiển Lực có con tên là Lao147 Xa, Lao Xa có con tên là Thập Xa, Thập Xa có con tên là Bách Xa, Bách Xa có con tên là Lao Cung, Lao Cung có con tên là Bách Cung, Bách Cung có con tên là Dưỡng Mục148 và Dưỡng Mục có con tên là Thiện Tư.

[0149a16] Từ Thiện Tư về sau, có mười dòng Chuyển Luân Thánh Vương tiếp tục lên ngôi không gián đoạn: Một là Già-nậu-thô,149 hai là Đa-la-bà,150 ba là A-diệp-ma, bốn là Trì Thí,151 năm là Già-lăng-già,152 sáu là Chiêm-bà, bảy là Câu-la-bà,153 tám là Bán-xà-la, chín là Di-tư-la và mười là Thanh154-ma. Vua Già-nậu-thô có năm vị Chuyển Luân Thánh Vương. Vua Đa-la-bà có năm vị Chuyển Luân Thánh Vương. Vua A-diệp-ma có bảy vị Chuyển Luân Thánh Vương. Vua Trì Địa có bảy vị Chuyển Luân Thánh Vương. Vua Già-lăng-già có chín vị Chuyển Luân Thánh Vương. Vua Chiêm-bà có mười bốn vị Chuyển Luân Thánh Vương. Vua Câu-la-bà có ba mươi mốt vị Chuyển Luân Thánh Vương. Vua Bán-xà-la có ba mươi hai vị Chuyển Luân Thánh Vương. Vua Di-tư-la có tám mươi bốn ngàn vị Chuyển Luân Thánh Vương. Vua Thanh-ma có một trăm lẻ một vị Chuyển Luân Thánh Vương. Vua cuối cùng là Đại Thiện Sanh.155

Vua Thanh-ma có thái tử tên là Ô-la-bà. Ô-la-bà có con tên là Cừ-la-bà. Cừ- la-bà có con tên là Ni-cầu-la. Ni-cầu-la có con tên là Sư Tử Giáp. Sư Tử Giáp có con tên là Bạch Tịnh.156 Bạch Tịnh có con tên là Bồ-tát.157 Bồ-tát có con tên là La-hầu-la. Do nguồn gốc này nên có danh từ Sát-lợi.

[0149b03] Bấy giờ, có một chúng sanh tự nghĩ: “Tất cả vạn vật, tài sản, nhà cửa thuộc phạm vi thế gian đều là gai nhọn, là ung nhọt. Nay ta nên xả bỏ, vào núi tu hành, ở chỗ thanh vắng suy tư.” Tức thì, người đó từ bỏ gia đình vào núi tu hành, ở nơi thanh tịnh, ngồi suy tư dưới gốc cây, mỗi ngày ra khỏi núi để vào xóm khất thực. Người trong thôn xóm trông thấy, cung kính cúng dường và mọi người đều tán thán: “Người này có thể bỏ sự trói buộc nhà cửa vào núi cầu đạo, nhờ đó mà có thể xa lìa những điều ác, bất thiện”, do vậy nên có danh xưng Bà-la-môn.

Thế rồi, trong chúng Bà-la-môn có người không thể tu hành thiền định liền ra khỏi núi rừng, đi vào trong nhân gian và nói: “Ta không thể tu thiền.” Do đó gọi là vị Bà-la-môn không tu thiền định. Thế rồi, họ đi qua xóm làng làm những điều bất thiện, thực hành các pháp ác, do tướng này sanh nên có danh từ độc ác, do nhân duyên này nên trong thế gian có chủng tánh Bà-la-môn.

Trong chúng sanh đó có người làm nhiều nghề nghiệp để tự sinh sống, do đó ở trong thế gian có chủng tánh Tỳ-xá.158

Trong số chúng sanh ấy, có người học tập các ngành nghề để sinh sống, do vậy trong thế gian có chủng tánh Thủ-đà-la.

Trong thế gian, trước hết là có dòng họ Thích ra đời, sau đó là dòng Bà-la- môn. Trong dòng Sát-đế-lợi có người nghĩ: “Ân ái thế gian là ô uế, là bất tịnh, có đáng gì để tham đắm?” Lúc đó, họ từ bỏ gia đình, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục, cầu đạo và tự xưng: “Ta là Sa-môn, ta là Sa-môn.” Trong dòng Bà-la- môn, Tỳ-xá và Thủ-đà-la có người tự nghĩ: “Ân ái thế gian là ô uế, là bất tịnh, có đáng gì để tham đắm”, rồi họ từ bỏ gia đình, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục, cầu đạo và tự xưng: “Ta là Sa-môn, ta là Sa-môn.”

Thế rồi, nếu trong dòng Sát-đế-lợi có người thân làm việc ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ điều ác, sau khi làm điều ác rồi, thân hoại mạng chung, nhất định phải chịu khổ. Hoặc có Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà-la thân làm việc ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ điều ác, sau khi làm điều ác rồi, thân hoại mạng chung nhất định phải chịu khổ.

Trong dòng Sát-đế-lợi, có người thân làm việc lành, miệng nói lời lành, ý nghĩ điều lành, sau khi thân hoại mạng chung nhất định hưởng quả báo vui. Hoặc trong dòng Bà-la-môn, Tỳ-xá, thủ-đà-la có người thân làm việc lành, miệng nói lời lành, ý nghĩ điều lành, sau khi thân hoại mạng chung nhất định hưởng quả báo vui.

Hoặc trong dòng Sát-đế-lợi, có người mà thân, miệng và ý tạo hai nghiệp vừa thiện vừa ác, sau khi tạo hai nghiệp vừa thiện vừa ác rồi, thân hoại mạng chung nhất định chịu quả báo vừa khổ vừa vui.

Hoặc trong dòng Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà-la có người mà thân, miệng và ý tạo hai nghiệp vừa thiện vừa ác, sau khi tạo hai nghiệp vừa thiện vừa ác rồi, thân hoại mạng chung nhất định chịu quả báo vừa khổ vừa vui.

[0149c05] Trong dòng Sát-đế-lợi, có người cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo và thực hành thất giác ý. Với lòng tin kiên cố, người ấy chọn con đường xuất gia, tu tập Phạm hạnh vô thượng, tự mình chứng ngộ ngay trong hiện tại: Sanh tử đã chấm dứt, Phạm hạnh đã thành tựu, việc cần làm đã xong, không còn tái sanh nữa.

Hoặc trong dòng Bà-la-môn, Tỳ-xá và Thủ-đà-la cũng có người cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia cầu đạo và tu tập thất giác ý. Với lòng tin kiên cố, người ấy chọn con đường xuất gia, tu tập Phạm hạnh vô thượng, tự mình chứng ngộ ngay trong hiện tại: Sanh tử đã chấm dứt, Phạm hạnh đã thành tựu, việc cần làm đã xong, không còn tái sanh nữa.

Như vậy, người trong bốn chủng tánh đều có thể thành tựu trí và đức, chứng quả A-la-hán, là bậc Đệ nhất.

Khi ấy, Phạm thiên nói bài kệ:

Bậc nhất, dòng Sát-lợi,
Tập hợp nhiều chủng tánh,
Tròn đầy Minh và Hạnh,
Tối thắng giữa trời, người.159

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Vị Phạm thiên này, nói bài kệ rất hay, đáng được chấp nhận, chứ chẳng phải không đáng chấp nhận, Như Lai ấn khả. Vì sao như vậy? Vì Ta là đức Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, cũng nói bài kệ này:

Bậc nhất, dòng Sát-lợi,
Tập hợp nhiều chủng tánh,
Tròn đầy Minh và Hạnh,
Tối thắng giữa trời, người.

Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe đức Phật nói pháp xong đều hoan hỷ phụng hành.

BỘ TRƯỜNG A-HÀM HOÀN TẤT

Kính lễ Nhất Thiết Trí,
Mong hết thảy an vui,
Chúng sanh nương giải thoát,
Con cũng theo nguyện này.160
 

Chú thích :

113 Nguyên tác: Thế bổn duyên phẩm 世本緣品 (T.01. 0001.30.12. 0145a04). Tham chiếu: D. 27, Aggañña Sutta (Kinh Khởi thế nhân bổn).
114 Nguyên tác: Không Phạm xứ (空梵處, Suñña Brahmavimāna). 115 DĀ. 3: Phạm đồng tử (梵童子, Sanaṃkumāra).

116 Nguyên tác: Địa vị (地味, rasa pathavī).
117 Đề-hồ (醍醐, sappi maṇḍa).
118 Sanh tô (生酥, navanīta).
119 Nguyên tác: Thường độ (常度): Sự cố định của quy luật. Tham chiếu: Sở từ, chương thứ chín (楚辭, 九章).
120 Nguyên tác: Tử bá (梓柏). Bản Tống, Nguyên, Minh: Vi thác (葦籜).
121 Thiên Quang (千光, Sahassāraṃi).
122 La-da (羅耶). Ngài Huyền Trang dịch là “lạp phược” (臘縛, lava).
123 Nguyên tác: Niệm khoảnh (念頃, S. kṣaṇa, P. khaṇa) tức sát-na. Theo Câu-xá luận 俱舍論 (T.29. 1558.12. 0062b17): 120 sát-na (kṣaṇa) là một đát-sát-na (怛剎那, tatkṣaṇa), 60 đát-sát-na là 1 lạp phược (臘縛, lava).
124 Ma-hầu-đa (摩喉多). Ngài Huyền Trang phiên âm là mâu-hô-lật-đa (牟呼栗多, S. muhūrta). 125 Ư̛u-ba-ma (優波摩). Ngài Huyền Trang dịch là “trú dạ” (晝夜, S. ahorātra).

131 Nguyên tác: Diêm-phù thọ (閻浮樹, Jambu). Loài cây bản địa ở Ấn Độ và một vài nước Đông Nam Á, trái có thể ăn được, có tên khoa học là Eugenia Jambolana.

132 Tức Đông Thắng-thần châu (東勝神洲), một trong tứ đại châu (四大洲) nằm về phía Đông của núi Tu-di (須彌山).

133 Tức Tây Ngưu-hóa châu (西牛貨洲).
134 Tức Bắc Câu-lô châu (北倶盧洲), nơi cực Bắc của tứ đại châu (四大洲).
135 Bản Tống, Nguyên, Minh ghi: 20 do-tuần.
136 Nguyên tác: Tẩm (蕈). Bản Tống, Nguyên, Minh ghi: Đan (簞), như cái giỏ tre.
137 Nguyên tác: Kiếp sơ (劫初, Aggañña), thời kỳ nguyên thủy. 138 Nguyên tác: Địa phu (地膚).

139 Nguyên tác: Xử thai (處胎, gabba). 140 Chiêm-bà (瞻婆, Campā).
141 Già-thi (伽尸, Kāsi).
142 Ba-la-nại (婆羅奈, Bārāṇasī).
143 Nguyên tác: Bình đẳng chủ (平等主).
144 Nguyên tác: Thủy (水). Bản Tống, Nguyên, Minh ghi: Ngoại (外). 145 Nguyên tác: Thực (殖). Bản Tống, Nguyên, Minh ghi: Thực (植). 146 Nguyên tác: Khiển (遣). Bản Tống, Nguyên, Minh ghi: Tấn (進).

147 Nguyên tác: Lao (牢). Bản Tống, Nguyên, Minh ghi: Lao (窂).

148 Nguyên tác: Mục (牧). Bản Tống, Nguyên, Minh ghi: Thâu (收).

149 Nguyên tác: Thô (麤). Bản Tống, Nguyên, Minh ghi: Già (遮).

150 Nguyên tác: Bà (婆). Bản Tống, Nguyên, Minh ghi: Nghiệp (業).

151 Nguyên tác: Thí (施). Bản Tống, Nguyên, Minh ghi: Địa (地).

152 Nguyên tác: Lăng-già (楞伽). Bản Nguyên, Minh ghi: Chi thuật (枝術). Bản Tống ghi: Kỹ thuật (伎術).

153 Nguyên tác: La-bà (羅婆). Bản Tống, Nguyên, Minh ghi: Sa-bà (娑婆). 154 Nguyên tác: Thanh (聲). Bản Tống, Minh ghi: Ý (懿).

155 Nguyên tác: Đại thiện sanh tùng (大善生從). Theo Thích-ca phổ 釋迦譜 (T.50. 2040.1. 0002b24) thì chữ “tùng” (從) ở kinh này có khả năng ghi nhầm.

156 Nguyên tác: Bạch Tịnh vương (白淨王), hoặc dịch là Tịnh Phạn vương (淨飯王, Suddhodāna): Vua nước Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatthu), phụ vương của Thái tử Tất-đạt-đa.

157 Danh xưng tôn kính chỉ cho đức Phật Thích-ca Mâu-ni khi còn ở ngôi vị thái tử.
158 Xem chú thích 7, kinh số 5, tr. 602.

159 Bài kệ này còn được nhiều bản kinh ghi nhận với một vài khác biệt về chi tiết. Tham chiếu: D. 27; DĀ. 5; DĀ. 20; MĀ. 154; SĀ. 1190.

160 Bản Hán, hết quyển 22.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.