Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 01 »
Kinh Trường A-Hàm
(長阿含經)
(Bản dịch của Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm)
Đức Phật dạy:
– Này các Tỳ-kheo, sau khi cơn hỏa tai qua rồi, là lúc trời, đất, thế gian này sắp thành lập trở lại. Lúc đó, có những chúng sanh khác vì phúc báu hết, hạnh nghiệp hết, mạng sống hết và qua đời tại cõi trời Quang Âm, rồi thác sanh về cõi Không Phạm. Ở đấy, những chúng sanh này sanh tâm đắm nhiễm, yêu thích cõi đó. Họ mong những chúng sanh khác cùng đến sống chung ở đó. Sau khi có ý niệm như thế, có những chúng sanh khác vì hết phúc báu, hết hạnh nghiệp, hết mạng sống nên qua đời tại cõi trời Quang Âm và thác sanh về cõi Không Phạm. Lúc đó, vị Phạm thiên sanh qua đó đầu tiên tự nghĩ: “Ta là Phạm vương, là Đại Phạm Thiên vương, không có ai sanh ra ta, ta tự nhiên có, không có thọ thai. Ở trong một ngàn thế giới, ta là đấng tự tại bậc nhất, khéo hiểu các nghĩa thú, giàu sang, dư dả, có khả năng tạo ra vạn vật. Ta là cha mẹ của tất cả chúng sanh.”
Đồng thời, những Phạm thiên sanh sau, cũng tự nghĩ: “Vị ấy là Phạm thiên, là Đại Phạm Thiên vương, không có ai sanh ra, tự nhiên có, không có thọ thai. Ở trong một ngàn thế giới, ngài là đấng tôn kính bậc nhất, khéo hiểu các nghĩa thú, giàu sang, dư dả, có khả năng tạo ra vạn vật, là cha mẹ của tất cả chúng sanh. Ta từ vị ấy sanh ra.”
Vị Phạm thiên vương đó, hình dáng, nhan sắc thường như đồng tử. Cho nên, Phạm vương còn được gọi là đồng tử.
Hoặc có lúc thế gian này thành lập trở lại, các chúng sanh ở thế gian phần nhiều là sanh về cõi trời Quang Âm, tự nhiên hóa sanh, lấy sự hoan hỷ làm thức ăn, trên thân tự phát ra ánh sáng, có thần túc bay trên hư không, an vui, không bị chướng ngại, mạng sống lâu dài. Sau đó, thế gian này biến thành một biển nước lớn, lan tràn khắp nơi. Chính lúc đó, cả thiên hạ đều tối tăm, không có mặt trời, mặt trăng, tinh tú, ngày đêm và không có con số năm, tháng, bốn mùa. Sau thời gian đó, thế giới này thay đổi trở lại. Có những chúng sanh khác vì hết phúc báu, hết hạnh nghiệp, hết mạng sống, qua đời tại cõi trời Quang Âm, rồi thác sanh lại thế giới này, đều do hóa sanh và lấy sự hoan hỷ làm thức ăn, trên thân tự phát ra ánh sáng, có Thần túc thông, bay trên hư không, an lạc, vô ngại và sống một thời gian rất lâu ở cõi này. Bấy giờ, không có nam, nữ, tôn, ty, thượng, hạ, không có tên khác nhau mà chỉ có nhiều người cùng sanh ra trong một thế giới, cho nên gọi là chúng sanh.
Lúc đó, đại địa này tự nhiên có đất, rồi nước xuất hiện và ngưng tụ trên đất, cũng như đề hồ. Khi đất, nước xuất hiện cũng giống như thế, như hương vị sanh tô, vị ngọt như mật. Sau đó, những chúng sanh ấy bèn lấy tay chấm nếm thử để xem là vị gì. Lúc đầu, họ nếm thử, thấy là ngon, liền sanh tâm đắm nhiễm mùi vị và cứ lần lượt nếm mãi như thế không thôi nên sanh tâm đắm nhiễm, rồi lấy tay bốc để ăn, bốc ăn mãi không thôi. Chúng sanh khác trông thấy lại bắt chước bốc ăn thử và cũng ăn mãi không thôi. Khi ấy, thân thể của chúng sanh trở nên thô kệch, ánh sáng mất dần, không còn thần túc, không thể bay đi trên hư không được.
Khi chưa có mặt trời, mặt trăng và ánh sáng của chúng sanh mất hẳn, lúc đó, trời đất tối tăm cũng như giai đoạn đầu không khác.
Sau một thời gian khá lâu, có cơn gió lốc thổi nước biển lớn, sâu tám vạn bốn ngàn do-tuần, làm cho nước tách ra hai bên, đồng thời thổi bay cung điện mặt trời đặt vào lưng chừng núi Tu-di và để vào trong nhật đạo, rồi mọc từ hướng Đông, lặn về hướng Tây, xoay vần khắp thiên hạ. Cung điện mặt trời thứ hai thì mọc từ hướng Đông, lặn về hướng Tây. Lúc đó, chúng sanh có người nói: “Đó là mặt trời ngày hôm qua.” Hoặc có người nói: “Đó không phải là mặt trời ngày hôm qua.”
Đến cung điện mặt trời thứ ba mọc từ hướng Đông, lặn ở hướng Tây. Lúc đó, có chúng sanh nói: “Nhất định là một mặt trời.” Mặt trời nghĩa là nói nguyên nhân sáng, cho nên gọi là mặt trời. Mặt trời có hai nghĩa: Một là luôn luôn ở trên đường đi cố định; hai là cung điện. Bốn phương cung điện của mặt trời vì trông thấy từ xa nên hình tròn, nóng lạnh điều hòa, do vàng trên trời tạo thành có pha lê xen kẽ, với hai phần vàng trên thì toàn là vàng ròng, không có hỗn hợp, trong ngoài trong suốt, ánh sáng chiếu thật xa, với một phần pha lê hoàn toàn thuần chất, không pha tạp, trong ngoài trong suốt, ánh sáng chiếu thật xa.
Cung điện mặt trời ngang dọc năm mươi do-tuần, đất và tường của cung điện mỏng manh như lau non. Cung có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp màn lưới, bảy lớp hàng cây, bảy lớp linh báu, trang trí giáp vòng, đều do bảy báu tạo thành.
Nếu tường bằng vàng thì cửa bằng bạc. Nếu tường bằng bạc thì cửa bằng vàng. Nếu tường bằng lưu ly thì cửa bằng thủy tinh. Nếu tường bằng thủy tinh thì cửa bằng lưu ly. Nếu tường bằng xích châu thì cửa bằng mã não. Nếu tường bằng mã não thì cửa bằng xích châu. Nếu tường bằng xà cừ thì cửa bằng các thứ báu. Nếu tường bằng các thứ báu thì cửa bằng xà cừ.
Về lan can, nếu lan can bằng vàng thì tay vịn bằng bạc. Lan can bằng bạc thì tay vịn bằng vàng. Lan can bằng lưu ly thì tay vịn bằng thủy tinh. Lan can bằng thủy tinh thì tay vịn bằng lưu ly. Lan can bằng xích châu thì tay vịn bằng mã não. Lan can bằng mã não thì tay vịn bằng xích châu. Lan can bằng các thứ báu thì tay vịn bằng xà cừ. Lan can bằng xà cừ thì tay vịn bằng các thứ báu.
Về bảy lớp màn lưới, nếu màn lưới bằng vàng thì treo chuông bằng bạc. Màn lưới bằng bạc thì treo chuông bằng vàng. Màn lưới bằng thủy tinh thì treo chuông bằng lưu ly. Màn lưới bằng lưu ly thì treo chuông bằng thủy tinh. Màn lưới bằng xích châu thì treo chuông bằng mã não. Màn lưới bằng mã não thì treo chuông bằng xích châu. Màn lưới bằng xà cừ thì treo chuông bằng các thứ báu. Màn lưới bằng các thứ báu thì treo chuông bằng xà cừ.
Về bảy lớp hàng cây, nếu cây bằng vàng thì lá, hoa, trái bằng bạc. Cây bằng bạc thì lá, hoa, trái bằng vàng. Cây bằng lưu ly thì lá, hoa, trái bằng thủy tinh. Cây bằng thủy tinh thì lá, hoa, trái bằng lưu ly. Cây bằng xích châu thì lá, hoa, trái bằng mã não. Cây bằng mã não thì lá, hoa, trái bằng xích châu. Cây bằng xà cừ thì lá, hoa, trái bằng các thứ báu. Cây bằng các thứ báu thì lá, hoa, trái bằng xà cừ.
Về bốn cửa của tường cung điện, mỗi cửa có bảy bậc thềm, có lan can bao quanh, có lâu đài, nhà gác, có vườn rừng, có ao tắm, theo thứ tự cũng như trước, có các thứ hoa báu, mỗi hàng mỗi hàng đều tương đương với các loại cây ăn trái. Hoa, lá, màu sắc xen kẽ. Cây tỏa hương thơm, phảng phất khắp bốn phía. Các loại chim chóc hòa ca líu lo.
Hơn nữa, cung điện mặt trời được năm ngọn gió duy trì: Một là Trì phong; hai là Dưỡng phong; ba là Thọ phong; bốn là Chuyển phong; năm là Điều phong. Chính điện do vàng ròng tạo thành, là nơi ở của Vua Mặt Trời, cao mười sáu do-tuần. Cung điện có bốn cửa, có lan can bao quanh. Chỗ ngồi của Vua Mặt Trời ngang dọc nửa do-tuần, do bảy báu tạo thành, trong sạch, mềm mại như áo trời. Thân thể của Vua Mặt Trời phát ra ánh sáng, chiếu sáng cả cung điện bằng vàng. Rồi cung điện bằng vàng phát ra ánh sáng, chiếu vào cung điện bằng vàng; ánh sáng của cung điện bằng vàng chiếu vào cung điện mặt trời; ánh sáng của cung điện mặt trời chiếu khắp bốn thiên hạ. Vua Mặt Trời sống năm trăm tuổi trời. Con cháu thừa kế nhau, không gián đoạn, không có người khác họ kế vị. Cung điện mặt trời không bị tiêu hoại, tồn tại trong một kiếp.
Hơn nữa, khi cung điện mặt trời di chuyển thì Vua Mặt Trời không có ý nghĩ di chuyển và nói: “Ta di chuyển hay dừng lại”, và thường lấy năm thứ dục lạc để tự vui thú. Khi mặt trời di chuyển, có vô số trăm, ngàn chư Đại thiên thần hướng dẫn phía trước; tất cả đều vui vẻ, không mỏi mệt, an lạc, ít bệnh. Do đó, Vua Mặt Trời được gọi là ít bệnh.
Thân của Vua Mặt Trời phát ra ngàn tia sáng; năm trăm tia sáng chiếu xuống và năm trăm tia sáng chiếu chung quanh. Đây là do công đức, hạnh nghiệp đời trước nên có ngàn tia sáng. Vì thế, Vua Mặt Trời còn được gọi là Ngàn Ánh Sáng.
Công đức, hạnh nghiệp đời trước của Vua Mặt Trời như thế nào? Ấy là, hoặc có người cúng dường cho Sa-môn, Bà-la-môn, cung cấp cho người nghèo khó, như cho thức ăn, thức uống, áo quần, thuốc thang, voi, ngựa, xe cộ, phòng xá, đèn đuốc; trong khi cho thì tùy theo nhu cầu của họ mà cho, không trái ý họ, hoặc cúng dường người giữ giới, các bậc Hiền thánh. Do vô số thứ pháp an vui và nhân duyên sáng suốt như thế nên có thiện tâm, vui vẻ, như vị vua thuộc dòng Sát-đế-lợi có nước rưới đầu, khi mới lên ngôi thì thiện tâm vui vẻ cũng như thế. Do nhân duyên đó nên khi mạng chung được làm Vua Mặt Trời, có cung điện mặt trời và có ngàn tia sáng. Cho nên nói: Do nghiệp lành mà được ngàn tia sáng.
Lại nữa, do những hành động gì mà gọi là hạnh nghiệp sáng suốt đời trước? Nghĩa là, có người không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói lời độc ác, không nói hai lưỡi, không nói thêu dệt, không tham, không sân, không si, không tà kiến. Vì nhân duyên đó nên thiện tâm vui vẻ, cũng như tại ngã tư đường có một ao tắm lớn, trong sạch, không cáu bẩn, rồi có một người từ phương xa đến vừa mệt, vừa khát, vừa nóng vào ao này tắm gội sạch sẽ, mát mẻ, vui vẻ, thoải mái. Thế thì người tu thập thiện ấy thiện tâm vui vẻ cũng như trên.
Người này sau khi mạng chung được làm Vua Mặt Trời, ở tại cung điện mặt trời, có ngàn tia sáng. Vì nhân duyên đó nên gọi là nghiệp lành sáng suốt.
Lại nữa, vì lý do gì mà gọi là ngàn tia sáng? Vì có người không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. Do nhân duyên đó nên thiện tâm vui vẻ và sau khi mạng chung, được làm Vua Mặt Trời, ở cung điện mặt trời, có ngàn tia sáng. Do nhân duyên ấy nên gọi là nghiệp lành ngàn tia sáng.
Sáu mươi niệm thì gọi là một la-da và ba mươi la-da thì gọi là ma-hầu-đa; một trăm ma-hầu-đa thì gọi là ưu-ba-ma. Cung điện mặt trời thì sáu tháng di chuyển về phía Nam. Một ngày đi được ba mươi dặm về hướng cực Nam nhưng không vượt qua Diêm-phù-đề. Và khi mặt trời di chuyển về phía Bắc thì cũng như trên.
Vì những nhân duyên gì mà ánh sáng mặt trời nóng? Vì có mười nhân duyên. Mười nhân duyên gì? (1) Ngoài núi Tu-di, có núi Khư-đà-la, cao bốn vạn hai ngàn do-tuần, ngang dọc bốn vạn hai ngàn do-tuần, bờ mé thì vô cùng, do bảy báu tạo thành. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến, do sự ma sát nên phát nhiệt. Đó là nhân duyên thứ nhất nên mặt trời nóng. (2) Ngoài núi Khư-đà-la có núi Y-sa-đà cao hai vạn một ngàn do-tuần, ngang dọc hai vạn một ngàn do-tuần, giáp vòng núi thì không có giới hạn, do bảy báu tạo thành. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến núi ấy, do sự ma sát nên phát nhiệt. Đó là lý do thứ hai làm cho ánh sáng mặt trời nóng. (3) Ngoài núi Y-sa-đà có núi Thọ-đề-đà-la, cao một vạn hai ngàn do-tuần, ngang dọc một vạn hai ngàn do-tuần, giáp vòng núi thì không có giới hạn, do bảy báu tạo thành. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến núi này, do sự ma sát nên phát nhiệt. Đó là lý do thứ ba làm cho ánh sáng mặt trời nóng. (4) Cách núi Thọ-đề-đà-la có núi Thiện Kiến, cao sáu ngàn do-tuần, ngang dọc sáu ngàn do-tuần, giáp vòng núi thì không có giới hạn, do bảy báu tạo thành. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến núi này, do sự ma sát nên phát nhiệt. Đó là lý do thứ tư làm cho ánh sáng mặt trời nóng. (5) Ngoài núi Thiện Kiến có núi Mã Tự, cao ba ngàn do-tuần, ngang dọc ba ngàn do-tuần, giáp vòng núi thì không có giới hạn, do bảy báu tạo thành. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến núi này, do sự ma sát nên phát nhiệt. Đó là lý do thứ năm làm cho ánh sáng mặt trời nóng. (6) Cách xa núi Mã Tự có núi Ni-di-đà-la, cao một ngàn hai trăm do-tuần, ngang dọc một ngàn hai trăm do-tuần, giáp vòng núi thì không có giới hạn, do bảy báu tạo thành. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến núi này, do sự ma sát nên phát nhiệt. Đó là lý do thứ sáu làm cho ánh sáng mặt trời nóng. (7) Cách núi Ni-di-đà-la có núi Điều Phục, cao sáu trăm do-tuần, ngang dọc sáu trăm do-tuần, giáp vòng núi thì không có giới hạn, do bảy báu tạo thành. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến núi này, do sự ma sát nên phát nhiệt. Đó là lý do thứ bảy làm cho ánh sáng mặt trời nóng. (8) Cách núi Điều Phục có núi Kim Cang Luân, cao ba trăm do-tuần, ngang dọc ba trăm do-tuần, giáp vòng núi thì không có giới hạn, do bảy báu tạo thành. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến núi này, do sự ma sát nên phát nhiệt. Đó là lý do thứ tám làm cho ánh sáng mặt trời nóng. (9) Đi lên cao một vạn do-tuần thì có cung điện trời tên là Tinh Tú, do lưu ly tạo thành. Khi ánh sáng chiếu đến cung điện này, do sự ma sát nên phát nhiệt. Đó là lý do thứ chín làm cho ánh sáng mặt trời nóng. (10) Khi ánh sáng của cung điện mặt trời chiếu đến đại địa này, do sự ma sát nên phát nhiệt. Đó là lý do thứ mười làm cho ánh sáng mặt trời nóng.
Bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài kệ:
Vì mười nhân duyên này,
Mặt trời tên Thiên Quang,
Ánh sáng nóng hừng hực,
Phật nói về mặt trời.
Đức Phật dạy:
– Vì lý do gì về mùa đông thì mặt trời lạnh, đến nỗi không thể đến gần, dù có ánh sáng nhưng vẫn lạnh? Vì có mười ba lý do, tuy là có ánh sáng nhưng vẫn lạnh. Mười ba lý do gì?
(1) Giữa núi Tu-di và Khư-đà-la có một khối nước rộng tám vạn bốn ngàn do-tuần, giáp vòng không có giới hạn; nước ấy sanh các loài hoa, hoa ưu-bát-la, hoa câu-vật-đầu, hoa bát-đầu-ma, hoa phân-đà-lợi, hoa tu-càn-đầu. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến, có sự xúc chạm nên sanh ra lạnh. Đó là lý do thứ nhất làm cho ánh sáng mặt trời lạnh. (2) Giữa núi Khư-đà-la và Y-sa-đà-la có một khối nước rộng bốn vạn hai ngàn do-tuần, ngang dọc bốn vạn hai ngàn do-tuần, giáp vòng bao la. Nước ấy sanh các thứ hoa. Khi mặt trời chiếu đến, có sự xúc chạm nên sanh ra lạnh. Đó là lý do thứ hai làm ánh sáng mặt trời lạnh. (3) Giữa núi Y-sa-đà-la và núi Thọ-đề-đà-la có một khối nước rộng hai vạn một ngàn do-tuần, giáp vòng bao la. Nước ấy sanh các thứ hoa. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến, có sự xúc chạm nên sanh ra lạnh. Đó là lý do thứ ba làm cho ánh sáng mặt trời lạnh. (4) Giữa núi Thiện Kiến và núi Thọ-đề có một khối nước rộng một vạn hai ngàn do-tuần, giáp vòng bao la. Nước ấy lại sanh các thứ hoa. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến, có sự xúc chạm nên sanh ra lạnh. Đó là lý do thứ tư làm cho ánh sáng mặt trời lạnh. (5) Giữa núi Thiện Kiến và núi Mã Tự có khối nước rộng sáu ngàn do-tuần. Nước ấy lại sanh các thứ hoa. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến, có sự xúc chạm nên sanh ra lạnh. Đó là lý do thứ năm làm cho ánh sáng mặt trời lạnh. (6) Giữa núi Mã Tự và núi Ni-di-đà-la có một khối nước rộng một ngàn hai trăm do-tuần, giáp vòng bao la. Nước ấy lại sanh các thứ hoa. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến, có sự xúc chạm nên sanh ra lạnh. Đó là lý do thứ sáu làm cho ánh sáng mặt trời lạnh. (7) Giữa núi Ni-di-đà-la và Điều Phục có một khối nước rộng sáu trăm do-tuần. Làn nước bao la. Nước ấy lại sanh các thứ hoa. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến vì có sự tiếp xúc nên phát lạnh. Đó là lý do thứ bảy tạo cho ánh sáng mặt trời lạnh. (8) Giữa núi Điều Phục và núi Kim Cang Luân có một khối nước rộng ba trăm do-tuần, giáp vòng bao la. Nước ấy lại sanh ra các loại hoa. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến, có sự xúc chạm nên sanh ra lạnh. Đó là lý do thứ tám làm cho ánh sáng mặt trời lạnh. (9) Giữa núi Kim Cang Luân và Diêm-phù-đề có khối nước. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến, có sự xúc chạm nên sanh ra lạnh. Đó là lý do thứ chín làm cho mặt trời lạnh. (10) Về Diêm-phù-đề thì đất, sông ít, châu Cù-da-ni thì đất, nước nhiều. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến, có sự tiếp xúc nên sanh ra lạnh. Đó là lý do thứ mười làm cho ánh sáng mặt trời lạnh. (11) Về Cù-da-ni thì sông ít mà Phất-vu-đãi thì nước nhiều. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến, có sự xúc chạm nên sanh ra lạnh. Đó là lý do thứ mười một làm cho mặt trời lạnh. (12) Về châu Phất-vu-đãi sông ít, châu Uất- đơn-việt sông nhiều. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến, có sự xúc chạm nên sanh ra lạnh. Đó là lý do thứ mười hai làm cho ánh sáng mặt trời lạnh. (13) Khi ánh sáng của cung điện mặt trời chiếu đến nước của biển lớn. Khi ánh sáng mặt trời chiếu đến, có sự xúc chạm nên sanh ra lạnh. Đó là lý do thứ mười ba làm cho ánh sáng mặt trời lạnh.
Bấy giờ, đức Phật liền nói bài kệ:
Vì mười ba nhân duyên,
Mặt trời tên Thiên Quang,
Ánh sáng trong mà lạnh,
Phật nói về mặt trời.
Đức Phật dạy:
– Này các Tỳ-kheo, cung điện mặt trăng có khi tròn, khi khuyết; ánh sáng giảm xuống. Do đó, cung điện mặt trăng được gọi là tổn giảm. Mặt trăng có hai nghĩa: Một là luôn luôn cố định; hai là cung điện. Bốn phương cung điện vì thấy từ xa nên hình tròn, ấm lạnh điều hòa, do lưu ly và bạc trên trời tạo thành. Về hai phần bạc trên trời thì hoàn toàn thuần chất, không hỗn tạp, trong ngoài trong suốt, ánh sáng chiếu thật xa. Về một phần lưu ly thì cũng hoàn toàn thuần chất, không pha tạp, trong ngoài trong suốt, ánh sáng chiếu thật xa.
Mặt trăng ngang dọc bốn mươi chín ngàn do-tuần, tường và đất của cung điện mỏng như lau non. Cung điện có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp màn lưới, bảy lớp chuông báu, bảy lớp hàng cây, trang trí giáp vòng, đều do bảy báu tạo thành… có vô số chim chóc ca hót líu lo. Cung điện ấy được năm ngọn gió duy trì: Một là Trì phong, hai là Dưỡng phong, ba là Thọ phong, bốn là Chuyển phong, năm là Điều phong.
Về chánh điện nơi Vua Mặt Trăng ngự thì do lưu ly tạo thành, cao mười sáu do-tuần. Cung điện có bốn cửa và có lan can bao quanh. Chỗ ngồi của Vua Mặt Trăng ngang dọc nửa do-tuần, do bảy báu tạo thành, trong sạch, mềm mại như áo trời. Thân thể của Vua Mặt Trăng thường phát ra ánh sáng, chiếu đến cung điện bằng lưu ly và ánh sáng của cung điện bằng lưu ly chiếu đến cung điện mặt trăng. Ánh sáng của cung điện mặt trăng chiếu khắp bốn thiên hạ. Vua Mặt Trăng sống năm trăm tuổi trời. Con cháu thừa kế nhau, không có người khác họ kế vị. Cung điện ấy không hư hoại, cho đến một kiếp.
Khi mặt trăng di chuyển, Vua Mặt Trăng không có ý nghĩ di chuyển và nói là vị ấy đi hay dừng, thường lấy ngũ dục vui chơi với nhau. Lúc mặt trăng di chuyển, có vô số trăm ngàn các Đại thần thường đi ở phía trước, thích thú, không mỏi mệt, ưa thích, nhanh nhẹn. Do đó, Vua Mặt Trăng còn có tên là Nhanh Nhẹn.
Thân thể của Vua Mặt Trăng phát ra một ngàn tia sáng; năm trăm tia sáng chiếu xuống và năm trăm tia sáng chiếu sáng chung quanh. Đấy là do công đức, hạnh nguyện đời trước nên có ánh sáng này. Vì thế, Vua Mặt Trăng còn được gọi là Ngàn Ánh Sáng.
Công đức, hạnh nghiệp đời trước ấy như thế nào? Đó là ở đời, có người cúng dường cho Sa-môn, Bà-la-môn, bố thí cho người nghèo đói, thức ăn, thức uống, y phục, thuốc thang, voi, ngựa, xe cộ, phòng xá, đèn đuốc, trong khi cho, tùy theo nhu cầu của họ mà cung cấp, không trái với ý muốn của họ, hoặc cúng dường cho người trì giới, các bậc Hiền thánh. Do vô số các pháp hoan hỷ, thiện tâm nên có ánh sáng như thế. Cũng như vị vua thuộc dòng Sát-đế-lợi, có nước rưới đầu, khi mới lên ngôi thì thiện tâm vui vẻ cũng như thế. Do nhân duyên đó nên sau khi qua đời được làm Vua Mặt Trăng, ở cung điện mặt trăng, có ngàn tia sáng. Cho nên nói rằng nghiệp lành được ngàn ánh sáng. Lại nữa, do hạnh nghiệp gì mà được ngàn tia sáng? Vì ở thế gian, có người không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói dối, không nói thêm bớt, không tham, không sân, không si và không có tà kiến. Do nhân duyên đó có tâm lành, tâm hoan hỷ. Cũng như tại ngã tư đường, có một ao tắm lớn, trong sạch, không vẩn đục, có một người từ phương xa đến, vừa nóng, vừa mệt, vừa khát bèn vào trong ao, tắm gội sạch sẽ nên cảm thấy sảng khoái, an vui. Người thực hành thập thiện có được tâm lành, tâm hoan hỷ, cũng như thế. Do đó, sau khi qua đời, họ được làm Vua Mặt Trăng, ở cung điện mặt trăng, có ngàn tia sáng. Vì nhân duyên ấy nên nói do thiện nghiệp mà được ngàn tia sáng.
Lại nữa, vì nhân duyên gì mà được ngàn tia sáng? Vì ở thế gian có người không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Do nhân duyên đó nên thiện tâm vui vẻ và sau khi qua đời họ được làm Vua Mặt Trăng, ở cung điện mặt trăng, có ngàn tia sáng. Vì nhân duyên ấy nên nói do thiện nghiệp mà có ngàn tia sáng.
Lại nữa, trong khoảng sáu mươi niệm thì gọi là một la-da; ba mươi la-da thì gọi là ma-hầu-đa; một trăm ma-hầu-đa thì gọi là ưu-bà-ma. Nếu cung điện mặt trời sáu tháng di chuyển về hướng Nam, mỗi ngày di chuyển ba mươi dặm về phía cực Nam nhưng không vượt qua Diêm-phù-đề, lúc đó cung điện mặt trăng nửa năm di chuyển hướng Nam nhưng không vượt qua Diêm-phù-đề. Và khi mặt trăng di chuyển về hướng Bắc cũng như thế.
Vì nhân duyên gì mà cung điện mặt trăng khuyết dần dần? Có ba nhân duyên làm cho mặt trăng khuyết dần: (1) Mặt trăng mọc chênh một mé. Đó là nhân duyên thứ nhất làm cho mặt trăng khuyết; (2) Trong cung điện mặt trăng có những Đại thần mặc y phục xanh, theo thứ tự đi lên, hễ họ dừng lại chỗ nào thì chỗ đó biến thành màu xanh. Cho nên mặt trăng khuyết. Đó là nhân duyên thứ hai làm cho mặt trăng càng ngày càng khuyết; (3) Cung điện mặt trời có sáu mươi tia sáng, ánh sáng chiếu đến cung điện mặt trăng làm cho phản chiếu ánh sáng nên ánh sáng mặt trăng không hiện. Do đó, nơi bị phản chiếu ánh sáng thì mặt trăng khuyết. Đó là ba nguyên nhân làm cho mặt trăng khuyết.
Vì nhân duyên gì mà ánh sáng mặt trăng tròn dần dần? Có ba nhân duyên làm cho ánh sáng của mặt trăng tròn dần dần. Ba nhân duyên đó là gì? (1) Mặt trăng mọc chính hướng, cho nên ánh sáng mặt trăng tròn; (2) Trong cung điện mặt trăng, chư thần đều mặc y phục màu xanh. Lúc đó, Vua Mặt Trăng vào ngày rằm ngồi trong cung, cùng nhau vui chơi, ánh sáng chiếu khắp nơi, lấn át cả ánh sáng của chư thiên khác. Cho nên ánh sáng mặt trăng tròn đủ và soi sáng khắp nơi. Cũng như trong các thứ đèn đuốc thì lửa của ngọn đuốc lớn sẽ lấn át ánh sáng của những đèn đuốc kia. Ánh sáng của Vua Mặt Trăng cũng như thế. Vào ngày mười lăm, vị ấy ngồi giữa thiên chúng, ánh sáng của vị ấy lấn át các ánh sáng khác. Chỉ có ánh sáng của vị ấy chiếu sáng duy nhất. Đó là nhân duyên thứ hai; (3) Vua Mặt Trời có sáu mươi tia sáng chiếu vào mặt trăng nhưng vào ngày mười lăm, Vua Mặt Trăng dùng ánh sáng của mình chiếu ngược lại, khiến cho mặt trăng không bị che khuất. Đó là nhân duyên thứ ba làm cho mặt trăng tròn đầy, không có khuyết giảm.
Vì nhân duyên gì mặt trăng có bóng đen? Vì có bóng cây Diêm-phù ở trong mặt trăng, cho nên mặt trăng có bóng đen.
Đức Phật dạy:
– Tâm của các ông phải trong sạch, mát mẻ, không nóng nảy. Nhất là mỗi khi đến nhà đàn-việt thì phải nhất tâm, không tán loạn.
Vì nhân duyên gì mà thế gian có các sông ngòi? Do vì mặt trăng, mặt trời có sức nóng; do nóng phát ra lửa; do lửa mà có nước rỉ ra; do có nước rỉ ra mà có sông ngòi. Do vậy, trong thế gian có những sông ngòi.
Do nhân duyên gì mà thế gian có năm thứ hạt? Do có cơn gió lốc lớn từ một thế giới không tan hoại khác thổi những hạt ấy đến, sanh tại cõi này như: Một là hạt sanh từ rễ; hai là hạt sanh từ thân cây; ba là hạt sanh từ mắt cây; bốn là hạt sanh từ lỗ hổng của cây; năm là hạt sanh từ hạt cây. Vì nhân duyên ấy nên thế gian có năm thứ hạt.
Lại nữa, lúc mặt trời ở giữa ngày ở Diêm-phù-đề thì ở Phất-vu-đãi mặt trời lặn. Khi ở châu Câu-da-ni mặt trời mọc thì ở châu Uất-đơn-việt là nửa đêm. Khi ở châu Câu-da-ni mặt trời ở giữa trưa thì ở châu Diêm-phù-đề mặt trời lặn. Khi châu Uất-đơn-việt mặt trời mọc thì ở châu Phất-vu-đãi là nửa đêm. Khi ở châu Uất-đơn-việt mặt trời ở giữa trưa thì ở châu Câu-da-ni mặt trời lặn. Khi ở châu Phất-vu-đãi mặt trời mọc thì ở châu Diêm-phù-đề là nửa đêm. Khi ở châu Phất-vu-đãi mặt trời ở giữa trưa thì ở châu Uất-đơn-việt mặt trời lặn. Khi ở châu Diêm-phù-đề mặt trời mọc thì ở châu Câu-da-ni là nửa đêm. Nếu châu Diêm-phù-đề ở hướng Đông thì châu Phất-vu-đãi ở hướng Tây. Nếu châu Diêm-phù-đề ở hướng Tây thì châu Câu-da-ni ở hướng Đông. Nếu châu Câu-da-ni ở hướng Tây thì châu Uất-đơn-việt ở hướng Đông. Nếu châu Uất-đơn-việt ở hướng Tây thì châu Phất-vu-đãi ở hướng Đông. Sở dĩ châu Diêm-phù-đề được gọi là Diêm-phù, là vì dưới đó có núi vàng cao hai mươi do-tuần và do có cây Diêm-phù nên gọi là vàng Diêm-phù. Trái của cây Diêm-phù lớn như cái giỏ, vị ngọt như mật. Cây này có năm góc, bốn mặt có bốn góc và phía trên có một góc. Trái ở góc hướng Tây thì để cho càn-thát-bà ăn. Còn trái ở góc hướng Nam thì để cho dân chúng bảy nước ăn. Bảy nước là Câu-lâu, Câu-la-bà, Tỳ-đề, Thiện-tỳ-đề, Mạn-đà, Bà-la, Bà-lê. Còn trái ở góc hướng Tây thì để cho các loài trùng ở biển ăn. Trái ở góc hướng Bắc thì để cho các loài cầm thú ăn. Trái ở góc trên dành cho chư thiên và các vị tinh tú ăn.
Phía Bắc bảy nước lớn đó có bảy núi đen lớn: Một là núi Khỏa, hai là núi Bạch Hộc, ba là núi Thủ Cung, bốn là núi Tiên, năm là núi Cao, sáu là núi Thiền, bảy là núi Thổ. Trên đỉnh bảy hòn núi đen này có bảy vị Tiên thuộc dòng Bà-la-môn. Những chỗ ở của bảy vị Tiên đó tên là: Thiện Đế, Thiện Quang, Thủ Cung, Tiên Nhơn, Hộ Cung, Già-na-na, Tăng Ích.
Đức Phật dạy:
– Về kiếp đầu tiên, sau khi chúng sanh ăn vị đất rồi thì sống ở thế gian một thời gian lâu dài. Trong số đó, nếu người nào ăn nhiều thì nhan sắc trở nên xấu xí; người nào ăn ít thì nhan sắc vẫn còn tươi đẹp. Sau đó, chúng sanh mới có sự sai biệt về nhan sắc, dung mạo hơn kém, tranh luận phải, trái. Họ nói: “Ta đẹp hơn ngươi; ngươi không bằng ta.” Vì tâm họ còn bỉ, thử nên luôn luôn cạnh tranh với nhau. Do đó, vị của đất dần dần khô. Vỏ đất giống như cái bánh mỏng, màu đẹp, vị thơm và tinh khiết.
Bấy giờ, chúng sanh tụ tập lại một nơi buồn rầu, khóc lóc, ôm bụng nói: “Khổ thay! Đây là tai họa.” Nay vị đất bỗng nhiên biến mất. Sự kiện ấy cũng như ngày nay khi người ta được đầy đủ vị ăn ngon thì họ nói: “Ngon quá!” Nhưng sau đó, thức ăn ngon ấy bỗng tiêu mất thì họ lấy làm buồn khổ. Những chúng sanh trên khi mất vị đất thì buồn rầu, hối hận cũng như thế.
Sau đó, họ tiếp tục ăn vỏ đất, dần dần cảm thấy có mùi vị. Trong số đó, những người ăn nhiều thì nhan sắc trở nên xấu xí. Trái lại, những người ăn ít thì nhan sắc vẫn còn tươi đẹp. Do đó mới sanh ra sự sai biệt nhan sắc, dung mạo hơn kém giữa những chúng sanh, tranh luận với nhau về phải, trái. Chẳng hạn họ nói: “Ta đẹp hơn ngươi, ngươi không bằng ta.” Vì tâm của họ còn bỉ, thử, ôm lòng cạnh tranh với nhau, cho nên vỏ đất dần dần tiêu mất.
Về sau, lại có váng đất xuất hiện, to, dày dần ra, màu sắc như hoa trời, mềm mại như áo trời, mùi vị như mật. Khi ấy, những chúng sanh đó lại cùng nhau lấy ăn và sống ở thế giới này một thời gian lâu. Trong số đó, những người ăn nhiều thì nhan sắc trở nên xấu xí. Trái lại, những người ăn ít thì nhan sắc vẫn còn tươi đẹp. Do đó mới có sự sai biệt về nhan sắc, dung mạo hơn kém giữa những chúng sanh. Họ tranh luận với nhau về vấn đề phải, trái. Chẳng hạn như họ nói: “Ta đẹp hơn ngươi, ngươi không bằng ta.” Vì tâm họ còn bỉ, thử, ôm lòng cạnh tranh với nhau nên váng đất dần dần biến mất.
Sau đó, lại có một loại gạo, lúa tự nhiên, không có cám trấu, không cần thêm gì cả mà vẫn đầy đủ các vị ngon. Khi đó, những chúng sanh ấy mới tụ tập lại một chỗ và nói: “Khổ thay! Đây là tai họa.” Ngày nay, váng đất bỗng nhiên biến mất.” Sự kiện này cũng như ngày nay khi người ta gặp tai nạn, họ nói: “Khổ thay!” Lúc ấy, những chúng sanh trên khi mất thức ăn ngon thì buồn rầu, khổ não cũng như thế. Về sau, những chúng sanh ấy cùng nhau lấy gạo lúa đó mà ăn; khi ăn xong, thân họ trở nên thô xấu và có hình dáng nam, nữ sai khác. Thế rồi, họ nhìn nhau, do đó, sanh tâm tưởng về dục, rồi cùng nhau ở chỗ kín đáo, làm điều bất tịnh. Những chúng sanh khác thấy và nói: “Than ôi! Đó là việc sai trái.”
Tại sao những chúng sanh này cùng với những chúng sanh khác có sự hành dâm như thế? Khi những người đàn ông làm việc bất tịnh ấy, thấy người khác quở trách liền tự ăn năn và nói: “Việc làm của tôi là sai.” Tức thì gieo mình xuống đất. Lúc đó, những người phụ nữ thấy người đàn ông này gieo mình xuống đất, ăn năn không đứng dậy, họ liền đem thức ăn đến cho người đàn ông ấy. Những người khác trông thấy mới hỏi người phụ nữ đó:
“Ngươi muốn đem thức ăn này cho ai?”
Người phụ nữ đáp:
“Người đàn ông kia, vì ăn năn tội lỗi với những chúng sanh khác về hành động bất thiện của mình nên không đứng dậy. Do đó mà tôi đem thức ăn này cho ông ta.”
Nhân lời nói này nên trong thế gian mới có danh từ người chồng bất thiện, và do hành động đem cơm đến cho chồng nên mới có danh từ vợ.
Về sau, chúng sanh bèn làm việc dâm dục nên pháp bất thiện gia tăng, vì muốn che kín nên tạo ra phòng ốc. Vì nhân duyên ấy nên mới có danh từ nhà cửa. Về sau, sự dâm dục của chúng sanh càng gia tăng nên thành ra chồng vợ. Trong khi đó, có những chúng sanh khác hoặc hết mạng sống, hoặc hết hạnh nghiệp, hoặc hết phúc báu nên mạng chung tại trời Quang Âm. Từ cõi trời đó thác sanh về thế gian này và ở trong thai mẹ, nhân đó mới có danh từ bào thai.
Bấy giờ, trước hết là xây thành Chiêm-bà, sau đó, xây thành Già-thi, Ba-la-nại, tiếp theo xây thành Vương Xá. Khi mặt trời mọc thì khởi công xây cất, đến lúc mặt trời mọc hôm sau là hoàn thành. Do nhân duyên đó nên thế gian mới có danh từ thành, quách, quận, ấp, là nơi vua ngự trị.
Khi chúng sanh mới ăn loại lúa gạo tự nhiên thì sáng lấy chiều chín, tối lấy sáng chín. Và sau khi lấy xong thì sanh trở lại không có trấu cám. Lúc đó, lại có chúng sanh tự nghĩ: “Nếu mỗi ngày đều lấy thì nhọc công ta quá. Nay nên lấy để dùng nhiều ngày.” Tức thì, họ cùng gặt lương thực để dự trữ cho vài ngày sau. Những người sau nói với những người này:
“Nay chúng ta có thể cùng nhau đi lấy lúa gạo.”
Người đó đáp:
“Ta đã lấy dự trữ trước rồi, không cần lấy nữa. Nếu ngươi muốn đi lấy, tùy ý đi lấy.”
Bấy giờ, những người khác tự nghĩ: “Người trước đã lấy gạo để dành ăn trong hai ngày, sao ta không lấy lúa gạo để dành ăn ba ngày?” Những người này liền lấy gạo dự trữ ba ngày. Kế tiếp, có người khác nói:
“Chúng ta hãy cùng đi lấy lương thực về!”
Người này đáp:
“Ta đã lấy gạo dự trữ ba ngày. Nếu ngươi muốn lấy thì tùy ý đi lấy!”
Thế rồi, người đó tự nghĩ: “Người trước đã lấy gạo dự trữ ba ngày. Sao ta lại không lấy lương thực dự trữ năm ngày?” Tức thì, họ lấy gạo dự trữ năm ngày.
Khi ấy, vì chúng sanh tranh nhau tích trữ lương thực, cho nên, lúc đó lúa gạo mới sanh ra trấu cám, lấy rồi không sanh nữa. Đồng thời cỏ lác xuất hiện.
Lúc đó, chúng sanh tập hợp lại một chỗ, buồn rầu, khổ não, ôm bụng nói: “Khổ thay! Đây là tai họa.” Và tự trách: “Chúng ta trước đây đều do hóa sanh, dùng niệm lực làm thức ăn; trên thân tự phát ra ánh sáng, có thần túc bay trên hư không, an lạc, vô ngại. Rồi sau đó, vị đất mới sanh, đầy đủ màu sắc, hương vị. Chúng ta ăn vị đất này và sống ở thế gian này một thời gian lâu. Thế rồi, những người ăn nhiều thì nhan sắc dần dần thô xấu. Những người ăn ít, nhan sắc vẫn còn tươi đẹp. Lúc đó, chúng sanh giữ lòng bỉ, thử, sanh tâm kiêu mạn và nói: ‘Nhan sắc ta đẹp hơn ngươi, nhan sắc ngươi không bằng ta.’ Do vì tranh cãi về nhan sắc, có tâm kiêu mạn nên vị đất biến mất và sanh vỏ đất, đầy đủ hương vị và màu sắc. Thế rồi, chúng ta cùng nhau lấy thứ này mà ăn và sống ở thế gian này khá lâu. Trong số đó, nếu người nào ăn nhiều thì nhan sắc trở nên xấu xí. Người nào ăn ít thì nhan sắc vẫn còn tươi đẹp. Lúc đó, chúng sanh vì có tâm bỉ, thử, sanh tâm kiêu mạn và nói: ‘Ta nhan sắc hơn ngươi. Ngươi nhan sắc không bằng ta.’ Vì kiêu mạn, tranh tụng nhau về nhan sắc nên da đất biến mất, da đất càng to càng dày, đầy đủ hương vị, màu sắc. Khi ăn thì lấy thức ăn này ăn, rồi sống ở thế gian này một thời gian lâu. Trong số đó, nếu người ăn nhiều thì nhan sắc trở nên xấu xí. Người nào ăn ít thì nhan sắc vẫn còn tươi đẹp. Lúc đó, chúng sanh có tâm bỉ, thử, sanh lòng kiêu mạn và nói: ‘Nhan sắc của ta đẹp, nhan sắc của ngươi không bằng.’ Vì có sự tranh tụng về nhan sắc, có tâm kiêu mạn nên da đất biến mất, lại sanh lúa gạo tự nhiên, đầy đủ màu sắc, hương vị. Khi đó, lại cùng lấy thứ đó mà ăn, buổi sáng gặt lấy thì chiều tối sẽ chín; buổi tối gặt lấy thì sáng mai sẽ chín, gặt xong thì sanh ra lại, không cần chuyên chở, cất giữ. Bấy giờ, vì cạnh tranh, tích trữ nên lúa gạo sanh trấu, cám; gặt xong, không sanh lại như trước mà chỉ sanh cỏ lác. Vậy thì nay, chúng ta có thể phân chia ruộng đất, nhà cửa thành từng ô, từng khu vực. Tức thì, họ phân chia đất đai nên có từng ô riêng biệt và mới có lời nói ‘của ta’, ‘của người.’ Sau đó, lại giấu gạo của mình và trộm lúa của người. Những chúng sanh khác thấy và nói: ‘Người làm quấy, người làm quấy! Tại sao lại cất giấu tài vật của mình mà lại đi lấy tài vật của người?’ Thế rồi liền trách: ‘Từ đây về sau, ngươi không được lấy trộm nữa nhé!’ Nhưng họ vẫn tiếp tục như thế, không từ bỏ, lại ăn trộm tiếp. Những người khác trách rằng: ‘Ngươi làm sai, tại sao không từ bỏ?’
Tức thì, họ dùng tay, dùng gậy đánh đập người này và kéo đến giữa đám đông, tuyên bố với mọi người như sau: “Người này tự giấu lúa gạo của mình, rồi đi trộm lúa gạo của người khác.” Kẻ trộm lại nói: “Người kia đánh tôi.” Lúc ấy, mọi người nghe xong, buồn rầu, khóc lóc, ôm bụng nói: “Thế gian dần dần trở nên độc ác, có phải đây là ác pháp sanh chăng?” bèn sanh lòng buồn khổ và kết thành quả báo khổ não. Đây là nguồn gốc của sanh, lão, bệnh, tử và sa đọa vào đường ác.
Vì do có ruộng đất, nhà cửa từng ô riêng biệt nên sanh tranh tụng, thậm chí đưa đến oán thù, không có người giải quyết được. Vậy ngày nay chúng ta có thể tôn lên một vị vua bình đẳng, khéo ủng hộ nhân dân, thưởng người thiện, phạt người ác. Và chúng ta sẽ giảm bớt tài sản của mình để cung cấp cho nhà vua.” Lúc đó trong chúng có một người hình vóc to lớn, dung mạo đoan chánh, rất có uy đức. Mọi người nói: “Chúng tôi, nay muốn tôn ngài lên làm vua. Vậy ngài hãy khéo ủng hộ nhân dân nên thưởng người thiện, phạt kẻ ác. Chúng tôi sẽ giảm bớt tài sản để cung cấp cho ngài.” Người ấy nghe xong, bèn chấp nhận làm vua, đối với người đáng thưởng thì thưởng, người đáng phạt thì phạt. Lúc đó là lần đầu tiên có danh từ dân chúng và vua chúa.
Vị vua của dân đầu tiên có con tên là Trân Bảo. Trân Bảo có con tên là Hảo Vị. Hảo Vị có con tên là Tịnh Trai. Tịnh Trai có con tên Đảnh Sanh. Đảnh Sanh có con tên Thiện Hạnh. Thiện Hạnh có con tên là Trạch Hạnh. Trạch Hạnh có con tên là Diệu Vị. Diệu Vị có con tên là Vị Đế. Vị Đế có con tên Ngoại Tiên. Ngoại Tiên có con tên là Bách Trí. Bách Trí có con tên là Thị Dục. Thị Dục có con tên là Thiện Dục. Thiện Dục có con tên Đoan Kiết. Đoan Kiết có con tên là Đại Đoan Kiết. Đại Đoan Kiết có con tên là Bảo Tạng. Bảo Tạng có con tên là Đại Bảo Tạng. Đại Bảo Tạng có con tên là Thiện Kiến. Thiện Kiến có con tên là Đại Thiện Kiến. Đại Thiện Kiến có con tên là Vô Ưu. Vô Ưu có con tên là Châu Tự. Châu Tự có con tên là Thực Sanh. Thực Sanh có con tên là Sơn Nhạc. Sơn Nhạc có con tên là Thần Thiên. Thần Thiên có con tên Tấn Lực. Tấn Lực có con tên là Lao Xa. Lao Xa có con tên là Thập Xa. Thập Xa có con tên là Bách Xa. Bách Xa có con tên là Lao Cung. Lao Cung có con tên là Bách Cung. Bách Cung có con tên là Dưỡng Thâu. Dưỡng Thâu có con tên là Thiện Tư. Từ Thiện Tư về sau, có mười dòng Chuyển Luân Thánh Vương tiếp tục lên ngôi không gián đoạn: Một là Già-nậu-da, hai là Đa-la-nghiệp, ba là A-diệp-ma, bốn là Trì Địa, năm là Già-lăng-già, sáu là Chiêm-bà, bảy là Câu-la-ta-bà, tám là Bán-xà-la, chín là Di-tư-la, mười là Ý-ma. Vua Già-nậu-da có năm vị Chuyển Luân Thánh Vương. Vua Đa-la-nghiệp có năm vị Chuyển Luân Thánh Vương. Vua A-diệp-ma có bảy vị Chuyển Luân Thánh Vương. Vua Trì Địa có bảy vị Chuyển Luân Thánh Vương. Vua Già-lăng-già có chín vị Chuyển Luân Thánh Vương. Vua Chiêm-bà có mười bốn vị Chuyển Luân Thánh Vương. Vua Câu-la-ta-bà có ba mươi mốt vị Chuyển Luân Thánh Vương. Vua Bán-xà-la có ba mươi hai vị Chuyển Luân Thánh Vương. Vua Di-tư-la có tám vạn bốn ngàn vị Chuyển Luân Thánh Vương. Vua Ý-ma có một trăm lẻ một vị Chuyển Luân Thánh Vương. Vua cuối cùng tên là Đại Thiện Sanh. Vua Ý-ma có con tên là Ô-la-bà. Ô-la-bà có con tên là Cừ-la-đà. Cừ-la-đà có con tên là Ni-cầu-la. Ni-cầu-la có con tên là Sư Tử Giáp. Sư Tử Giáp có con tên là Bạch Tịnh. Bạch Tịnh có con tên là Bồ-tát. Bồ-tát có con tên là La-hầu-la. Do nguồn gốc này nên có danh từ Sát-đế-lợi.
Bấy giờ, có một chúng sanh tự nghĩ: “Tất cả vạn vật, tài sản, nhà cửa thuộc phạm vi thế gian đều là gai nhọn, là ung nhọt. Nay ta nên xả bỏ, vào núi tu hành, ở chỗ thanh vắng suy tư.” Tức thì, người đó từ bỏ gia đình, vào núi tu hành, ở nơi thanh tịnh, ngồi suy tư dưới gốc cây. Mỗi ngày ra khỏi núi để vào xóm khất thực. Người trong thôn xóm trông thấy, cung kính cúng dường và mọi người đều tán thán: “Người này có thể bỏ sự trói buộc nhà cửa, vào núi cầu đạo, nhờ đó, có thể xa lìa những điều ác, bất thiện.” Do đó gọi là Bà-la-môn.
Thế rồi, trong chúng Bà-la-môn có người không thể tu hành thiền định, bèn ra khỏi núi rừng, đi vào trong nhân gian và tự nói: “Ta không thể tu thiền.” Do đó gọi là Bà-la-môn không tu thiền định. Thế rồi, họ đi qua xóm làng, làm những điều bất thiện, thi hành các pháp ác. Do tướng này sanh nên có danh từ độc ác. Do nhân duyên ấy nên trong thế gian có danh từ dòng Bà-la-môn. Những chúng sanh đó làm nhiều nghề nghiệp để tự sinh sống. Do đó, trong thế gian có dòng Cư sĩ. Trong số chúng sanh ấy, có người học tập kỹ thuật để sinh sống. Do vậy, trong thế gian có dòng Thủ-đà-la.
Trong thế gian, trước hết là có dòng họ Thích ra đời. Sau đó là dòng Bà-la-môn. Trong dòng Sát-đế-lợi có người nghĩ: “Ân ái thế gian là nhơ nhớp, là bất tịnh, đâu đáng tham đắm.” Lúc đó, họ từ bỏ gia đình, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục, cầu đạo và tự xưng: “Ta là Sa-môn, ta là Sa-môn.” Trong dòng Bà-la-môn, Cư sĩ, Thủ-đà-la có người tự nghĩ: “Ân ái thế gian là ô uế, là bất tịnh, đâu đáng tham đắm”, rồi họ từ bỏ gia đình, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục, cầu đạo và tự xưng: “Ta là Sa-môn, ta là Sa-môn.”
Thế rồi, nếu trong chúng Sát-đế-lợi có người làm việc bất thiện về thân, về khẩu và về ý, khi làm xong thì mạng chung và hoàn toàn chịu khổ. Hoặc có Bà-la-môn, Cư sĩ, Thủ-đà-la làm việc bất thiện về thân, về khẩu và về ý, khi thực hành việc bất thiện xong thì mạng chung nên hoàn toàn chịu khổ. Hoặc trong dòng Sát-đế-lợi, có người hành thiện về thân, về khẩu và về ý, sau khi mạng chung thì hoàn toàn được an vui. Hoặc trong dòng Bà-la-môn, Cư sĩ, Thủ-đà-la có người hành thiện về thân, về khẩu và về ý, sau khi mạng chung thì hoàn toàn an vui.
Hoặc trong dòng Sát-đế-lợi có người làm ác và hành thiện về thân, về khẩu và về ý, khi thực hành xong thì mạng chung, chịu quả báo vừa khổ vừa vui. Hoặc trong dòng Bà-la-môn, Cư sĩ, Thủ-đà-la có người hành ác và hành thiện về thân, về khẩu và về ý, sau khi thực hành xong hai điều trên thì mạng chung, chịu quả báo vừa khổ vừa vui. Hoặc trong dòng Sát-đế-lợi, có người cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo và thực hành Thất giác ý. Người ấy dùng lòng tin kiên cố, chọn con đường xuất gia, tu tập Phạm hạnh vô thượng, tự mình chứng ngộ ngay trong hiện tại, sanh tử đã hết, Phạm hạnh đã thành tựu, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh.
Hoặc trong dòng Bà-la-môn, Cư sĩ và Thủ-đà-la, có người cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia cầu đạo và tu tập Thất giác ý. Người ấy dùng lòng tin kiên cố, chọn con đường xuất gia, tu tập Phạm hạnh vô thượng, tự mình chứng ngộ ngay trong hiện tại, sanh tử đã hết, Phạm hạnh đã thành tựu, việc cần làm đã làm xong, không còn tái sanh.
Như vậy, bốn dòng ấy đều có thể thành tựu trí và đức, chứng quả A-la-hán là bậc đệ nhất.
Khi ấy, Phạm thiên nói bài kệ:
Sanh Đế-lợi tối thắng,
Nhóm được các dòng khác,
Thành tựu cả trí, đức,
Tối thắng giữa nhân, thiên.
Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:
– Vị Phạm thiên ấy, khi nói bài kệ này là khéo nói, chẳng phải là vụng nói. Đáng được chấp nhận, chớ chẳng phải không đáng chấp nhận. Ta đã ấn khả. Tại sao? Vì Ta là đức Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, cũng nói bài kệ này:
Sanh Sát-lợi tối thắng,
Nhóm được các dòng khác,
Thành tựu cả trí, đức,
Tối thắng giữa nhân, thiên.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe đức Phật nói pháp xong, hoan hỷ phụng hành.
KINH TRƯỜNG A-HÀM HOÀN TẤT
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.