Viện Nghiên Cứu Phật Học

 

9. PHẨM TAM TAI[1]

 

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

– Có bốn sự kiện diễn ra lâu dài, không hạn lượng, không thể tính đếm được bằng ngày, tháng, năm. Bốn sự kiện ấy là gì?

Thứ nhất, thế gian này có những tai họa khởi lên từ từ, khi thế giới này bị hủy diệt, sự việc ấy diễn ra trong khoảng thời gian rất lâu dài, không hạn lượng, không thể tính đếm được bằng ngày, tháng, năm.

Thứ hai, sau khi thế giới này bị hủy diệt, giai đoạn trung gian là một khoảng trống mênh mông, không có thế giới, diễn ra trong thời gian lâu dài mịt mù, không thể tính đếm được bằng ngày, tháng, năm.

Thứ ba, khi trời đất mới manh nha hướng đến sự hình thành, sự việc ấy diễn ra trong khoảng thời gian lâu dài, không thể tính đếm được bằng ngày, tháng, năm.

Thứ tư, sau khi trời đất đã hình thành rồi, sẽ tồn tại không hư hoại trong khoảng thời gian dài vô hạn, không thể tính đếm được bằng ngày, tháng, năm.

Đó là bốn sự kiện lâu dài, không hạn lượng, không thể tính đếm được bằng ngày, tháng, năm.

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

– Thế gian có ba tai họa. Ba tai họa ấy là gì? Một là nạn lửa, hai là nạn nước và ba là nạn gió. Ba tai họa này có ba giới hạn ở phía trên, là ba giới hạn nào? Đó là trời Quang Âm, trời Biến Tịnh và trời Quả Thật. Khi nạn lửa dấy lên thì chỉ cháy đến trời Quang Âm, nên cõi trời Quang Âm là giới hạn. Khi nạn nước dấy lên thì chỉ ngập đến trời Biến Tịnh, nên cõi trời Biến Tịnh là giới hạn. Khi nạn gió dấy lên thì chỉ thổi đến trời Quả Thật, nên cõi trời Quả Thật là giới hạn.

Thế nào là nạn lửa? Khi nạn lửa sắp dấy lên, con người ở thế gian đều thực hành Chánh pháp, có chánh kiến, không điên đảo, tu tập mười hạnh lành. Khi thực hành những pháp ấy, có người chứng được Thiền thứ hai, liền bay lên không trung, trú vào cõi Thánh nhân, cõi trời và cõi Phạm rồi nói lớn tiếng rằng:

“Các Hiền giả! Hãy nên biết niềm vui thiền thứ hai, không giác, không quán. Hạnh phúc thay, Thiền thứ hai không giác, không quán!”

Lúc đó, ở thế gian có người nghe được tiếng nói từ hư không, liền ngước lên trời nói với họ rằng:

“Lành thay! Lành thay! Xin hãy chỉ bày cho tôi phương pháp tu tập của thiền thứ hai, không giác, không quán.”

Khi ấy, người ở giữa hư không nghe được tiếng nói ở thế gian, liền trình bày phương pháp tu tập của thiền thứ hai, không giác, không quán cho họ nghe. Sau khi nghe xong, người ở thế gian liền thực hành theo phương pháp tu tập nên đạt đến thiền thứ hai, không giác, không quán, sau khi qua đời, liền được sanh lên cõi trời Quang Âm.

Bấy giờ, có chúng sanh ở địa ngục đã dứt sạch tội, sau khi mạng chung thì sanh vào cõi người, lại tu tập thiền thứ hai, không giác, không quán, khi qua đời được sanh lên cõi trời Quang Âm. Những chúng sanh trong các loài súc sanh, ngạ quỷ, a-tu-la, Tứ Thiên Vương, trời Đao-lợi, trời Diệm-ma, trời Hóa Tự Tại, trời Tha Hóa Tự Tại và Phạm thiên, sau khi thân hoại mạng chung đều sanh trở lại chốn nhân gian, đều tu tập thiền thứ hai, không giác, không quán, nên sau khi thân hoại mạng chung đều được sanh lên cõi trời Quang Âm. Do nhân duyên này nên các đường địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, a-tu-la cho đến Phạm thiên thảy đều chấm dứt.

Ngay lúc ấy, trước tiên là cõi địa ngục chấm dứt, kế đến là cõi súc sanh chấm dứt, súc sanh chấm dứt rồi đến ngạ quỷ chấm dứt, ngạ quỷ đã chấm dứt rồi đến a-tu-la chấm dứt, a-tu-la chấm dứt rồi đến Tứ Thiên Vương chấm dứt, Tứ Thiên Vương chấm dứt rồi đến trời Đao-lợi chấm dứt, trời Đao-lợi chấm dứt rồi đến trời Diệm-ma chấm dứt, trời Diệm-ma chấm dứt rồi đến trời Đâu-suất chấm dứt, trời Đâu-suất chấm dứt rồi đến trời Hóa Tự Tại chấm dứt, trời Hóa Tự Tại chấm dứt rồi đến trời Tha Hóa Tự Tại chấm dứt, trời Tha Hóa Tự Tại chấm dứt rồi đến trời cõi Phạm chấm dứt, Phạm thiên chấm dứt rồi, cuối cùng loài người diệt hết, không còn sót lại gì. Sau khi loài người hết sạch, thế gian này bị hủy diệt thì tai kiếp được hình thành. Từ đó về sau, trời không mưa, trăm thứ lúa mạ, các loại cỏ cây đều bị chết khô.

[0137c12] Phật bảo Tỳ-kheo:

  • Do sự kiện trên mà biết, tất cả các hành vô thường, là pháp biến đổi, hư hoại, không đáng nương tựa. Các pháp hữu vi thật đáng nhàm chán, hãy nên tìm cầu con đường giải thoát, vượt khỏi thế gian.

Trải qua thời gian rất lâu về sau, có một trận cuồng phong dữ dội nổi lên, thổi mạnh vào biển cả, khiến nước biển sâu đến tám mươi bốn ngàn do-tuần bị tách làm hai, cuốn cung điện mặt trời đặt ở lưng chừng núi Tu-di, cách mặt đất bốn mươi hai ngàn do-tuần rồi đặt làm quỹ đạo mặt trời. Do nhân duyên này mà thế gian có hai mặt trời xuất hiện. Khi hai mặt trời xuất hiện, những dòng sông, ngòi, kênh và rạch nhỏ trên thế gian này thảy đều khô cạn.

  • Này các Tỳ-kheo! Do sự kiện trên mà biết, tất cả các hành vô thường, là pháp biến đổi, hư hoại, không đáng nương tựa. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm chán, hãy nên tìm cầu con đường giải thoát, vượt khỏi thế gian.

Trải qua thời gian rất lâu về sau, có một trận cuồng phong dữ dội nổi lên, thổi mạnh vào biển cả, khiến cho nước biển sâu đến tám mươi bốn ngàn dotuần bị tách làm hai, cuốn cung điện mặt trời đặt ở lưng chừng núi Tu-di, cách mặt đất bốn mươi hai ngàn do-tuần rồi đặt làm quỹ đạo mặt trời. Do nhân duyên này mà thế gian có ba mặt trời xuất hiện. Khi ba mặt trời xuất hiện, những dòng sông lớn như sông Hằng, sông Da-bà-na, sông Bà-la, sông A-dila-bà-đề, sông A-na-khiếp, sông Tân-đà và sông Cố-xa, thảy đều khô cạn, không còn một giọt.

 Do sự kiện trên mà biết, tất cả các hành vô thường, là pháp biến đổi, hư hoại, không đáng nương tựa. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm chán, hãy nên tìm cầu con đường giải thoát, vượt khỏi thế gian.

Trải qua thời gian rất lâu về sau, có một trận cuồng phong dữ dội nổi lên, thổi mạnh vào biển cả, khiến cho nước biển sâu đến tám mươi bốn ngàn do-tuần bị tách làm hai, cuốn cung điện mặt trời đặt ở lưng chừng núi Tu-di, cách mặt đất bốn mươi hai ngàn do-tuần rồi đặt làm quỹ đạo mặt trời. Do nhân duyên này mà thế gian có bốn mặt trời xuất hiện. Khi bốn mặt trời xuất hiện thì những nguồn suối, vực sâu, ao hồ trong thế gian, như hồ lớn Thiện Kiến, hồ A-nậu-đạt, hồ Tứ-phương-đà-diên, hồ Ưu-bát-la, hồ Câu-vật-đầu, hồ Phân-đà-lợi và hồ Ly ngang dọc năm mươi do-tuần, thảy đều khô cạn.

[0138a05] Do đó nên biết, tất cả các hành vô thường, là pháp biến đổi, hư hoại, không đáng nương tựa. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm chán, hãy nên tìm cầu con đường giải thoát, vượt khỏi thế gian.

Trải qua thời gian rất lâu về sau, có một trận cuồng phong dữ dội nổi lên, thổi mạnh vào biển cả, khiến cho nước biển cả bị tách làm hai, cuốn cung điện mặt trời đặt ở lưng chừng núi Tu-di rồi đặt làm quỹ đạo mặt trời. Do nhân duyên này mà thế gian có năm mặt trời xuất hiện. Khi năm mặt trời xuất hiện thì nước trong biển cả cạn dần, từ một trăm do-tuần cho đến bảy trăm do-tuần.

Do đó nên biết, tất cả các hành vô thường, là pháp biến đổi, hư hoại, không đáng nương tựa. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm chán, hãy nên tìm cầu con đường giải thoát, vượt khỏi thế gian.

Bấy giờ, nước trong biển cả dần dần khô cạn, chỉ còn lại bảy trăm do-tuần, rồi sáu trăm do-tuần, năm trăm do-tuần, bốn trăm do-tuần, cho đến chỉ còn một trăm do-tuần.

Do đó nên biết, tất cả các hành vô thường, là pháp biến đổi, hư hoại, không đáng nương tựa. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm chán, hãy nên tìm cầu con đường giải thoát, vượt khỏi thế gian.

Rồi thì, nước trong biển cả dần dần giảm xuống đến bảy do-tuần, sáu dotuần, năm do-tuần,... cho đến còn một do-tuần.

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

  • Do đó nên biết, tất cả các hành vô thường, là pháp biến đổi, hư hoại, không đáng nương tựa. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm chán, hãy nên tìm cầu con đường giải thoát, vượt khỏi thế gian.

Về sau, nước trong biển cả dần dần khô cạn, chỉ còn sâu bằng bảy cây đa-la, sáu cây đa-la,... cho đến chỉ còn một cây đa-la.

Này các Tỳ-kheo! Do đó nên biết, tất cả các hành vô thường, là pháp biến đổi, hư hoại, không đáng nương tựa. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm chán, hãy nên tìm cầu con đường giải thoát, vượt khỏi thế gian.

Sau đó, nước trong biển cả cạn dần, chỉ còn sâu bằng bảy người, sáu người, năm người, bốn người, ba người, hai người rồi một người, cho đến chỉ còn ngang lưng, rồi đến đầu gối, rồi chỉ còn ngang mắt cá chân.

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

  • Do đó nên biết, tất cả các hành vô thường, là pháp biến đổi, hư hoại, không đáng nương tựa. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm chán, hãy nên tìm cầu con đường giải thoát, vượt khỏi thế gian.

Sau đó, nước biển khô cạn, chỉ còn giống như vũng nước trong dấu chân bò sau cơn mưa xuân, không đủ thấm ướt ngón tay người.

[0138b01] Phật bảo Tỳ-kheo:

  • Từ đó nên biết, tất cả các hành vô thường, là pháp biến đổi, hư hoại, không đáng nương tựa. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm chán, hãy nên tìm cầu con đường giải thoát, vượt khỏi thế gian.

Trải qua thời gian rất lâu về sau, có trận cuồng phong dữ dội nổi lên, thổi cát đáy biển sâu đến tám mươi bốn ngàn do-tuần, khiến cát biển dạt đôi bờ, cuốn cung điện mặt trời đặt ở lưng chừng núi Tu-di, tạo thành quỹ đạo mặt trời. Do nhân duyên này, thế gian có sáu mặt trời xuất hiện. Khi sáu mặt trời xuất hiện thì bốn châu thiên hạ cùng với núi non trong tám vạn thiên hạ và núi lớn, núi chúa Tu-di thảy đều bốc khói, bùng lửa, giống như người thợ gốm vừa nhóm lò, khi sáu mặt trời xuất hiện cũng lại như vậy.

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

  • Do đó nên biết, tất cả các hành vô thường, là pháp biến đổi, hư hoại, không đáng nương tựa. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm chán, hãy nên tìm cầu con đường giải thoát, vượt khỏi thế gian.

Trải qua thời gian rất lâu về sau nữa, có trận cuồng phong dữ dội nổi lên, thổi cát đáy biển sâu đến tám mươi bốn ngàn do-tuần, khiến cát biển dạt đôi bờ, cuốn cung điện mặt trời đặt ở lưng chừng núi Tu-di, tạo thành quỹ đạo mặt trời.

Do nhân duyên này, thế gian có bảy mặt trời xuất hiện. Khi bảy mặt trời xuất hiện thì bốn châu thiên hạ này cùng với núi non trong tám vạn thiên hạ và núi lớn, núi chúa Tu-di thảy đều rực lửa, giống như thợ gốm đã đốt lò, ngọn lửa bốc lên, khi bảy mặt trời xuất hiện cũng lại như vậy.

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

  • Do đó nên biết, tất cả các hành vô thường, là pháp biến đổi, hư hoại, không đáng nương tựa. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm chán, hãy nên tìm cầu con đường giải thoát, vượt khỏi thế gian.

Bốn châu thiên hạ này cùng với núi non trong tám vạn thiên hạ và núi chúa Tu-di thảy đều rực lửa. Cùng lúc, cung điện của Tứ Thiên Vương, cung điện của trời Đao-lợi, trời Diệm-ma, trời Hóa Tự Tại, trời Tha Hóa Tự Tại và cung điện của Phạm thiên thảy đều rực lửa.

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

  • Do đó nên biết, tất cả các hành vô thường, là pháp biến đổi, hư hoại, không đáng nương tựa. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm chán, hãy nên tìm cầu con đường giải thoát, vượt khỏi thế gian.

Bấy giờ, sau khi bốn châu thiên hạ này,... cho đến Phạm thiên thảy đều rực lửa, gió thổi ngọn lửa bốc cháy lên đến trời Quang Âm, các thiên tử mới sanh ở cõi ấy trông thấy lửa cháy đều rất lo sợ, hét lên:

“Ôi! Vật gì thế?”

Chư thiên sanh trước nói với chư thiên mới sanh:

“Đừng lo sợ! Đám lửa kia đã từng lan đến nhưng đến ngang đây là dừng lại thôi.”

Vì nhớ ngọn lửa trước kia đã từng lan đến, nên gọi là cõi trời Quang Niệm. Khi bốn châu thiên hạ này,... cho đến cõi Phạm thiên bị thiêu hủy hết thì núi chúa Tu-di dần dần sụp lở, từ một trăm do-tuần, hai trăm do-tuần cho đến bảy trăm do-tuần.

[0138c01] Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

  • Do đó nên biết, tất cả các hành là vô thường, là pháp biến đổi, hư hoại, không đáng nương tựa. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm chán, hãy nên tìm cầu con đường giải thoát, vượt khỏi thế gian.

Khi bốn châu thiên hạ này cho đến cõi Phạm thiên đã bị cháy sạch, dần hồi đại địa và núi Tu-di cũng đều cháy rụi không còn gì. Do đó nên biết, tất cả các hành vô thường, là pháp biến đổi, hư hoại, không đáng nương tựa. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm chán, hãy nên tìm cầu con đường giải thoát, vượt khỏi thế gian.

Khi đại địa đã cháy rụi thì nước ở trong lòng đất cạn kiệt, gió dưới mặt nước cũng dừng. Do đó nên biết, tất cả các hành vô thường, là pháp biến đổi, hư hoại, không đáng nương tựa. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm chán, hãy nên tìm cầu con đường giải thoát, vượt khỏi thế gian.

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

  • Khi nạn lửa dấy lên thì trời không mưa, trăm thứ lúa mạ, cỏ cây tự nhiên chết khô. Ai sẽ tin điều này? Chỉ có ai đã nhìn thấy mới tự biết mà thôi. Nạn lửa xảy ra như thế,... cho đến nước ở trong lòng đất khô cạn, gió dưới mặt nước cũng dừng. Ai sẽ tin điều này? Chỉ có ai đã thấy mới tự biết mà thôi.

Đó là nạn lửa.

Thế nào là sự khôi phục sau nạn lửa? Trải qua thời gian lâu dài về sau, có đám mây đen rất lớn xuất hiện giữa hư không, giăng phủ đến cõi trời Quang Âm, tuôn mưa xuống khắp nơi, giọt mưa to như bánh xe. Mưa như thế cho đến vô số trăm ngàn năm, nước mưa tăng dần lên, cao đến vô số trăm ngàn do-tuần, tràn ngập,... cho đến trời Quang Âm.

Lúc ấy, có bốn ngọn gió lớn nổi lên, giữ mực nước lại. Bốn ngọn gió đó là Trụ phong, Trì phong, Bất Động phong và Kiên Cố phong. Sau đó, nước rút xuống trăm ngàn do-tuần, rồi vô số trăm ngàn vạn do-tuần. Bốn mặt nước ấy nổi lên ngọn gió lớn tên là Tăng-già, thổi đến khuấy động mặt nước, tạo thành sóng dữ, nổi bọt sóng kết tụ lại, rồi có ngọn gió thổi đám bọt sóng bay khỏi mặt nước, văng lên ở giữa hư không và tự nhiên trở nên rắn chắc, biến thành cung trời, được trang trí bằng bảy báu, do nhân duyên này mà có cung trời Phạm-ca-di.

Rồi nước tiếp tục rút dần cho đến vô số trăm ngàn vạn do-tuần. Bốn mặt nước ấy nổi lên ngọn gió lớn tên là Tăng-già, thổi đến khuấy động mặt nước, tạo thành sóng dữ, nổi bọt sóng kết tụ lại, rồi có ngọn gió thổi đám bọt sóng bay khỏi mặt nước, văng lên ở giữa hư không và tự nhiên trở nên rắn chắc, biến thành cung trời, được trang trí bằng bảy báu, do nhân duyên này mà có cung trời Tha Hóa Tự Tại.

Nước lại tiếp tục rút dần xuống vô số ngàn vạn do-tuần. Bốn mặt nước ấy nổi lên ngọn gió lớn tên là Tăng-già, thổi đến khuấy động mặt nước, tạo thành sóng dữ, nổi bọt sóng kết tụ lại, rồi có ngọn gió thổi đám bọt sóng bay khỏi mặt nước, văng lên ở giữa hư không và tự nhiên trở nên rắn chắc, biến thành cung trời, được trang trí bằng bảy báu, do nhân duyên này mà có cung trời Hóa Tự Tại.

Rồi nước tiếp tục rút dần đến vô số trăm ngàn do-tuần. Lại có ngọn gió tên là Tăng-già thổi đến khuấy động mặt nước, tạo thành sóng dữ, nổi bọt sóng kết tụ lại, rồi có ngọn gió thổi đám bọt sóng bay khỏi mặt nước, văng lên ở giữa hư không và tự nhiên trở nên rắn chắc, biến thành cung trời, được trang trí bằng bảy báu, do nhân duyên này mà có cung trời Đâu-suất.

Rồi nước ấy tiếp tục rút dần xuống vô số trăm ngàn do-tuần. Lại có ngọn gió tên là Tăng-già nổi lên, thổi đến khuấy động mặt nước, tạo thành sóng dữ, nổi bọt sóng kết tụ lại, rồi có ngọn gió thổi đám bọt sóng bay khỏi mặt nước, văng lên ở giữa hư không và tự nhiên trở nên rắn chắc, biến thành cung trời, được trang trí bằng bảy báu, do nhân duyên này mà có cung trời Diệm-ma.

Nước tiếp tục hạ thấp xuống đến vô số trăm ngàn do-tuần, có bọt nổi lên trên mặt nước, dày sáu mươi vạn tám ngàn do-tuần, ranh giới không hạn định, cũng như dòng nước, suối nguồn tuôn chảy ở thế gian này, trên mặt nước có nổi bọt thì mặt nước kia cũng như vậy.

[0139a12] Vì nhân duyên gì mà có núi Tu-di? Vì có cuồng phong nổi lên, thổi đám bọt nước này tạo thành núi Tu-di, cao sáu mươi vạn tám ngàn do-tuần, ngang dọc tám vạn bốn ngàn do-tuần và do bốn thứ báu là vàng, bạc, thủy tinh và lưu ly tạo thành.

Vì nhân duyên gì mà có bốn cung điện a-tu-la? Vì có cuồng phong nổi lên, thổi đám bọt nước trên biển lớn quanh bốn phía núi Tu-di, tạo thành các cung điện lớn, mỗi cung ngang dọc đều tám vạn do-tuần, tự nhiên biến thành cung điện bảy báu.

Lại do nhân duyên gì có cung điện Tứ Thiên Vương? Sau đó, lại có cuồng phong nổi lên, thổi đám bọt nước lớn lên lưng chừng núi Tu-di, khoảng bốn vạn hai ngàn do-tuần, tự nhiên biến thành cung điện bằng bảy báu, vì thế nên gọi là cung điện Tứ Thiên Vương.

Do nhân duyên gì có cung điện trời Đao-lợi? Vì sau đó, lại có cuồng phong lớn nổi lên, thổi đám bọt nước lớn lên trên đỉnh núi Tu-di, rồi tự nhiên tạo thành cung điện bằng bảy báu.

Lại do nhân duyên gì có núi Già-đà-la? Về sau, có cuồng phong nổi lên, thổi đám bọt nước lớn, đẩy ra khỏi ngọn núi Tu-di không xa, tự nhiên tạo thành núi báu, chân núi ăn sâu vào lòng đất bốn vạn hai ngàn do-tuần, ngang dọc bốn vạn hai ngàn do-tuần, ranh giới không hạn định, nhiều màu sắc xen lẫn, do bảy báu tạo thành, do nhân duyên này nên có núi Già-đà-la.

Vì sao lại có núi Y-sa? Vì có cuồng phong nổi lên, thổi đám bọt nước lớn, đẩy ra khỏi ngọn núi Già-đà-la không xa, tự nhiên tạo thành núi Y-sa, cao hai vạn một ngàn do-tuần, ngang dọc hai vạn một ngàn do-tuần, ranh giới không hạn định, nhiều màu sắc xen lẫn, do bảy báu tạo thành, do nhân duyên này nên có núi Y-sa.

Sau đó, lại có cuồng phong nổi lên, thổi đám bọt nước lớn, đẩy ra khỏi núi Y-sa không xa, tự nhiên tạo thành núi Thọ-thần-đà-la, cao một vạn hai ngàn dotuần, ngang dọc một vạn hai ngàn do-tuần, ranh giới không hạn định, nhiều màu sắc xen lẫn, do bảy báu tạo thành, do nhân duyên này nên có núi Thọ-thần-đà-la.

Sau đó, có cuồng phong nổi lên, thổi đám bọt nước lớn, đẩy ra khỏi núi

Thọ-thần-đà-la không xa, tự nhiên tạo thành núi A-bát-nê-lâu[2] cao sáu ngàn do-tuần, ngang dọc sáu ngàn do-tuần, ranh giới không hạn định, nhiều màu sắc xen lẫn, do bảy báu tạo thành, do nhân duyên này nên có núi A-bát-ni-lâu.[3]

[0139b09] Về sau nữa, có cuồng phong nổi lên, thổi đám bọt nước lớn, đẩy ra khỏi núi A-bát-ni-lâu không xa, tự nhiên biến thành núi Di-lân-đà-la,84 cao ba ngàn do-tuần, ngang dọc ba ngàn do-tuần, ranh giới không hạn định, nhiều màu sắc xen lẫn, do bảy báu tạo thành, do nhân duyên này nên có núi Ni-lânđà-la.[4]

Sau đó, có cuồng phong nổi lên, thổi đám bọt nước lớn, đẩy ra khỏi núi Nilân-đà-la không xa, tự nhiên biến thành núi Tỳ-ni-đà, cao một ngàn hai trăm do-tuần, ngang dọc một ngàn hai trăm do-tuần, ranh giới không hạn định, nhiều màu sắc xen lẫn, do bảy báu tạo thành, do nhân duyên này nên có núi Tỳ-ni-đà.

Lại có cuồng phong nổi lên, thổi đám bọt nước lớn, đẩy ra khỏi núi Tỳ-ni-đà không xa, tự nhiên tạo thành núi Kim Cang Luân, cao ba trăm do-tuần, ngang dọc ba trăm do-tuần, ranh giới không hạn định, nhiều màu sắc xen lẫn, do bảy báu tạo thành, do nhân duyên này nên có núi Kim Cang Luân.

Vì sao có một cung điện mặt trăng, bảy cung điện mặt trời? Vì một thời gian sau, có cuồng phong nổi lên, thổi đám bọt nước lớn, tự nhiên tạo thành một cung điện mặt trăng, bảy cung điện mặt trời, nhiều màu sắc xen lẫn, do bảy báu tạo thành, thế nhưng bị gió dữ thổi ngược về lại chỗ cũ, do nhân duyên này nên có cung điện mặt trời, mặt trăng.

Về sau, có cuồng phong nổi lên, thổi đám bọt nước lớn, tự nhiên tạo thành bốn châu thiên hạ và tám vạn thiên hạ khác, do nhân duyên này mà có bốn châu thiên hạ và tám vạn thiên hạ khác.

Sau đó, lại có cuồng phong nổi lên, thổi đám bọt nước lớn quanh bốn châu thiên hạ và tám vạn thiên hạ, tự nhiên tạo thành núi Đại Kim Cang Luân cao mười sáu vạn tám ngàn do-tuần, ngang dọc mười sáu vạn tám ngàn do-tuần, ranh giới vô hạn, kim cang rắn chắc, không thể hủy hoại, do nhân duyên này nên có núi Đại Kim Cang Luân.

Trải qua thời gian rất lâu về sau, tự nhiên có mây giăng phủ kín bầu trời, rồi tuôn trận mưa lớn khắp nơi, giọt nước mưa to bằng bánh xe, nước mưa tràn ngập, nhấn chìm bốn châu thiên hạ và núi Tu-di... Sau đó, cuồng phong thổi xoáy đất tạo thành hầm hố lớn, nước rút hết vào hầm, từ đó trở thành biển, do nhân duyên này nên có bốn biển nước lớn. 

Có ba nhân duyên khiến nước biển mặn chát. Thế nào là ba?

Thứ nhất, mây tự nhiên giăng khắp hư không, phủ đến cõi trời Quang Âm, rồi tuôn trận mưa khắp nơi, tẩy rửa cung trời, tẩy sạch thiên hạ, từ cung trời Phạm-ca-di, cung trời Tha Hóa Tự Tại, xuống đến cung trời Diệm-ma, bốn châu thiên hạ, tám vạn thiên hạ, các núi, núi lớn và núi chúa Tu-di thảy đều được rửa sạch. Tất cả các thứ nước nhiễm ô, mặn chát và bất tịnh trong tất cả các cõi ấy đều chảy vào biển cả rồi hợp thành một vị, nên nước biển thuần vị mặn.

Thứ hai, thuở xưa có vị đại Tiên niệm chú vào nước biển, khiến nước biển luôn mặn chát, không ai uống được, nên nước biển luôn mặn chát.

Thứ ba, trong biển cả kia có nhiều chúng sanh cư trú, thân thể cao lớn, hoặc một trăm do-tuần, hai trăm do-tuần cho đến bảy trăm do-tuần, chúng thở ra, hít vào, đại tiểu tiện trong đó, nên nước biển mặn chát.

Đó là nạn lửa.

[0139c15] Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

– Thế nào là nạn nước? Khi nạn nước dấy lên, con người ở thế gian này đều thực hành Chánh pháp, có chánh kiến, không tà kiến, tu tập mười hạnh lành. Sau khi tu tập hạnh lành, lúc ấy, có người chứng được Thiền thứ ba, không có hỷ, liền bay lên không trung, trú vào cõi Thánh nhân, cõi trời và cõi Phạm rồi lớn tiếng nói rằng:

“Các Hiền giả! Nên biết hạnh phúc của Thiền thứ ba là không có hỷ! Hạnh phúc của Thiền thứ ba là không có hỷ!”

Những người ở thế gian nghe được lời này, liền ngước lên trời mà nói rằng:

“Lành thay! Lành thay! Xin hãy chỉ bày cho tôi phương pháp tu tập của Thiền thứ ba là không có hỷ.”

Khi ấy, trên không trung nghe ở thế gian nói lời như vậy rồi, vị ấy liền diễn nói phương pháp tu tập của Thiền thứ ba là không có hỷ. Sau khi nghe pháp xong, người thế gian này liền thực hành phương pháp tu tập của Thiền thứ ba, sau khi qua đời, được sanh lên cõi trời Biến Tịnh.

Bấy giờ, có chúng sanh ở địa ngục dứt sạch tội, sau khi mạng chung thì sanh vào cõi người. Họ lại tu tập theo Thiền thứ ba, khi qua đời, được sanh lên cõi trời Biến Tịnh. Các loài chúng sanh như súc sanh, ngạ quỷ, a-tu-la, Tứ Thiên Vương, trời Đao-lợi, trời Diệm-ma, trời Đâu-suất, trời Hóa Tự Tại, trời Tha Hóa Tự Tại, Phạm thiên và trời Quang Âm, sau khi qua đời đều sanh trở lại cõi người, rồi tu tập Thiền thứ ba, khi thân hoại mạng chung ở cõi người thì được sanh về cõi trời Biến Tịnh. Do nhân duyên này nên cõi địa ngục chấm dứt và các cõi súc sanh, ngạ quỷ, a-tu-la, Tứ Thiên Vương,... cho đến cõi trời Quang Âm, thảy đều diệt hết. Ngay lúc ấy, trước tiên là đường địa ngục chấm dứt, kế đến súc sanh chấm dứt, súc sanh chấm dứt rồi đến ngạ quỷ chấm dứt, ngạ quỷ đã chấm dứt rồi đến a-tu-la chấm dứt, a-tu-la chấm dứt rồi đến Tứ Thiên Vương chấm dứt, Tứ Thiên Vương chấm dứt rồi đến trời Đao-lợi chấm dứt, trời Đaolợi chấm dứt rồi đến trời Diệm-ma chấm dứt, trời Diệm-ma chấm dứt rồi đến trời Đâu-suất chấm dứt, trời Đâu-suất chấm dứt rồi đến trời Hóa Tự Tại chấm dứt, trời Hóa Tự Tại chấm dứt rồi đến trời Tha Hóa Tự Tại chấm dứt, trời Tha Hóa Tự Tại chấm dứt rồi đến trời Quang Âm chấm dứt, trời Quang Âm chấm dứt rồi, cuối cùng loài người hoàn toàn hết sạch. Sau khi loài người hết sạch, thế gian này bị hủy diệt thì tai kiếp được hình thành.

[0140a09] Trải qua thời gian rất lâu, có đám mây đen lớn nổi lên dữ dội, giăng phủ đến trời Biến Tịnh, rồi tuôn trận mưa lớn khắp nơi, mưa toàn nước nóng, nước sôi sùng sục, đun nấu cõi trời, khiến cho cung điện chư thiên thảy đều tiêu hủy, không sót lại gì. Giống như ném miếng bơ vào trong lửa, phút chốc tan chảy hết, không còn lại gì, cung trời Quang Âm cũng lại như vậy.

Do đó nên biết, tất cả các hành vô thường, là pháp biến đổi, hư hoại, không đáng nương tựa. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm chán, hãy nên tìm cầu con đường giải thoát, vượt khỏi thế gian.

Về sau, nước mưa tràn ngập đến cung trời Phạm-ca-di, làm tan chảy hết không sót lại gì. Giống như ném miếng bơ vào trong lửa, phút chốc tan chảy hết không còn lại gì, cung trời Phạm-ca-di cũng lại như vậy.

Sau đó, nước mưa tràn ngập đến cung trời Hóa Tự Tại, trời Tha Hóa Tự Tại, trời Đâu-suất và trời Diệm-ma thảy đều bị tan chảy hết không sót lại gì. Giống như ném miếng bơ vào trong lửa, phút chốc tan chảy hết không còn lại gì, các cung trời ấy cũng lại như vậy.

Sau đó, nước mưa tràn ngập đến bốn châu thiên hạ và tám vạn thiên hạ cùng các núi, núi lớn, núi chúa Tu-di thảy đều bị tan chảy hết không sót lại gì. Giống như ném miếng bơ vào trong lửa, phút chốc tan chảy hết không còn lại gì, các cung trời ấy cũng lại như vậy.

Do đó nên biết, tất cả các hành vô thường, là pháp biến đổi, hư hoại, không đáng nương tựa. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm chán, hãy nên tìm cầu con đường giải thoát, vượt khỏi thế gian.

Sau đó, nước mưa nung nấu cả đại địa không còn sót lại gì, nước trong lòng đất cũng cạn khô, gió dưới mặt nước cũng dừng. Do đó nên biết, tất cả các hành vô thường, là pháp biến đổi, hư hoại, không đáng nương tựa. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm chán, hãy nên tìm cầu con đường giải thoát, vượt khỏi thế gian.

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

– Cung trời Biến Tịnh bị nung chảy tiêu tan hết. Ai sẽ tin điều này? Chỉ có ai nhìn thấy mới tự biết mà thôi. Cung trời Phạm-ca-di bị nung chảy tiêu tan hết,... cho đến nước trong lòng đất cũng cạn khô, gió dưới mặt nước cũng dừng.

Ai sẽ tin điều này? Chỉ có ai nhìn thấy mới tự biết mà thôi.

Đó là nạn nước.

[0140b04] Thế nào là sự khôi phục sau nạn nước? Trải qua thời gian rất lâu về sau, có đám mây đen lớn giăng phủ khắp cả hư không, phủ đến cõi trời Biến Tịnh, rồi tuôn trận mưa khắp nơi, giọt mưa lớn như bánh xe, mưa như thế trải qua vô số trăm ngàn vạn năm, nước mưa dâng cao đến cõi trời Biến Tịnh. Lúc đó, có bốn ngọn gió lớn giữ mực nước lại. Bốn ngọn gió đó là Trụ phong, Trì phong, Bất Động và Kiên Cố. Sau đó, nước mưa giảm dần xuống vô số trăm ngàn do-tuần, bốn bề có ngọn gió lớn tên là Tăng-già dấy lên, thổi đến khuấy động mặt nước, tạo thành sóng lớn, nổi bọt sóng kết tụ lại, rồi ngọn gió thổi đám bọt sóng bay khỏi mặt nước, văng lên ở giữa hư không, tự nhiên tạo thành cung trời Quang Âm, được trang trí bằng bảy báu, do nhân duyên này mà có cung trời Quang Âm.

Rồi nước mưa rút xuống vô số trăm ngàn do-tuần, lại bị ngọn gió Tăng-già thổi đến, khuấy động mặt nước, tạo thành sóng lớn, bọt sóng kết tụ lại, rồi ngọn gió  thổi đám bọt sóng bay khỏi mặt nước, văng lên hư không, tự nhiên tạo thành cung trời Phạm-ca-di, được trang trí bằng bảy báu. Cứ như vậy, tuần tự cho đến nước biển thuần một vị mặn, cũng như khi nạn lửa khôi phục.

Đó là nạn nước.

Đức Phật bảo:

– Này Tỳ-kheo! Thế nào là nạn gió? Khi nạn gió dấy lên, con người ở thế gian này đều thực hành Chánh pháp, có chánh kiến, không có tà kiến, tu tập mười hạnh lành. Khi thực hành pháp lành rồi, có người chứng được Thiền thứ tư với xả và niệm thanh tịnh, liền bay lên không trung, an trú vào cõi Thánh, cõi chư thiên và cõi Phạm rồi lớn tiếng nói rằng:

“Các Hiền giả! Hạnh phúc của Thiền thứ tư là xả và niệm thanh tịnh! Hạnh phúc của Thiền thứ tư là xả và niệm thanh tịnh!”

Lúc ấy, người ở thế gian nghe những lời này, liền ngước lên trời nói với họ rằng:

“Lành thay! Lành thay! Xin hãy chỉ bày cho tôi phương pháp tu tập của Thiền thứ tư với xả và niệm thanh tịnh.”

Bấy giờ, nghe ở thế gian nói lời như vậy rồi, người trên hư không liền dạy phương pháp tu tập của Thiền thứ tư với xả và niệm thanh tịnh. Sau khi nghe giảng xong, người ở thế gian liền thực hành theo phương pháp tu tập của Thiền thứ tư với xả và niệm thanh tịnh, nên sau khi mạng chung được sanh lên cõi trời Quả Thật.

Bấy giờ, chúng sanh ở địa ngục dứt sạch tội, sau khi mạng chung liền sanh trở lại cõi người rồi tiếp tục tu Thiền thứ tư, khi qua đời ở đây liền được sanh lên cõi trời Quả Thật. Các loài chúng sanh trong cõi súc sanh, ngạ quỷ, a-tu-la, Tứ Thiên Vương cho đến cõi trời Biến Tịnh, sau khi thân hoại mạng chung, sanh trở lại cõi người, tiếp tục tu Thiền thứ tư, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên cõi trời Quả Thật. Do nhân duyên này mà cõi địa ngục chấm dứt, các cõi súc sanh, ngạ quỷ, a-tu-la, Tứ Thiên Vương,... cho đến cõi trời Biến Tịnh thảy đều chấm dứt.

Lúc ấy, trước tiên cõi địa ngục chấm dứt rồi đến cõi súc sanh chấm dứt, loài súc sanh chấm dứt rồi đến ngạ quỷ chấm dứt, ngạ quỷ chấm dứt rồi đến a-tu-la chấm dứt, a-tu-la chấm dứt rồi đến Tứ Thiên Vương chấm dứt, Tứ Thiên Vương chấm dứt rồi,... lần lượt như thế cho đến trời Biến Tịnh chấm dứt, trời Biến Tịnh chấm dứt rồi, cuối cùng loài người cũng không còn. Sau khi loài người hết sạch, thế gian này bị hủy diệt thì tai kiếp được hình thành.

Trải qua thời gian rất lâu về sau, có ngọn gió lớn khởi lên, tên là Đại Tănggià, thổi cho đến trời Quả Thật. Gió thổi khắp bốn phía, thổi cung trời Biến Tịnh, cung trời Quang Âm, khiến các cung điện va chạm nhau rồi nát vụn như tro bụi. Giống như lực sĩ cầm hai chày đồng đập vào nhau thì nát vụn không còn gì, hai cung điện va chạm nhau cũng lại như thế.

Do đó nên biết, tất cả các hành vô thường, là pháp biến đổi, hư hoại, không đáng nương tựa. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm chán, hãy nên tìm cầu con đường giải thoát, vượt khỏi thế gian.

[0140c12] Sau đó, ngọn gió này thổi đến các cung điện trời Phạm-ca-di, cung điện trời Tha Hóa Tự Tại, khiến các cung điện va chạm vào nhau, nát vụn như tro bụi, không còn lại gì. Giống như lực sĩ cầm hai chày đồng đập vào nhau, làm nát vụn không còn lại gì, hai cung điện va chạm nhau cũng lại như thế. Do đó nên biết, tất cả các hành vô thường, là pháp biến đổi, hư hoại, không đáng nương tựa. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm chán, hãy nên tìm cầu con đường giải thoát, vượt khỏi thế gian.

Về sau, ngọn gió này thổi đến các cung điện Hóa Tự Tại, cung điện trời Đâu-suất, cung điện trời Diệm-ma, khiến các cung điện va chạm vào nhau, nát vụn như tro bụi, không còn lại gì. Giống như lực sĩ cầm hai chày đồng đập vào nhau, làm nát vụn không còn lại gì, các cung điện va chạm nhau cũng lại như thế. Do đó nên biết, tất cả các hành vô thường, là pháp biến đổi, hư hoại, không đáng nương tựa. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm chán, hãy nên tìm cầu con đường giải thoát, vượt khỏi thế gian.

Sau đó, ngọn gió này lại thổi bay cả bốn châu thiên hạ và tám vạn thiên hạ, cùng các núi, núi lớn, núi chúa Tu-di, rồi đem đặt giữa hư không, cao trăm ngàn do-tuần, khiến các ngọn núi va chạm nhau, nát vụn như tro bụi. Giống như lực sĩ tay cầm nắm trấu nhẹ rải lên không trung, bốn châu thiên hạ, núi Tu-di và các ngọn núi kia đều vỡ vụn, phân tán ra cũng lại như vậy. Do đó nên biết, tất cả các hành vô thường, là pháp biến đổi, hư hoại, không đáng nương tựa. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm chán, hãy nên tìm cầu con đường giải thoát, vượt khỏi thế gian.

Sau đó, cơn gió lớn này thổi tan đại địa, nước trong lòng đất khô cạn, gió dưới mặt nước cũng dừng. Do đó nên biết, tất cả các hành vô thường, là pháp biến đổi, hư hoại, không đáng nương tựa. Các pháp hữu vi rất đáng nhàm chán, hãy nên tìm cầu con đường giải thoát, vượt khỏi thế gian.

[0141a02] Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

– Hai cung trời Biến Tịnh và cung trời Quang Âm va chạm vào nhau, nát vụn như tro bụi. Ai sẽ tin điều này? Chỉ có người nào nhìn thấy mới biết được mà thôi. Như thế, cho đến nước trong lòng đất khô cạn, gió bên dưới nước cũng dừng. Ai sẽ tin điều này? Chỉ có người nào nhìn thấy thì mới tin được mà thôi.

Đó là nạn gió.

Thế nào là sự khôi phục sau nạn gió? Trải qua thời gian rất lâu về sau, có đám mây đen lớn giăng phủ khắp hư không, giăng đến cõi trời Quả Thật rồi tuôn trận mưa lớn, giọt nước mưa to như bánh xe, mưa liên tục như thế vô số trăm ngàn vạn năm, nước mưa dâng mãi cho đến trời Quả Thật. Lúc đó, có bốn ngọn gió giữ mực nước lại. Bốn ngọn gió ấy là Trụ phong, Trì phong, Bất Động và Kiên Cố. Sau đó, mực nước dần dần giảm xuống vô số trăm ngàn do-tuần, bốn phía mặt nước có ngọn gió lớn tên là Tăng-già dấy lên, thổi đến khuấy động mặt nước, tạo thành sóng dữ, nổi bọt sóng kết tụ lại, rồi gió thổi bọt sóng văng khỏi mặt nước, bay lên hư không, tự nhiên tạo thành cung trời Biến Tịnh, màu sắc đan xen lẫn nhau, do bảy báu tạo thành, do nhân duyên đó nên có cung trời Biến Tịnh.

Mực nước ấy giảm xuống vô số trăm ngàn do-tuần, ngọn gió Tăng-già kia thổi đến khuấy động mặt nước, tạo thành sóng dữ, nổi bọt sóng kết tụ lại, rồi gió thổi bọt sóng văng khỏi mặt nước, bay lên hư không, tự nhiên tạo thành cung trời Quang Âm, có nhiều màu đan xen lẫn nhau, do bảy báu tạo thành,... cho đến nước biển thuần một vị mặn, cũng như khi nạn lửa khôi phục.

Đó là nạn gió.

Đó là ba tai họa và ba lần khôi phục như vậy.

 

Chú thích:

[1] Nguyên tác: Tam tai phẩm 三災品 (T.01. 0001.30.9. 0137b01). Tham chiếu: Thất nhật kinh 七日經 (T.01. 0026.8. 0428c07); Tăng. 增 (T.02. 0125.40.1. 0735b20); D. 27, Aggañña Sutta (Kinh Khởi thế nhân bổn); A. 7.62 - IV. 100.

[2] A-bát-nê-lâu (阿般泥樓).

[3] A-bát-ni-lâu (阿般尼樓). 84 Di-lân-đà-la (彌隣陀羅).

[4] Ni-lân-đà-la (尼隣陀羅).

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.