Viện Nghiên Cứu Phật Học

  30. KINH THẾ KÝ

9. PHẨM TAM TAI

 

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Có bốn sự kiện trường cửu, không có hạn lượng, không thể dùng ngày, tháng, năm mà tính được. Bốn sự kiện ấy là gì? Một là hỏa tai ở thế gian dần dần bộc phát, trong khi tiêu hủy thế gian này thì khoảng thời gian để thành lập thế gian khác thật lâu dài, không có hạn lượng, không thể dùng ngày, tháng, năm mà tính được. Hai là sau khi thế gian này tiêu hoại cho đến khi thành hình trở lại thì thế giới có một sự trống không, không có thế gian rất lâu dài, không thể dùng ngày, tháng, năm mà có thể tính được. Ba là khi trời đất bắt đầu thành lập trở lại thì khoảng trung gian đó thật lâu dài, không có thể dùng ngày, tháng, năm mà tính được. Bốn là khi trời đất thành lập xong thì tồn tại lâu dài, không bị tiêu hủy, không thể dùng ngày, tháng, năm mà tính được. Đó là bốn sự kiện lâu dài, không thể dùng ngày, tháng, năm mà tính được.

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Thế gian có ba tai nạn. Ba tai nạn ấy là gì? Một là hỏa tai; hai là thủy tai; ba là phong tai. Có ba cõi trên có ba tai nạn. Ba cõi ấy là gì? Một là Quang Âm thiên; hai là Biến Tịnh thiên; ba là Quả Thật thiên. Nếu khi hỏa tai bộc phát lên đến cõi Quang Âm thiên thì lấy Quang Âm thiên làm giới hạn. Nếu khi thủy tai phát khởi lên đến Biến Tịnh thiên thì lấy cõi Biến Tịnh thiên làm giới hạn. Nếu như phong tai nổi lên đến Quả Thật thiên thì lấy Quả Thật thiên làm giới hạn.

Thế nào là hỏa tai? Nghĩa là khi hỏa tai sắp phát khởi thì có những người ở thế gian này tu hành theo Chánh pháp, có chánh kiến, không điên đảo, tu hành thập thiện. Khi thực hành các pháp ấy thì có người chứng Đệ nhị thiền, tức thời hớn hở, thân bay lên hư không, cộng trú với Thánh, với trời, với Phạm thiên và nói lớn:

“Này chư Hiền, nên biết, không giác, không quán là niềm hoan lạc ở Nhị thiền thiên.”

Bấy giờ, người ở thế gian nghe âm thanh ấy thời liền ngước lên không mà nói với người ấy:

“Lành thay, lành thay! Xin hãy vì tôi mà nói đạo lý của Đệ nhị thiền không giác, không quán!”

Khi ấy, trên hư không người đó nghe xong, liền vì họ mà nói đạo lý của Đệ nhị thiền không giác, không quán. Lúc đó người thế gian khi nghe nói như thế xong liền tu tập Đệ nhị thiền không giác, không quán, rồi sau khi lâm chung được sanh về Quang Âm thiên.

Bấy giờ, chúng sanh ở địa ngục hết tội lỗi thì qua đời, lại sanh vào nhân gian và tu tập Đệ nhị thiền không giác, không quán. Khi qua đời, họ được sanh về Quang Âm thiên. Cho đến loài súc sanh, ngạ quỷ, a-tu-luân, Tứ Thiên Vương, Đao-lợi thiên, Diệm-ma thiên, Hóa Tự Tại thiên, Tha Hóa Tự Tại thiên, Phạm thiên, chúng sanh qua đời và sanh lại nhân gian tu tập pháp Đệ nhị thiền không giác, không quán. Sau khi họ qua đời, được sanh về Quang Âm thiên. Do nhân duyên này nên chúng sanh ở địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, a-tu-luân, cho đến Phạm thiên đều hết. Lúc đó, đầu tiên là địa ngục hết, sau đó súc sanh hết. Súc sanh hết rồi thì ngạ quỷ hết. Ngạ quỷ hết rồi thì a-tu-luân hết. A-tu-luân hết rồi thì Tứ Thiên Vương hết. Tứ Thiên Vương hết rồi thì Đao-lợi thiên hết. Đao-lợi thiên hết rồi thì Diệm-ma thiên hết. Diệm-ma thiên hết rồi thì Đâu-suất thiên hết. Đâu-suất thiên hết rồi thì Hóa Tự Tại thiên hết. Hóa Tự Tại thiên hết rồi thì Tha Hóa Tự Tại thiên hết. Tha Hóa Tự Tại thiên hết rồi thì Phạm thiên hết. Phạm thiên hết rồi thì sau đó loài người hết, không còn một cái gì khác. Khi con người hết, không còn cái gì cả thì thế gian này bắt đầu bị tiêu hoại. Lúc đó thành ra hỏa tai. Sau trời không mưa, các loại lúa mạ, cỏ cây đều bị khô cháy mà chết.

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Do đó nên biết tất cả các hành đều vô thường, biến dịch, hư hoại, không đáng nương tựa. Phàm là các pháp hữu vi thì thật đáng nhàm chán, phải cầu tìm đạo giải thoát, hầu thoát khỏi thế gian này.

Sau đó khá lâu, có một trận gió dữ bộc khởi thổi biển nước lớn. Nước biển với chiều sâu tám mươi bốn ngàn do-tuần bị gió thổi vẹt qua hai bên. Trận gió đem cung điện mặt trời đặt vào lưng chừng núi Tu-di, cách mặt đất bốn vạn hai ngàn do-tuần và để mặt trời giữa nhật đạo. Do đó, thế gian có hai mặt trời xuất hiện. Hai mặt trời xuất hiện khiến cho thế gian này, bao nhiêu sông nhỏ, kênh, rạch, dòng nước nhỏ đều bị khô cạn.

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Do đó nên biết tất cả các hành đều vô thường, biến dịch, hư hoại, không đáng nương tựa. Phàm là các pháp hữu vi thì thật đáng nhàm chán, phải cầu đạo giải thoát, hầu ra khỏi thế gian này.

Sau đó khá lâu, có một trận gió dữ phát sanh. Nước biển với chiều sâu tám vạn bốn ngàn do-tuần, bị trận gió thổi cơn gió đem cung điện mặt trời đặt ở lưng chừng núi Tu-di cách mặt đất bốn vạn hai ngàn do-tuần và để mặt trời giữa nhật đạo. Do đó, thế gian có ba mặt trời xuất hiện. Khi ba mặt trời xuất hiện thì sông Hằng, sông Da-bà-na, sông Bà-la, sông A-di-la-bà-đề, sông A-na-khiếp, sông Tân-đà, sông Cố-xả đều khô cạn, không còn gì cả.

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Do đó nên biết tất cả các hành đều vô thường, biến dịch, hư hoại, không đáng nương tựa. Phàm là các pháp hữu vi thì thật đáng nhàm chán, phải cầu đạo giải thoát, hầu thoát khỏi thế gian này.

Sau đó khá lâu, có một trận gió dữ bộc phát thổi nước biển với chiều sâu tám vạn bốn ngàn do-tuần khiến nước biển vẹt qua hai bên, đem cung điện mặt trời đặt vào lưng chừng núi Tu-di và để vào nhật đạo. Do đó, thế gian có bốn mặt trời xuất hiện. Khi bốn mặt trời xuất hiện thì các ao ở thế gian như ao Thiện Kiến, ao A-nậu-đạt, ao Tứ phương Đà-diên, ao Ưu-bát-la, ao Câu-vật-đầu, ao Phân-đà-lợi ngang dọc năm mươi do-tuần thảy đều khô cạn.

Do đó nên biết các hành đều vô thường, biến dịch, hư hoại, không đáng nương tựa. Phàm là các pháp hữu vi thì thật đáng nhàm chán, phải cầu đạo giải thoát, hầu thoát khỏi thế gian này.

Sau đó khá lâu, có một trận gió dữ phát khởi, thổi nước biển làm vẹt nước qua hai bên, đem cung điện mặt trời đặt vào lưng chừng núi Tu-di và để vào nhật đạo. Do đó, thế gian có năm mặt trời xuất hiện. Khi đã có năm mặt trời thì nước các biển lớn giảm dần từ trăm do-tuần cho đến bảy trăm do-tuần.

Do đó nên biết các hành là vô thường, biến dịch, hư hoại, không đáng nương tựa. Phàm là các pháp hữu vi thì thật đáng nhàm chán, phải cầu đạo giải thoát, hầu thoát khỏi thế gian này.

Bấy giờ, nước biển cả dần dần cạn hết, chỉ còn lại khoảng bảy trăm do-tuần, sáu trăm do-tuần, năm trăm do-tuần, bốn trăm do-tuần, cho đến một trăm do-tuần.

Thế nên phải biết các hành đều vô thường, biến dịch, hư hoại, không đáng nương tựa. Phàm là các pháp hữu vi thì thật đáng nhàm chán. Vậy phải cầu đạo giải thoát, hầu thoát khỏi thế gian này.

Bấy giờ, nước biển giảm dần từ bảy do-tuần, sáu do-tuần, năm do-tuần, cho đến còn một do-tuần.

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Do đó nên biết các hành đều vô thường, biến dịch, hư hoại, không đáng nương tựa. Phàm là các pháp hữu vi thì thật đáng nhàm chán, phải cầu đạo giải thoát, hầu thoát khỏi thế gian này.

Sau đó, nước biển lớn giảm dần đến bảy cây đa-la, sáu cây đa-la, cho đến một cây đa-la.

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Do đó phải biết các hành đều vô thường, biến dịch, hư hoại, không đáng nương tựa. Phàm là các pháp hữu vi thì thật đáng nhàm chán, phải cầu đạo giải thoát, hầu thoát khỏi thế gian này.

Sau đó, nước biển cạn dần, cho đến còn bằng chiều cao của bảy người, sáu người, năm người, bốn người, ba người, hai và một người. Nhẫn đến ngang lưng, ngang đầu gối, ngang bàn chân.

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Do đó nên biết các hành đều vô thường, biến dịch, hư hoại, không đáng nương tựa. Phàm là các pháp hữu vi thì thật đáng nhàm chán, phải cầu đạo giải thoát, hầu thoát khỏi thế gian này.

Sau đó, nước biển cạn dần cũng như cơn mưa vào mùa xuân, rồi như nước trong dấu chân trâu, cho đến hết, không còn quá một ngón tay người.

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Do đó nên biết các hành đều vô thường, biến dịch, hư hoại, không đáng nương tựa. Phàm là các pháp hữu vi thì thật đáng nhàm chán, phải cầu đạo giải thoát, hầu thoát khỏi thế gian này.

Sau đó khá lâu, có một trận gió dữ bộc phát thổi cát đáy biển, sâu tám vạn bốn ngàn do-tuần bay lên nằm trên hai mé bờ, gió đem cung điện mặt trời đặt vào lưng chừng núi Tu-di và ngay nhật đạo. Do đó, thế gian thấy sáu mặt trời xuất hiện. Khi sáu mặt trời đã xuất hiện thì bốn châu thiên hạ và tám vạn thiên hạ khác và các núi, núi lớn, núi chúa Tu-di đều bốc khói cháy tiêu. Cũng như người thợ gốm khi mới bắt đầu đun đồ gốm, lúc sáu mặt trời xuất hiện cũng vậy.

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Do đó nên biết các hành đều vô thường, biến dịch, hư hoại, không đáng nương tựa. Phàm là các pháp hữu vi thì thật đáng nhàm chán, phải cầu đạo giải thoát, hầu thoát khỏi thế gian này.

Sau đó khá lâu thì có một trận gió dữ bộc phát thổi cát đáy biển sâu tám mươi bốn ngàn do-tuần, bay lên nằm trên hai mé bờ. Gió đem cung điện mặt trời đặt vào lưng chừng núi Tu-di, và để vào nhật đạo. Do đó, thế gian thấy có bảy mặt trời xuất hiện. Khi đã có bảy mặt trời thì bốn châu thiên hạ, tám vạn thiên hạ khác và các núi, núi lớn, núi chúa Tu-di thảy đều bừng cháy. Cũng như người thợ gốm đốt lửa trong lò, lúc bảy mặt trời xuất hiện cũng vậy.

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Do đó nên biết tất cả các hành đều vô thường, biến dịch, hư hoại, không đáng nương tựa. Phàm là các pháp hữu vi thì thật đáng nhàm chán, phải cầu đạo giải thoát, hầu thoát khỏi thế gian này.

Khi mà bốn châu thiên hạ và tám vạn thiên hạ khác và các núi, núi Tu-di thảy đều tiêu rụi, đồng thời cung điện Tứ Thiên Vương, Đao-lợi thiên, Diệm-ma thiên, Hóa Tự Tại thiên, Tha Hóa Tự Tại thiên và cung điện cũng đều cháy cả.

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Do đó nên biết tất cả các hành đều vô thường, biến dịch, hư hoại, không đáng nương tựa. Phàm là các pháp hữu vi thì thật đáng nhàm chán, phải cầu đạo giải thoát, hầu thoát khỏi thế gian này.

Bấy giờ, bốn thiên hạ cho đến Phạm thiên đã bị lửa đốt cháy tiêu tan. Gió thổi lửa cháy lên đến Quang Âm thiên, các vị thiên tử mới sanh ở cõi đó trông thấy lửa cháy lấy làm lo sợ và nói: “Ôi! Vật gì đây?”

Các vị thiên sanh trước nói với các vị thiên sanh sau: “Đừng sợ! Lửa ấy chỉ đến ngang đây là dừng lại.” Do vì chỉ nghĩ đến lửa trước mặt nên gọi là Quang Niệm thiên.

Khi bốn thiên hạ cho đến Phạm thiên, lửa đã đốt cháy tiêu tan thì núi chúa Tu-di dần dần đổ nát từ một trăm do-tuần, hai trăm do-tuần, cho đến bảy trăm do-tuần.

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Do đó nên biết tất cả các hành đều vô thường, biến dịch, hư hoại, không đáng nương tựa. Phàm là các pháp hữu vi thì thật đáng nhàm chán, phải cầu đạo giải thoát, hầu thoát khỏi thế gian này.

Bấy giờ, bốn thiên hạ cho đến Phạm thiên đã bị đốt cháy tiêu tan, sau đó địa đại và núi Tu-di đều cháy tiêu chẳng còn gì.

Do đó nên biết, tất cả các hành đều vô thường, biến dịch, hư hoại, không đáng nương tựa. Phàm là các pháp hữu vi thì thật đáng nhàm chán, phải cầu đạo giải thoát, hầu thoát khỏi thế gian này.

Khi lửa thiêu cháy hết đất thì tất cả nước dưới đất hết, gió dưới nước hết.

Do đó nên biết các hành đều vô thường, biến dịch, hư hoại, không đáng nương tựa. Phàm là các pháp hữu vi thì thật đáng nhàm chán, phải cầu đạo giải thoát, hầu thoát khỏi thế gian này.

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Khi hỏa tai khởi lên thì trời không mưa nữa. Trăm giống lúa, cỏ cây đều chết khô. Ai mà tin được việc ấy? Chỉ có người thấy mới tự biết mà thôi. Cứ như thế cho đến nước dưới đất hết, gió dưới nước hết. Ai tin việc đó? Chỉ có người thấy mới tự biết mà thôi. Đó là hỏa tai.

Thế nào là hỏa kiếp?

Sau đó khá lâu, bỗng có vầng mây đen ở trong hư không lên đến Quang Âm thiên làm cho mưa khắp nơi, hạt mưa to như bánh xe, mưa như thế cho đến trăm ngàn năm, mực nước tăng dần dần lên, cao đến không biết bao nhiêu là trăm ngàn do-tuần, cho đến Quang Âm thiên. Lúc đó, có bốn trận gió lớn bộc phát làm mực nước dừng lại. Bốn trận gió ấy là gì? Một là Trụ phong, hai là Trì phong, ba là Bất Động phong, bốn là Kiên Cố phong. Sau đó, mực nước giảm khoảng một trăm ngàn do-tuần, giảm vô số trăm ngàn vạn do-tuần. Nước ấy bốn bề đều có trận gió lớn tên là Tăng-già khởi lên, gió thổi làm nước động mà nổi sóng, bọt nước tích tụ lại. Gió thổi làm bọt nước rời khỏi vị trí, bay lên trên hư không, tự nhiên rắn chắc, biến thành thiên cung được trang trí bằng bảy báu. Do nhân duyên này mà có cung Phạm-ca-di thiên. Rồi mực nước giảm xuống một trăm ngàn do-tuần cho đến vô số trăm ngàn vạn do-tuần, bốn bề nước có trận gió lớn tên là Tăng-già khởi lên. Gió thổi làm cho nước động mà nổi sóng, bọt nước tích tụ lại. Gió thổi làm bọt nước rời khỏi vị trí, bay lên trên hư không, tự nhiên rắn chắc, biến thành thiên cung được trang trí bằng bảy báu. Do nhân duyên này mà có cung Tha Hóa Tự Tại thiên. Rồi mực nước giảm dần cho đến vô số trăm ngàn vạn do-tuần. Bốn bề nước có trận gió lớn tên là Tăng-già khởi lên. Gió thổi làm cho nước động mà nổi sóng, bọt nước tích tụ lại. Gió thổi làm bọt nước rời khỏi vị trí, bay lên trên hư không, tự nhiên rắn chắc, biến thành thiên cung, được trang trí bằng bảy báu. Do nhân duyên này mà có cung Hóa Tự Tại thiên. Rồi mực nước giảm dần cho đến vô số trăm ngàn do-tuần. Có trận gió Tăng-già thổi làm cho nước động mà nổi sóng, làm bọt nước tích tụ lại. Gió thổi làm bọt nước rời khỏi vị trí, bay lên trên hư không, tự nhiên rắn chắc, biến thành thiên cung được trang trí bằng bảy báu. Do nhân duyên này mà có cung Đâu-suất thiên.

Rồi mực nước giảm dần cho đến vô số trăm ngàn do-tuần.

Có trận gió Tăng-già thổi làm cho nước động mà nổi sóng, bọt nước tích tụ lại. Gió thổi làm bọt nước rời khỏi vị trí, bay lên hư không, tự nhiên rắn chắc và biến thành thiên cung. Do nhân duyên này mà có cung Diệm-ma thiên.

Rồi mực nước giảm xuống dần cho đến vô số trăm ngàn do-tuần.

Trên mặt nước có bọt, sâu sáu mươi vạn tám ngàn do-tuần, bốn bề không có giới hạn; ví như các dòng nước ở thế gian này, trên nước có bọt, đây cũng như thế.

Vì sao có núi Tu-di?

Vì có trận gió lốc nổi lên, thổi bọt nước ấy chụm lại mà thành núi Tu-di cao mười sáu vạn tám ngàn do-tuần, rộng tám mươi bốn ngàn do-tuần, do bốn báu tạo thành, đó là vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly.

Vì sao có bốn cung điện a-tu-luân?

Sau khi gió xoáy thổi vào nước lớn, các bọt nước bay lên ở bốn bên núi Tu-di tạo thành các cung điện lớn, mỗi cung điện ngang dọc tám vạn do-tuần, tự nhiên biến thành cung điện bảy báu.

Vì sao có cung điện Tứ Thiên Vương?

Vì sau đó cơn gió lốc thổi các bọt của biển lớn bay lên lưng chừng núi Tu-di, cao tám vạn hai ngàn do-tuần, tự nhiên biến thành cung điện bằng bảy báu. Vì thế nên gọi là cung điện Tứ Thiên Vương.

Vì sao có cung điện Đao-lợi thiên?

Vì sau đó có cơn gió lốc thổi các bọt nước biển bay lên trên đỉnh núi Tu-di rồi tự nhiên biến thành cung điện bằng bảy báu.

Vì sao có núi Già-đà-la? Vì sau đó có cơn gió lốc thổi các bọt nước biển cách núi Tu-di không xa, tự nhiên biến thành núi báu, chân núi ăn sâu vào lòng đất bốn vạn hai ngàn do-tuần, ngang dọc rộng bốn mươi hai ngàn do-tuần, giáp vòng núi bao la gồm có những màu sắc hỗn hợp do bảy báu tạo thành. Do nhân duyên đó nên có núi Già-đà-la.

Vì lý do gì lại có núi Y-sa? Vì sau đó, gió lốc nổi lên thổi các bọt nước biển cách núi Già-đà-la không xa rồi tự nhiên biến thành núi Y-sa, cao hai vạn một ngàn do-tuần, ngang dọc rộng hai vạn một ngàn do-tuần, giáp vòng núi bao la có màu sắc xen kẽ, do bảy báu tạo thành. Do nhân duyên đó nên có núi Y-sa.

Sau đó, có trận gió lốc nổi lên, thổi bọt nước biển cách núi Y-sa không xa, tự nhiên biến thành núi Thọ-thần-đà-la, cao một vạn hai ngàn do-tuần, ngang dọc rộng một vạn hai ngàn do-tuần, giáp vòng núi bao la có màu sắc xen kẽ do bảy báu tạo thành. Vì nhân duyên đó nên có núi Thọ-thần-đà-la.

Sau đó, có trận gió lốc nổi lên thổi bọt nước biển cách núi Thọ-thần-đà-la không xa, tự nhiên biến thành núi A-bát-nê-lâu, cao sáu ngàn do-tuần, ngang dọc sáu ngàn do-tuần, giáp vòng núi bao la có màu sắc xen kẽ do bảy báu tạo thành. Vì nhân duyên đó nên có núi A-bát-nê-lâu.

Sau đó, có trận gió lốc nổi lên thổi bọt nước biển, cách núi A-bát-nê-lâu không xa, tự nhiên biến thành núi Ni-lân-đà-la, cao ba ngàn do-tuần, ngang dọc rộng ba ngàn do-tuần, giáp vòng núi bao la có màu sắc xen kẽ do bảy báu tạo thành. Vì nhân duyên đó nên có núi Ni-lân-đà-la.

Sau đó, có trận gió lốc thổi bọt nước biển, cách núi Ni-lân-đà-la không xa, tự nhiên biến thành núi Tỳ-ni-đà cao một ngàn hai trăm do-tuần, ngang dọc rộng một ngàn hai trăm do-tuần, giáp vòng núi bao la do bảy báu tạo thành, màu sắc xen kẽ. Vì nhân duyên đó nên có núi Tỳ-ni-đà.

Sau đó, có trận gió lốc thổi các bọt nước biển, cách núi Tỳ-ni-đà không xa, tự nhiên biến thành núi Kim Cang Luân, cao ba trăm do-tuần, ngang dọc rộng ba trăm do-tuần, giáp vòng núi bao la có màu sắc xen kẽ do bảy báu tạo thành. Vì lý do đó nên có núi Kim Cang Luân.

Vì sao có một mặt trăng và bảy mặt trời? Sau đó có cơn gió lốc thổi các bọt nước biển, tự nhiên biến thành một cung điện mặt trăng, bảy cung điện mặt trời, có màu sắc xen kẽ do bảy báu tạo thành, rồi bị gió dữ thổi trở lại vị trí cũ. Vì nhân duyên đó nên có cung điện mặt trời, mặt trăng.

Sau đó, có trận gió lớn thổi bọt biển, tự nhiên biến thành bốn thiên hạ và tám vạn thiên hạ khác. Vì lý do đó mà có bốn thiên hạ và tám vạn thiên hạ khác.

Sau đó, có trận gió lốc thổi các bọt nước ở trên mặt của bốn châu thiên hạ và tám vạn thiên hạ khác, tự nhiên biến thành núi Đại Kim Cang Luân cao mười sáu vạn tám ngàn do-tuần, ngang dọc rộng mười sáu vạn tám ngàn do-tuần, giáp vòng núi bao la do kim cang rắn chắc tạo thành, không thể phá hoại. Vì nhân duyên đó nên có núi Đại Kim Cang Luân.

Sau đó, một thời gian khá lâu thì tự nhiên có mây khắp cả hư không, mưa lớn đổ khắp nơi, hạt mưa lớn như bánh xe, mực nước lan tràn, mênh mông làm chìm đắm bốn châu thiên hạ và núi Tu-di…

Sau đó, có cơn gió lốc thổi đại địa làm thành hố lớn và nước rút hết vào trong đó, nhân đấy mà có biển. Vì nhân duyên đó nên có nước bốn biển.

Có ba nhân duyên khiến nước biển mặn chát. Ba nhân duyên ấy là gì? Một là có mây tự nhiên bao phủ cả hư không cho đến Quang Âm thiên, mưa khắp mọi nơi, rửa sạch thiên cung, quét sạch thiên hạ. Từ Phạm-ca-di thiên cung, Tha Hóa Tự Tại thiên cung, xuống đến Diệm-ma thiên cung, bốn thiên hạ và tám vạn thiên hạ khác cùng các núi, núi lớn, núi chúa Tu-di cũng đều bị quét sạch. Trong đó, có những nơi gồm có những chất mặn đắng, bất tịnh đều chảy vào biển, hợp thành một vị. Cho nên nước biển có vị mặn. Hai là thuở xưa, có vị đại tiên niệm chú làm cho nước biển mặn mãi khiến người ta không uống được. Cho nên nước biển mặn. Ba là trong biển cả có rất nhiều loại chúng sanh ở, thân vừa to, vừa dài, hoặc trăm do-tuần, hai trăm do-tuần, cho đến bảy trăm do-tuần, hô hấp bài tiết ở trong đó. Cho nên nước biển mặn. Đó là hỏa tai.

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Thế nào là thủy tai? Khi thủy tai phát khởi thì con người ở thế gian này thực hành theo Chánh pháp, có chánh kiến, không tà kiến, tu thập thiện. Sau khi đã thực hành các thiện hạnh thì có người đắc Đệ tam thiền vô hỷ, nhảy lên hư không cộng trú với Thánh, trời, Phạm thiên và nói lớn:

– “Này chư Hiền, nên biết, Đệ tam thiền vô hỷ là vui! Đệ tam thiền vô hỷ là vui!”

Khi những người ở thế gian nghe âm thanh ấy, liền ngước đầu lên hư không mà nói:
– “Lành thay, lành thay! Cúi xin ngài hãy vì tôi mà nói pháp Đệ tam thiền vô hỷ!”

Khi ấy, người trên hư không nghe như thế, liền vì họ mà nói về Đệ tam thiền vô hỷ. Các người thế gian sau khi nghe xong bèn tu Đệ tam thiền. Rồi sau khi mạng chung được sanh về Biến Tịnh thiên.

Bấy giờ, các chúng sanh ở địa ngục đã hết tội lỗi, bèn sanh vào nhân gian mà tu Đệ tam thiền. Sau khi mạng chung được sanh về Biến Tịnh thiên. Các loài súc sanh, ngạ quỷ, a-tu-luân, Tứ Thiên Vương, Đao-lợi thiên, Diệm-ma thiên, Đâu-suất thiên, Hóa Tự Tại thiên, Tha Hóa Tự Tại thiên, Phạm thiên, Quang Âm thiên, sau khi mạng chung lại sanh vào nhân gian tu Đệ tam thiền. Sau khi mạng chung được sanh về cõi Biến Tịnh thiên. Do nhân duyên đó mà chúng sanh ở địa ngục đều hết. Chúng sanh thuộc súc sanh, ngạ quỷ, a-tu-luân, Tứ Thiên Vương cho đến Quang Âm thiên đều hết.

Trong khi đó, trước tiên là chúng sanh ở địa ngục hết, sau đó súc sanh hết. Súc sanh hết thì đến ngạ quỷ hết; ngạ quỷ hết thì đến a-tu-luân hết; a-tu-luân hết thì đến Tứ Thiên Vương hết; Tứ Thiên Vương hết thì đến Đao-lợi thiên hết; Đao-lợi thiên hết thì đến Diệm-ma thiên hết; Diệm-ma thiên hết thì đến Đâu-suất thiên hết; Đâu-suất thiên hết thì đến Hóa Tự Tại thiên hết; Hóa Tự Tại thiên hết thì đến Tha Hóa Tự Tại thiên hết; Tha Hóa Tự Tại thiên hết thì đến Quang Âm thiên hết; Quang Âm thiên hết thì đến người hết, không còn gì. Thế gian này tiêu hoại mà thành ra hỏa tai.

Sau đó khá lâu, có vầng mây đen bộc khởi, lên cho đến Biến Tịnh thiên và mưa khắp cả pháp giới, mưa toàn nước nóng, nước nóng văng lên như mũi tên nóng, nước văng lên đến cung điện chư thiên làm cho cháy rụi, không còn gì cả. Cũng như dầu, bơ bỏ vào trong lửa liền bị cháy tiêu, không còn gì cả; ở cung Quang Âm thiên cũng vậy.

Do đó nên biết rằng tất cả hành đều vô thường, biến dịch, hư hoại, không đáng nương tựa. Phàm là các pháp hữu vi thì thật đáng nhàm chán, phải cầu đạo giải thoát, hầu thoát khỏi thế gian này.

Sau đó, nước mưa tràn ngập cung điện Phạm-ca-di thiên và làm cháy tiêu tan, không còn gì. Cũng như dầu, bơ bỏ vào lửa thì chẳng còn gì cả, cung Phạm-ca-di thiên cũng vậy.

Sau đó, nước mưa tràn ngập cung Hóa Tự Tại, Tha Hóa Tự Tại, Đâu-suất, Diệm-ma thiên. Tất cả đều cháy tiêu, không còn gì. Cũng như dầu, bơ bỏ vào lửa thì chẳng còn gì cả, các thiên cung bị cháy cũng vậy.

Sau đó, nước mưa này tràn ngập bốn thiên hạ và tám vạn thiên hạ khác, cũng như các núi, núi lớn, núi chúa Tu-di, tất cả đều bị cháy rụi, không còn gì cả. Cũng như dầu, bơ bỏ vào lửa thì không còn gì cả, các thứ trên bị cháy tiêu cũng thế.

Do đó nên biết rằng tất cả hành đều vô thường, biến dịch, hư hoại, không đáng nương tựa. Phàm là các pháp hữu vi thì thật đáng nhàm chán, phải cầu đạo giải thoát, hầu thoát khỏi thế gian này.

Sau đó, nước mưa này làm tiêu cả đại địa không còn gì cả. Nước dưới đất hết. Gió dưới nước hết.

Do đó nên biết rằng tất cả hành đều vô thường, biến dịch, hư hoại, không đáng nương tựa. Phàm các pháp hữu vi thật đáng nhàm chán, phải cầu đạo giải thoát, hầu thoát khỏi thế gian này.

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:
– Cung Biến Tịnh thiên bị cháy tiêu tan, ai mà tin được? Chỉ có ai riêng thấy thì tự mình biết. Cung Phạm-ca-di thiên bị cháy tiêu tan, cho đến nước dưới đất hết, gió trong nước hết, ai mà tin được? Chỉ có ai riêng thấy thì tự mình biết. Đó là thủy tai.

Thế nào là thủy tai lần thứ hai? Sau đó, khá lâu thì có vầng mây đen lớn phủ khắp cả hư không, cho đến Biến Tịnh thiên, mưa đổ khắp nơi. Hạt mưa như bánh xe, mưa đến vô số trăm ngàn vạn năm. Nước cao dần dần đến Biến Tịnh thiên thì có bốn ngọn gió chặn đứng lại. Bốn ngọn gió ấy là gì? Một là Trụ phong, hai là Trì phong, ba là Bất Động, bốn là Kiên Cố.

Sau đó nước mưa giảm xuống dần vô số trăm ngàn do-tuần. Bốn bề đều có gió lớn nổi lên, tên là Tăng-già thổi nước dao động, phát sanh sóng, bọt nước kết tụ lại. Gió thổi nước ra khỏi vị trí bay lên hư không, tự nhiên biến thành cung Quang Âm thiên, được trang trí bằng bảy báu. Do nhân duyên đó mà có Quang Âm thiên.

Nước giảm vô số trăm ngàn do-tuần. Cơn gió tên là Tăng-già ấy thổi làm nước động, phát sanh sóng, bọt nước kết tụ lại. Gió thổi nước rời khỏi vị trí lên trên hư không, tự nhiên biến thành cung Phạm-ca-di thiên, được trang trí bằng bảy báu, như thế cho đến nước biển toàn một vị mặn, cũng như trường hợp lúc hỏa tai bộc phát lần thứ hai. Đó là thủy tai.

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:
– Thế nào là phong tai? Khi phong tai khởi lên thì con người ở cõi này đều tu hành theo Chánh pháp, có chánh kiến, không có tà kiến, tu thập thiện. Khi tu hành các thiện hạnh thì có người chứng được Đệ tứ thiền hộ niệm thanh tịnh, bay lên hư không cộng trú với Thánh nhân, trời, Phạm thiên và nói lớn: “Này chư Hiền, Đệ tứ thiền hộ niệm thanh tịnh là vui.”

Bấy giờ, người ở thế gian nghe câu ấy liền nhìn lên hư không và nói: “Lành thay, lành thay! Cúi xin ngài hãy vì tôi mà giảng về con đường Đệ tứ thiền hộ niệm thanh tịnh!” Lúc đó, ở hư không, người ấy bèn vì những người thế gian mà nói con đường Đệ tứ thiền hộ niệm thanh tịnh. Các người thế gian khi nghe giảng xong liền tu hành theo con đường Đệ tứ thiền hộ niệm thanh tịnh. Sau khi mạng chung được sanh về Quả Thật thiên.

Bấy giờ, chúng sanh ở địa ngục đã hết tội lỗi bèn sanh vào nhân gian lại tu Đệ tứ thiền. Sau khi mạng chung được sanh về Quả Thật thiên, cho đến các loài chúng sanh thuộc ngạ quỷ, a-tu-luân, Tứ Thiên Vương cho đến Biến Tịnh thiên, các chúng sanh này sau khi mạng chung được về cõi người, tu Đệ tứ thiền, sau khi mạng chung được sanh về cõi Quả Thật thiên. Do nhân duyên đó mà không còn chúng sanh ở địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, a-tu-luân, Tứ Thiên Vương cho đến Biến Tịnh thiên đều hết.

Bấy giờ, chúng sanh ở địa ngục hết trước rồi đến súc sanh hết; súc sanh hết rồi đến ngạ quỷ hết; ngạ quỷ hết thì đến a-tu-luân hết; a-tu-luân hết thì đến Tứ Thiên Vương hết; Tứ Thiên Vương hết… cứ thế cho đến Biến Tịnh thiên hết; Biến Tịnh thiên hết thì sau đó người hết, không còn ai. Người hết không còn ai cả thì thế gian tiêu hủy.

Sau đó khá lâu có trận gió lớn nổi lên, tên là Đại Tăng-già. Gió thổi đến Quả Thật thiên. Gió nổi dậy bốn bề, thổi cung Biến Tịnh thiên, Quang Âm thiên, làm cho các cung điện va chạm nhau, tan nát như bụi cám. Cũng như người lực sĩ cầm hai chày đồng đập vào nhau mà làm cho tan nát không còn gì, hai cung điện va chạm nhau cũng như thế.

Do đó nên biết rằng tất cả các hành đều vô thường, biến dịch, hư hoại, không đáng nương tựa. Phàm là các pháp hữu vi thì thật đáng nhàm chán, phải cầu đạo giải thoát, hầu thoát khỏi thế gian này.

Sau đó trận gió này thổi đến các cung Phạm-ca-di thiên, Hóa Tự Tại, Tha Hóa Tự Tại làm cho các cung điện va chạm vào nhau tan nát như bụi cám, không còn gì. Ví như lực sĩ cầm hai chày đồng đánh vào nhau, hai cung va chạm vào nhau cũng như thế.

Do đó nên biết rằng tất cả các hành đều vô thường, biến dịch, hư hoại, không đáng nương tựa. Phàm là các pháp hữu vi thì thật đáng nhàm chán, phải cầu đạo giải thoát, hầu thoát khỏi thế gian này.

Sau đó, ngọn gió này thổi đến các cung Hóa Tự Tại, Đâu-suất thiên, Diệmma thiên làm cho các cung va chạm vào nhau tan nát như bụi cám mà chẳng còn gì. Cũng như lực sĩ cầm hai chày đồng đập vào nhau làm cho tan nát, không còn gì cả. Các cung điện ấy khi va chạm vào nhau cũng vậy.

Do đó nên biết rằng tất cả các hành cả đều vô thường, biến dịch, hư hoại, không đáng nương tựa. Phàm là các pháp hữu vi thì thật là nhàm chán, phải cầu đạo giải thoát, hầu thoát khỏi thế gian này.

Sau đó, cũng chính ngọn gió này thổi đến bốn thiên hạ, tám vạn thiên hạ khác, các núi, núi lớn, núi chúa Tu-di, đều bị bay lên hư không, cao trăm ngàn do-tuần, các hòn núi tung lên, va chạm vào với nhau mà tan nát như bụi cám. Cũng như lực sĩ tay nắm trấu nhẹ rải trong không trung. Bốn thiên hạ, các núi, núi Tu-di cũng đều phân tán như vậy.

Do đó nên biết rằng tất cả các hành đều vô thường, biến dịch, hư hoại, không đáng nương tựa. Phàm là các pháp hữu vi thì thật là nhàm chán. Vậy phải cầu đạo giải thoát, hầu thoát khỏi thế gian này.

Sau đó thì cơn gió này thổi tiêu hết đất. Nước dưới đất hết. Gió dưới nước hết.

Do đó nên biết rằng tất cả các hành đều vô thường, biến dịch, hư hoại, không đáng nương tựa. Phàm là các pháp hữu vi thì thật là nhàm chán. Vậy phải cầu đạo giải thoát, hầu thoát khỏi thế gian này.

Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:

– Khi cung Quang Âm thiên và cung Biến Tịnh thiên va chạm vào nhau tan nát như bụi cám. Ai có thể tin việc ấy? Chỉ riêng người nào nhìn thấy thì mới biết được mà thôi. Như thế, cho đến nước dưới đất hết, gió trong nước hết. Ai có thể tin việc ấy? Chỉ người nào nhìn thấy thì mới biết được mà thôi. Đó là phong tai.

Thế nào là phong tai lần thứ hai? Sau đó khá lâu thì có vầng mây đen lớn trùm khắp hư không cho đến Quả Thật thiên. Đồng thời mưa xuống, hạt mưa to như bánh xe và mưa như thế đó vô số trăm ngàn vạn năm. Nước mưa tăng dần lên đến Quả Thật thiên. Lúc đó thì có bốn ngọn gió chặn nước lại. Bốn ngọn gió ấy là gì? Một là Trụ phong, hai là Trì phong, ba là Bất Động phong, bốn là Kiên Cố phong.

Sau đó, nước giảm xuống dần còn vô số do-tuần, ngàn do-tuần. Bốn bề nước có gió lớn nổi dậy, tên là Tăng-già thổi nước dao động, phát sanh sóng, bọt nước kết tụ lại. Gió thổi nước rời khỏi vị trí bay lên hư không, tự nhiên biến thành cung điện Biến Tịnh thiên có màu sắc xen kẽ do bảy báu tạo thành. Do nhân duyên đó nên có cung Biến Tịnh thiên.

Nước ấy giảm xuống vô số trăm ngàn do-tuần. Cơn gió lớn Tăng-già ấy thổi làm cho nước động, phát sanh sóng, bọt nước kết tụ lại. Gió thổi nước rời khỏi vị trí bay lên hư không, tự nhiên biến thành cung Quang Âm thiên có màu sắc xen kẽ, do bảy báu tạo thành. Cho đến nước biển toàn mặn, cũng như trường hợp hỏa tai tái phát lần thứ hai. Đó là phong tai.

Những hiện tượng trên là tam tai, cũng là tam phục (ba sự tái phát).

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.