Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 01 »
Kinh Trường A-Hàm
(長阿含經)
(Bản dịch của Trung tâm Dịch thuật Trí Tịnh)
Đức Phật dạy:
– Này các Tỳ-kheo, có bốn loài rồng, đó là: Loài sanh từ trứng, loài sanh từ bào thai, loài sanh từ chỗ ẩm thấp và loài do biến hóa mà sanh, đó là bốn loài rồng.
Có bốn loài chim Cánh Vàng, đó là: Loài sanh từ trứng, loài sanh từ bào thai, loài sanh từ chỗ ẩm thấp và loài do biến hóa mà sanh, đó là bốn loài chim Cánh Vàng.
Ở dưới đáy biển lớn có cung điện của vua rồng Sa-kiệt,54 ngang dọc tám mươi ngàn do-tuần, cung điện có bảy lớp tường thành, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng và bảy lớp hàng cây, chung quanh tường thành được trang hoàng bằng bảy báu,... cho đến có vô số các loài chim cùng nhau hót vang, cũng lại như thế.
Giữa hai ngọn núi chúa Tu-di và núi Khư-đà-la có cung điện của hai vua rồng Nan-đà và Bạt-nan-đà. Mỗi cung điện ngang dọc sáu ngàn do-tuần, có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, chung quanh tường thành được trang hoàng bằng bảy báu,... cho đến có vô số các loài chim cùng nhau hót vang, cũng lại như thế.
[0127b10] Phía Bắc bờ biển lớn có một cây lớn tên là Cứu-la-thiểm-ma-la.55 Vua rồng và chim Cánh Vàng đều có cây này, thân cây to bảy do-tuần, cao một trăm do-tuần, bóng cây che phủ bốn phía rộng năm mươi do-tuần. Phía Đông của cây lớn này có cung điện của loài vua rồng sanh ra từ trứng và cung điện của loài chim Cánh Vàng sanh ra từ trứng. Mỗi cung điện ngang dọc sáu ngàn do-tuần, cung điện có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, chung quanh tường thành được trang hoàng bằng bảy báu,... cho đến có vô số loài chim cùng nhau hót vang, cũng lại như thế.
Phía Nam cây Cứu-la-thiểm-ma-la này có cung điện của loài vua rồng sanh ra từ bào thai và cung điện của loài chim Cánh Vàng sanh ra từ bào thai. Mỗi cung điện ngang dọc sáu ngàn do-tuần, cung điện có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, chung quanh tường thành được trang hoàng bằng bảy báu,... cho đến có vô số các loài chim cùng nhau hót vang, cũng lại như thế.
Phía Tây cây Cứu-la-thiểm-ma-la này có cung điện của loài vua rồng sanh ra từ nơi ẩm thấp và cung điện của loài chim Cánh Vàng sanh ra từ nơi ẩm thấp. Mỗi cung điện ngang dọc sáu ngàn do-tuần, cung điện có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, chung quanh tường thành được trang hoàng bằng bảy báu,... cho đến có vô số các loài chim cùng nhau hót vang, cũng lại như thế.
Phía Bắc cây Cứu-la-thiểm-ma-la này có cung điện của loài vua rồng sanh ra từ sự biến hóa và cung điện của loài chim Cánh Vàng sanh ra từ sự biến hóa. Mỗi cung điện ngang dọc đều sáu ngàn do-tuần, cung điện có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, chung quanh tường thành được trang hoàng bằng bảy báu,... cho đến có vô số các loài chim cùng nhau hót vang, cũng lại như thế.
Khi chim Cánh Vàng sanh ra từ trứng muốn bắt loài rồng để ăn thịt thì từ nhánh phía Đông của cây Cứu-la-thiểm-ma-la, chúng bay xuống, vỗ cánh rẽ nước biển lớn dạt sang hai bên hai trăm do-tuần, rồi bắt lấy loài rồng sanh ra từ trứng để ăn một cách tự tại tùy ý nhưng chúng không thể bắt loài rồng sanh ra từ bào thai, từ nơi ẩm thấp và từ biến hóa được.
[0127c03] Khi loài chim Cánh Vàng sanh ra từ bào thai muốn bắt loài rồng sanh ra từ trứng để ăn thịt thì từ nhánh cây phía Đông, chúng bay xuống, vỗ cánh rẽ nước biển lớn dạt sang hai bên hai trăm do-tuần, rồi bắt loài rồng sanh ra từ trứng để ăn một cách tự tại tùy ý.
Khi loài chim Cánh Vàng sanh ra từ bào thai muốn bắt loài rồng sanh ra từ bào thai để ăn thịt thì từ nhánh cây phía Nam, chúng bay xuống, vỗ cánh rẽ nước biển lớn dạt sang hai bên bốn trăm do-tuần, rồi bắt loài rồng sanh từ bào thai để ăn một cách tự tại tùy ý nhưng chúng không bắt được loài rồng sanh từ nơi ẩm thấp và từ biến hóa để ăn.
Khi loài chim Cánh Vàng sanh ra từ nơi ẩm thấp muốn bắt loài rồng sanh ra từ trứng để ăn thịt thì từ nhánh cây phía Đông, chúng bay xuống, vỗ cánh rẽ nước biển lớn dạt sang hai bên hai trăm do-tuần, rồi bắt loài rồng sanh ra từ trứng để ăn thịt một cách tự tại tùy ý.
Khi loài chim Cánh Vàng sanh ra từ nơi ẩm thấp muốn bắt loài rồng sanh ra từ bào thai để ăn thịt thì từ nhánh cây phía Nam, chúng bay xuống, vỗ cánh rẽ nước biển lớn dạt sang hai bên bốn trăm do-tuần, rồi bắt loài rồng sanh ra từ bào thai để ăn thịt một cách tự tại tùy ý.
Khi loài chim Cánh Vàng sanh ra từ nơi ẩm thấp muốn bắt loài rồng sanh ra từ nơi ẩm thấp để ăn thịt thì từ nhánh cây phía Tây, chúng bay xuống, vỗ cánh rẽ nước biển lớn dạt sang hai bên tám trăm do-tuần, rồi bắt loài rồng sanh ra từ nơi ẩm thấp để ăn thịt một cách tự tại tùy ý nhưng chúng không bắt được loài rồng sanh ra từ biến hóa để ăn thịt.
Khi loài chim Cánh Vàng sanh ra từ sự biến hóa muốn bắt loài rồng sanh ra từ trứng để ăn thịt thì từ nhánh cây phía Đông, chúng bay xuống, vỗ cánh rẽ nước biển dạt sang hai bên hai trăm do-tuần, rồi bắt loài rồng sanh ra từ trứng để ăn thịt một cách tự tại tùy ý.
Khi loài chim Cánh Vàng sanh ra từ sự biến hóa muốn bắt loài rồng sanh ra từ bào thai để ăn thịt thì từ nhánh cây phía Nam, chúng bay xuống, vỗ cánh rẽ nước biển dạt sang hai bên bốn trăm do-tuần, rồi bắt loài rồng sanh ra từ trứng để ăn thịt một cách tự tại tùy ý.
Khi loài chim Cánh Vàng sanh ra từ sự biến hóa muốn bắt loài rồng sanh ra từ nơi ẩm thấp để ăn thịt thì từ nhánh cây phía Tây, chúng bay xuống, vỗ cánh rẽ nước biển lớn dạt sang hai bên tám trăm do-tuần, rồi bắt loài rồng sanh ra từ nơi ẩm thấp để ăn thịt.
Khi loài chim Cánh Vàng sanh ra từ sự biến hóa muốn bắt loài rồng sanh ra từ sự biến hóa để ăn thịt thì từ nhánh cây phía Bắc, chúng bay xuống, vỗ cánh rẽ nước biển lớn dạt sang hai bên một ngàn sáu trăm do-tuần, rồi bắt loài rồng sanh ra từ sự biến hóa để ăn một cách tự tại tùy ý, bởi vì các loài rồng là thức ăn của loài chim Cánh Vàng.
Tuy nhiên, có những loài rồng chúa mà loài chim Cánh Vàng không thể bắt được. Những loài rồng đó là: Vua rồng Sa-kiệt, vua rồng Nan-đà, vua rồng Bạt- nan-đà, vua rồng Y-na-bà-la, vua rồng Đề-đầu-lại-tra, vua rồng Thiện Kiến, vua rồng A-lô, vua rồng Ca-câu-la, vua rồng Ca-tỳ-la, vua rồng A-ba-la, vua rồng Ca-nậu, vua rồng Cù-ca-nậu, vua rồng A-nậu-đạt, vua rồng Thiện Trú, vua rồng Ưu-thiểm-ca-bà-đầu, vua rồng Đắc-xoa-ca. Các loài rồng chúa này không bị các loài chim Cánh Vàng bắt ăn thịt, đồng thời các loài rồng khác ở gần trú xứ của những loài rồng chúa này cũng không bị loài chim Cánh Vàng bắt ăn thịt.
[0128a07] Đức Phật bảo Tỳ-kheo:
– Nếu chúng sanh nào giữ giới của rồng, tâm nghĩ đến rồng, thực hành theo cách sống của rồng thì sẽ sanh vào loài rồng. Chúng sanh nào giữ giới của chim Cánh Vàng, tâm nghĩ đến chim Cánh Vàng, thực hành theo cách sống của loài chim Cánh Vàng thì sẽ sanh vào loài chim Cánh Vàng. Chúng sanh nào giữ giới của thỏ, của chim kiêu; tâm nghĩ đến thỏ, chim kiêu; thực hành theo cách sống của thỏ, chim kiêu thì sẽ sanh vào loài thỏ và loài chim kiêu.
Nếu chúng sanh nào giữ giới của chó, hoặc giới của bò, hoặc giới của nai, hoặc giữ giới câm lặng, hoặc giữ giới của Ma-ni-bà-đà,56 hoặc giữ giới lửa, hoặc giữ giới mặt trăng, hoặc giữ giới mặt trời, hoặc giữ giới nước, hoặc giữ giới cúng dường lửa, hoặc tu những pháp khổ hạnh ở những nơi dơ bẩn, rồi nghĩ như vầy: “Ta thực hành pháp câm lặng, pháp Ma-ni-bà-đà, pháp thờ lửa, pháp thờ mặt trời, mặt trăng, pháp thờ nước, pháp cúng dường lửa và những pháp khổ hạnh, ta đem công đức giữ giới này, nguyện sanh về cõi trời”, đây chính là tà kiến.
Đức Phật dạy:
– Ta cho rằng hạng người tà kiến này chắc chắn rơi vào hai cõi: Hoặc đọa vào địa ngục, hoặc đọa vào loài súc sanh. Nếu Sa-môn hay Bà-la-môn nào có lập luận như thế này, quan điểm như thế này: “Ngã và thế giới là thường, chỉ có điều này là thật, ngoài ra đều là hư vọng; hoặc ngã và thế giới là vô thường, chỉ có điều này là thật, ngoài ra đều hư vọng; hoặc ngã và thế giới vừa thường vừa vô thường, chỉ có điều này là thật, ngoài ra đều hư vọng; hoặc ngã và thế giới chẳng phải thường chẳng phải vô thường, chỉ có điều này là thật, ngoài ra đều là hư vọng; hoặc ngã và thế giới là có giới hạn, chỉ có điều này là thật, ngoài ra đều là hư vọng; hoặc ngã và thế giới là không có giới hạn, chỉ có điều này là thật, ngoài ra đều là hư vọng; hoặc ngã và thế giới vừa có giới hạn vừa không có giới hạn, chỉ có điều này là thật, ngoài ra đều là hư vọng; hoặc ngã và thế giới chẳng phải có giới hạn chẳng phải không có giới hạn, chỉ có điều này là thật, ngoài ra đều là hư vọng; hoặc mạng tức là thân, chỉ có điều này là thật, ngoài ra đều là hư vọng; hoặc mạng khác thân khác, chỉ có điều này là thật, ngoài ra đều là hư vọng; hoặc chẳng phải có mạng, chẳng phải không có mạng, chỉ có điều này là thật, ngoài ra đều là hư vọng; hoặc không có mạng không có thân, chỉ có điều này là thật, ngoài ra đều là hư vọng.”
Hoặc có người cho rằng: “Con người sau khi chết còn tồn tại, chỉ có điều này là thật, ngoài ra đều là hư vọng”; hoặc có người nói: “Con người sau khi chết không còn tồn tại, chỉ có điều này là thật, ngoài ra đều là hư vọng”; hoặc nói: “Con người sau khi chết, vừa còn tồn tại vừa không còn tồn tại, chỉ có điều này là thật, ngoài ra đều là hư vọng”; lại nói: “Con người sau khi chết, chẳng phải còn tồn tại, chẳng phải không còn tồn tại, chỉ có điều này là thật, ngoài ra đều là hư vọng.”
Những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập luận như vậy, quan điểm như vậy, nên họ cho rằng: “Thế giới là thường, chỉ có điều này là thật, ngoài ra đều là hư vọng.” Những người ấy, đối với các pháp hữu vi57 họ khởi lên kiến chấp về ngã, kiến chấp về mạng, kiến chấp về thân, kiến chấp về thế giới, nên họ cho rằng: “Ngã và thế giới là thường hằng.”
Nếu họ cho rằng: “Ngã và thế gian là vô thường” thì đối với các pháp hữu vi, họ sẽ khởi kiến chấp về ngã, kiến chấp về mạng, kiến chấp về thân, kiến chấp về thế giới, nên họ cho rằng: “Ngã và thế giới là vô thường.”
Những ai chủ trương vừa thường vừa vô thường thì đối với các pháp hữu vi, họ khởi kiến chấp về ngã, kiến chấp về mạng, kiến chấp về thân, kiến chấp về thế giới, nên họ cho rằng: “Thế giới vừa thường vừa là vô thường.”
Những ai chủ trương chẳng phải thường, chẳng phải vô thường thì đối với các pháp hữu vi, họ khởi kiến chấp về ngã, kiến chấp về mạng, kiến chấp về thân, kiến chấp về thế giới, nên họ cho rằng: “Ngã và thế giới chẳng phải thường, chẳng phải vô thường.”
[0128b09] Những ai chủ trương ngã và thế giới là có giới hạn thì đối với các pháp hữu vi, họ khởi kiến chấp về ngã, kiến chấp về mạng, kiến chấp về thân, kiến chấp về thế giới, vì thế cho rằng: “Mạng sống có giới hạn, thân có giới hạn, thế giới có giới hạn. Từ khi mới gá vào thai mẹ cho đến lúc chết vứt bỏ ngoài gò mả, những gì thuộc về thân bốn đại đều lưu chuyển như vậy, tối đa bảy lần sanh trở lại, khi thân căn và sanh mạng58 đã hết thì ngã trở về chốn thanh tịnh”, nên họ cho rằng: “Ngã là có giới hạn.”
Những ai chủ trương ngã và thế giới là không giới hạn thì đối với các pháp hữu vi, họ khởi kiến chấp về ngã, kiến chấp về mạng, kiến chấp về thân, kiến chấp về thế giới, vì vậy họ cho rằng: “Mạng sống là không giới hạn, thân người là không giới hạn, thế giới là không giới hạn. Từ khi mới gá vào thai mẹ cho đến lúc chết vứt bỏ ngoài gò mả, những gì thuộc về thân tứ đại này đều lưu chuyển như vậy, tối đa bảy lần sanh trở lại, khi thân căn và sanh mạng đã hết thì ngã trở về chốn thanh tịnh”, nên họ cho rằng: “Ngã và thế giới là không giới hạn.”
Những ai chủ trương thế giới này vừa có giới hạn vừa không có giới hạn thì đối với các pháp hữu vi, họ khởi kiến chấp về ngã, kiến chấp về mạng, kiến chấp về thân, kiến chấp về thế giới, nên họ cho rằng: “Mạng sống vừa có giới hạn vừa không có giới hạn. Từ khi mới gá vào thai mẹ cho đến lúc chết vứt bỏ ngoài gò mả, những gì thuộc về thân tứ đại này đều lưu chuyển như vậy, tối đa bảy lần sanh trở lại, khi thân căn và sanh mạng đã hết thì ngã trở về chốn thanh tịnh”, nên họ cho rằng: “Ngã vừa có giới hạn vừa không có giới hạn.”
Những ai chủ trương ngã và thế giới chẳng phải có giới hạn, chẳng phải không có giới hạn, nên đối với các pháp hữu vi, họ khởi kiến chấp về ngã, kiến chấp về mạng, kiến chấp về thân, kiến chấp về thế giới, nên họ cho rằng: “Mạng sống và thân thể chẳng phải có giới hạn, chẳng phải không có giới hạn. Từ khi mới gá vào thai mẹ cho đến lúc chết vứt bỏ ngoài gò mả, những gì thuộc về thân tứ đại này đều lưu chuyển như vậy, tối đa bảy lần sanh trở lại, khi thân căn và sanh mạng đã hết thì ngã trở về chốn thanh tịnh”, nên họ cho rằng: “Ngã chẳng phải có giới hạn, chẳng phải không có giới hạn.”
Những ai chủ trương mạng tức là thân thì đối với thân này, họ thấy có mạng; đối với thân khác, họ cũng thấy có mạng và cho rằng: “Mạng tức là thân.”
Những ai chủ trương mạng khác, thân khác thì đối với thân này, họ thấy có mạng; nhưng đối với thân khác, họ không thấy có mạng, nên họ cho rằng: “Mạng khác, thân khác.”
Những ai chủ trương thân và mạng chẳng có cũng chẳng không thì đối với thân này họ không thấy có mạng; nhưng đối với thân khác, họ lại thấy có mạng, nên họ cho rằng: “Thân và mạng chẳng có cũng chẳng không.”
Những người chủ trương không có thân, không có mạng, nên đối với thân này và đối với thân khác họ đều không thấy có mạng, cho nên họ nói: “Không có mạng, không có thân.”
Những ai chủ trương con người sau khi chết còn tồn tại thì người đó thấy đời này có thân và mạng, đời sau cũng có thân và mạng tồn tại, cho nên họ nói: “Con người sau khi chết còn tồn tại.”
Những ai chủ trương con người sau khi chết không còn tồn tại thì họ cho rằng đời này có mạng nhưng đời sau không có mạng, cho nên họ nói: “Con người sau khi chết không còn tồn tại.”
Những ai chủ trương con người sau khi chết vừa tồn tại vừa không còn tồn tại thì họ cho rằng đời này mạng đoạn diệt, đời sau mạng còn tồn tại, cho nên họ nói: “Con người sau khi chết vừa tồn tại vừa không còn tồn tại.”
Những ai chủ trương con người sau khi chết chẳng phải còn tồn tại, chẳng phải không còn tồn tại, nên họ cho rằng thân và mạng đời này cùng thân và mạng đời sau đều đoạn diệt, cho nên họ nói: “Con người sau khi chết chẳng phải còn tồn tại, chẳng phải không còn tồn tại.”
[0128c11] Bấy giờ, đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Về thời quá khứ xa xưa, có vị vua tên Kính Diện. Một hôm, vua triệu tập những người mù bẩm sinh vào một nơi rồi hỏi họ rằng:
“Các ngươi bị mù từ khi mới sanh, vậy có ai biết hình dáng của con voi như thế nào không?”
Họ đều đáp:
“Tâu Đại vương! Chúng tôi không biết.” Vua hỏi tiếp:
“Vậy các ngươi có muốn biết hình dáng của con voi không?” Họ đáp:
“Thưa, rất muốn biết!”
Bấy giờ, nhà vua liền ra lệnh người hầu, gọi quản tượng dẫn voi đến và bảo những người mù lấy tay sờ thử. Trong số người mù đó, có người sờ trúng vòi voi, vua bảo rằng đó là con voi, hoặc có người sờ trúng ngà voi, có người sờ trúng lỗ tai voi, có người sờ trúng đầu voi, có người sờ trúng lưng voi, có người sờ trúng bụng voi, có người sờ trúng đùi voi, có người sờ trúng chân voi, có người sờ trúng bàn chân voi, có người sờ trúng đuôi voi. Khi mỗi người sờ trúng mỗi bộ phận của con voi thì nhà vua đều nói: “Đó là con voi.”
Rồi Vua Kính Diện ra lệnh dắt voi đi và hỏi những người mù:
“Hình dáng con voi như thế nào?”
Thế là, trong những người mù này, người sờ trúng vòi voi thì bảo voi giống như cái càng xe bị cong, người sờ trúng ngà voi thì bảo voi giống như cái chày, người sờ trúng tai voi thì bảo voi như cái sàng, người sờ trúng đầu voi thì bảo voi như cái đỉnh, người sờ trúng lưng thì bảo voi như gò đất, người sờ trúng bụng thì bảo voi giống như vách tường, người sờ trúng đùi voi thì bảo voi giống như khúc cây, người sờ trúng chân voi thì bảo voi như trụ cột, người sờ trúng bàn chân thì bảo voi giống như cái cối, người sờ trúng đuôi thì bảo voi giống như cây chổi.
Họ tranh cãi nhau về việc đúng sai. Người này bảo như vậy, người kia nói không đúng... cứ thế mà tranh cãi với nhau không dứt.59
[0129a02] Bấy giờ, thấy như vậy rồi, Vua Kính Diện vui vẻ cười lớn và nói bài kệ:
Những người mù tập hợp,
Tranh cãi về hình voi
Thân voi vốn một thể,
Tưởng khác, tranh đúng sai.
Đức Phật dạy:
Lúc ấy, đức Thế Tôn nói kệ:
Nếu người không biết khổ,
Không biết khổ do đâu,
Cũng lại không biết khổ,
Sẽ diệt tận chốn nào,
Cũng lại không thể biết,
Pháp diệt khổ từ đâu,
Thì mất tâm giải thoát,
Tuệ giải thoát mất luôn,
Nên không rõ gốc nguồn,
Khổ sanh, già, bệnh, chết.
Biết sự thật về khổ,
Biết khổ là do đâu,
Cũng biết rõ khổ kia,
Sẽ diệt tận nơi nào,
Lại hay khéo phân biệt,
Pháp diệt gốc khổ đau,
Thì được tâm giải thoát,
Tuệ giải thoát cũng vậy.
Người này chấm dứt được,
Cội gốc của khổ ấm,
Hết sanh, già, bệnh, chết
Nguồn gốc của tái sanh.60
Này Tỳ-kheo! Thế nên, các thầy hãy nỗ lực khéo léo tư duy Thánh đế về khổ, Thánh đế về nguyên nhân của khổ, Thánh đế về khổ diệt và Thánh đế về con đường đưa đến khổ diệt.61
Chú Thích:
53 Nguyên tác: Long điểu phẩm 龍鳥品 (T.01. 0001.30.5. 0127a27).
54 Sa-kiệt long vương (娑竭龍王, Sāgara nāgarāja).
55 Cứu-la-thiểm-ma-la (究羅睒摩羅).
56 Nguyên tác: Ma-ni-bà-đà giới (摩尼婆陀戒). Có thể đây là giới luật của giáo phái phụng thờ châu ngọc, như Chân-đà ma-ni (真陀摩尼) hoặc Chấn-đa ma-ni (振多摩尼), xem châu ngọc là linh vật có thể giải trừ tai nạn.
57 Nguyên tác: Hành (行). Theo Đại thừa nghĩa chương 大乘義章 (T.44. 1851.2. 0495a23), sự tập khởi của các pháp hữu vi, gọi đó là “hành” (有為集起, 稱之為行).
58 Nguyên tác: Mạng hành (命行). Theo SĀ. 1257, mạng hành ở đây chỉ cho năng lượng của nghiệp, cũng chỉ cho sanh mạng.
59 Câu chuyện người mù xem voi còn xuất hiện trong Ud. 66, Paṭhamanānātitthiyasutta (Kinh thứ nhất về ngoại đạo).
60 Nguyên tác: Thọ hữu (受有).
61 Bản Hán, hết quyển 19.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.