Viện Nghiên Cứu Phật Học

 

30. KINH THẾ KÝ

2. PHẨM UẤT-ĐAN-VIỆT39

 

Đức Phật bảo Tỳ-kheo:

Châu Uất-đan-việt có nhiều núi non. Bên cạnh núi non có nhiều vườn cảnh, hồ tắm, mọc đủ các loại hoa, cây cối xanh mát, hoa quả sum suê, có vô số loài chim cùng hòa điệu hót ca. Lại nữa, trong núi ấy có rất nhiều nguồn nước bình lặng xuôi chảy ra biển, không có chảy xiết, có các loài hoa che phủ trên mặt nước và dập dềnh trôi xuôi. Hai bên bờ suối có nhiều cây cối, cành nhánh mềm mại, hoa quả sum suê, đất mọc cỏ mềm, bò quanh theo chiều phải, màu xanh như lông khổng thúy,40 hương thơm như hoa bà-sư41 và mềm mại như vải cõi trời. Mặt đất bằng phẳng mềm mại như lòng bàn tay, không có cao thấp, khi giẫm lên thì mặt đất lún xuống bốn tấc, vừa nhấc chân lên thì đất trở lại như cũ.

Này Tỳ-kheo! Bốn phía của châu này có bốn hồ A-nậu-đạt, mỗi cạnh của hồ ngang dọc một trăm do-tuần, nước hồ trong và sạch, không chút cặn bẩn, quanh bờ được lát nền bằng bảy báu,... cho đến có vô số loài chim cùng nhau hòa điệu hót ca. Sự tráng lệ của hồ này cũng giống như hồ Ma-đà-diên42 không khác. Nước từ bốn hồ lớn này chảy xuống bốn dòng sông lớn, rộng mười do-tuần, nước chảy xuôi ra biển cả, không có chảy xiết, có các loài hoa che phủ trên mặt nước và dập dềnh trôi xuôi. Giáp hai bên bờ hồ có nhiều cây cối, cành nhánh mềm mại, hoa quả sum suê, đất mọc cỏ mềm, bò quanh theo chiều phải, màu xanh như lông khổng thúy, hương thơm như hoa bà-sư và mềm mại như vải cõi trời. Mặt đất bằng phẳng và mềm mại như lòng bàn tay, không có cao thấp, khi giẫm lên thì mặt đất lún xuống bốn tấc, vừa nhấc chân lên thì đất trở lại như cũ.

Lại nữa, đất đai ở đây không có ngòi rãnh, khe suối, hầm hố, gai góc, gốc cây, không có muỗi mòng, rắn, rít, ong, bò cạp, hổ beo hay thú dữ. Đất đai toàn là châu báu, không có cát đá, thời tiết điều hòa, bốn mùa thuận chuyển, không nóng không lạnh, không có bức bách phiền não. Đất đai ẩm ướt, nên không bụi bẩn, như có dầu bôi trên đất, bụi không thể bay. Trăm hoa đua nở, không có đông, hạ; cây cối xanh tươi, hoa quả sum suê. Đất mọc cỏ mềm, bò quanh theo chiều phải, màu xanh như lông khổng thúy, hương thơm như hoa bà-sư, mềm mại như vải cõi trời. Mặt đất bằng phẳng và mềm mại như lòng bàn tay, không có cao thấp, khi giẫm lên thì mặt đất lún xuống bốn tấc, vừa nhấc chân lên thì đất trở lại như cũ.

[0118a10] Trong cõi này lúa thóc tự mọc, không cần gieo cấy, không có vỏ trấu, như đóa hoa trắng, giống thức ăn của trời Đao-lợi, đầy đủ các vị. Cõi ấy có nồi, vạc tự nhiên và ngọc ma-ni tên Diệm Quang thay cho lửa đặt dưới nồi, đến khi cơm chín thì ánh sáng tự nhiên tắt, không cần củi lửa, chẳng nhọc sức người. Cõi này có một loại cây tên Khúc Cung, lá cây mọc dày, thứ lớp đan xen, trời mưa không thấm, dột. Nam nữ cõi ấy ở dưới cây này. Lại có loài cây Hương, cao bảy mươi dặm, hoa trái sum suê. Khi trái cây chín, vỏ tự nứt ra, hương thơm lan tỏa. Loài cây này có cây cao sáu mươi dặm, hoặc năm mươi dặm, hoặc bốn mươi dặm. Cây nhỏ nhất cao khoảng năm dặm, hoa trái đầy cành. Khi quả chín tới, vỏ tự nứt ra, hương thơm lan tỏa.

Lại có loài cây Y, cao bảy mươi dặm, hoa trái sum suê. Khi trái cây chín, vỏ tự nứt ra, tuôn các y phục. Loài cây này, có cây cao sáu mươi, năm mươi, bốn mươi, hoặc nhỏ nhất là cao năm dặm, hoa trái sum suê, từ đây lưu xuất các loại y phục.

Lại có loài cây Trang Nghiêm, cao bảy mươi hoặc sáu mươi, năm mươi, bốn mươi dặm, cây nhỏ nhất cao khoảng năm dặm, hoa trái sum suê. Khi trái cây chín, vỏ tự nứt ra, tuôn đầy đủ các thứ trang sức thân thể.

Lại có loài cây Hoa Man, cao bảy mươi hoặc sáu mươi, năm mươi, bốn mươi dặm, cây nhỏ nhất cao khoảng năm dặm, hoa trái sum suê. Khi trái cây chín thì vỏ tự nứt, tuôn ra các thứ tràng hoa.

Lại có loài cây Khí, cao bảy mươi hoặc sáu mươi, năm mươi, bốn mươi dặm, cây nhỏ nhất cao khoảng năm dặm, hoa trái sum suê. Khi trái cây chín thì vỏ tự nứt, tuôn ra các loại đồ dùng.

Lại có loài cây Quả, cao bảy mươi hoặc sáu mươi, năm mươi, bốn mươi dặm, cây nhỏ nhất cao khoảng năm dặm, hoa trái sum suê. Khi trái cây chín thì vỏ tự nứt, tuôn ra các loại trái cây.

Lại có cây Nhạc Khí, cao bảy mươi hoặc sáu mươi, năm mươi, bốn mươi dặm, cây nhỏ nhất cao khoảng năm dặm, hoa trái sum suê. Khi trái cây chín thì vỏ tự nứt, tuôn ra các loại nhạc cụ.

[0118b08] Cõi ấy có hồ Thiện Kiến, ngang dọc một trăm do-tuần, nước hồ trong và sạch không chút cặn bẩn. Quanh bờ được lát nền bằng bảy báu, bao bọc chung quanh có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây,... cho đến có vô số loài chim cùng nhau hót vang, cũng giống như thế.

Phía Bắc hồ Thiện Kiến có cây tên Am-bà-la, cao một trăm dặm, thân to bảy dặm, cành lá che phủ bốn phía năm mươi dặm. Phía Đông hồ Thiện Kiến tuôn ra một dòng sông tên Thiện Đạo, rộng một do-tuần, dòng nước chảy chậm, không có nước xoáy, nhiều loài hoa đan xen che phủ trên mặt nước. Hai bên bờ sông có nhiều cây cối, cành nhánh mềm mại, hoa quả sum suê. Đất mọc cỏ mềm, bò quanh theo chiều phải, màu xanh như lông khổng thúy, hương thơm như hoa bà-sư, mềm mại như vải cõi trời. Mặt đất bằng phẳng và mềm mại như lòng bàn tay, không có cao thấp, khi giẫm chân xuống, mặt đất lún bốn tấc, vừa nhấc chân lên thì đất trở lại như cũ.

Trong sông ấy có nhiều thuyền báu. Dân chúng ở đây muốn đến hồ tắm rửa vui chơi thì cởi áo để trên bờ rồi chèo thuyền ra giữa dòng dạo chơi. Khi đã thỏa thích thì chèo thuyền vào, ai lên trước thì mặc y phục trước, ai lên sau thì mặc y phục sau, không cần lấy y phục của mình đã mặc lúc trước. Sau đó, họ đi đến cây Hương thì cây tự rũ thân xuống, mọi người chỉ cần đưa tay lấy các loại hương xoa lên thân thể. Rồi họ đến cây Y, cây tự rũ thân xuống, mọi người chỉ cần đưa tay lấy các thứ y phục và tùy ý mặc vào.

Kế nữa, họ đến cây Trang Nghiêm, cây tự rũ thân xuống để mọi người chỉ cần đưa tay lấy đủ loại trang sức để tự trang điểm cho mình. Sau đó, họ đến cây Man thì cây tự rũ thân xuống, mọi người chỉ cần đưa tay lấy các loại tràng hoa cài lên đầu. Tiếp theo, họ đến cây Khí, cây tự rũ thân xuống, mọi người chỉ cần đưa tay lấy các thứ đồ dùng quý báu để sử dụng. Sau đó, họ đến cây Quả, cây tự rũ thân xuống, mọi người chỉ cần đưa tay hái các loại trái cây ngon, hoặc là ăn, hoặc là ngậm hay vắt lấy nước uống. Lại đến cây Nhạc Khí, cây tự rũ thân xuống, mọi người chỉ cần đưa tay lấy các loại nhạc khí rồi cùng nhau tấu nhạc, âm thanh hòa quyện tuyệt diệu vang lên. Thế rồi, họ cùng nhau đến vườn cây vui chơi thỏa thích, hoặc một ngày, hoặc hai ngày cho đến bảy ngày, sau đó lại đi tiếp mà không ở chỗ nào nhất định.

[0118c05] Phía Nam hồ Thiện Kiến khởi nguồn dòng sông Diệu Thể. Phía Tây hồ Thiện Kiến khởi nguồn dòng sông Diệu Vị. Phía Bắc hồ Thiện Kiến khởi nguồn dòng sông Quang Ảnh, cũng giống như trên. Phía Đông hồ Thiện Kiến có khu vườn tên là Thiện Kiến, ngang dọc một trăm do-tuần, chung quanh bốn bên khu vườn đều có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, nhiều màu đan xen do bảy báu tạo thành. Bốn phía khu vườn đều có bốn cửa lớn, mỗi cửa đều có lan can bao quanh, đều trang hoàng bằng bảy báu. Trong vườn yên tĩnh, không có gai góc, đất đai bằng phẳng, không có khe suối, hầm hố, đồi núi; không có muỗi mòng, rắn, rít, bò cạp, hổ beo, thú dữ, đất đai toàn là châu bá u, không có cát đá, thời tiết điều hò a, bốn mùa thuận chuyển, không nóng không lạnh, không có bức bách phiền não. Đất đai ẩm ướt, không có bụi bẩn, đất như thấm dầu, bụi không thể bay. Trăm hoa đua nở, không có đông hạ, cây cối xanh tươi, hoa quả sum suê. Đất mọc cỏ mềm, bò quanh theo chiều phải, màu xanh như lông khổng thúy, hương thơm như hoa bà-sư, mềm mại như vải cõi trời. Mặt đất bằng phẳng và mềm mại như lòng bàn tay, không có cao thấp, khi giẫm chân xuống, mặt đất lún bốn tấc, vừa nhấc chân lên thì đất trở lại như cũ.

Trong vườn này lúa thóc tự mọc, không cần gieo cấy, không có vỏ trấu, như đóa hoa trắng, đầy đủ các vị, giống thức ăn của trời Đao-lợi. Vườn ấy có nồi, vạc tự nhiên và ngọc ma-ni tên Diệm Quang thay cho lửa đặt dưới nồi, đến khi cơm chín thì ánh sáng tự nhiên tắt, không cần củi lửa, chẳng nhọc sức người. Trong vườn lại có cây tên Khúc Cung, lá mọc đan xen thứ lớp, trời mưa không dột, nên mọi người đều trú dưới tàn cây. Lại có cây Hương, cao bả y mươi dặm, hoa trái đầy cành, khi trái chín thì vỏ tự nứt, hương thơm lan tỏa khắp nơi. Lại có cây cao sáu mươi, năm mươi, bốn mươi và cây nhỏ nhất là cao năm dặm, hoa trái đầy cành, khi trái chín thì mùi hương lan tỏa... cho đến cây Khí, cũng giống như trên.

Dân chúng ở vùng này đến trong khu vườn ấy vui chơi thỏa thích, hoặc một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày. Vườn Thiện Kiến ấy không người trông coi nên tùy ý dạo chơi, sau đó lại đi tiếp.

Phía Nam hồ Thiện Kiến có khu vườn tên Đại Thiện Kiến. Phía Tây hồ Thiện Kiến có khu vườn tên Ngô Lạc. Phía Bắc hồ Thiện Kiến có khu vườn tên Đẳng Hoa, cảnh vật cũng giống như trên. Ở đây, cứ vào nửa đêm hoặc cuối đêm, rồng chúa A-nậu-đạt thường giăng mây thanh tịnh khắp bầu trời, rồi tuôn mưa cam lộ xuống, giống như vắt sữa bò, khiến trong chốc lát nước tám vị thấm ướt cùng khắp, nước không đọng lại, đất không bùn lầy. Giống như thợ làm tràng hoa dùng nước rưới lên hoa khiến không khô héo, lại thấm ướt tốt tươi. Khi trời gần sáng thì hết mưa, bầu trời quang đãng, không một gợn mây, gió mát từ biển thổi vào, trong lành dễ chịu, khiến thân tâm khoan khoái. Hơn nữa, đất đai nơi này phì nhiêu, dân chúng sung túc. Khi cần ăn thì lấy gạo thơm tự nhiên để vào nồi, lấy ngọc Diệm Quang để dưới nồi mà nấu, cơm tự nhiên chín, ánh sáng tự tắt. Nếu khách đến thì tự lấy dùng, nếu chủ nhà không đứng dậy thì cơm không hết, nếu chủ nhà đứng dậy thì cơm cũng vừa hết. Cơm ấy tinh khiết, như đóa hoa trắng, đầy đủ mùi vị như cơm cõi trời Đao-lợi, người ăn vào không sanh bệnh mà còn giúp cho khí lực sung mãn, nhan sắc tươi đẹp, không bị già suy.

[0119a14] Lại nữa, người ở cõi ấy dung mạo giống nhau, không thể phân biệt, tất cả đều như thanh niên hai mươi tuổi ở cõi Diêm-phù-đề, răng trắng đều đặn, bằng và khít, tóc màu xanh biếc, không có cáu bẩn, tóc dài tám lóng tay, phía trước xõa xuống ngang mày, không dài không ngắn. Nếu người ở cõi ấy khởi tâm dục thì họ sẽ nhìn chăm chú vào người nữ rồi bỏ đi, người nữ liền theo và vườn rừng. Hai kẻ nam nữ ấy nếu như có liên hệ huyết thống với chú bác, cô dì nên không thể cộng giao thì cây cối sẽ không rũ cành che mát, lúc ấy hai người tự rời xa. Nếu không phải là người trong thân tộc thì cây cối tự rũ cành che kín, hai người tùy ý gần gũi vui chơi từ một, hai hoặc bảy ngày rồi sau đó chia tay. Người nữ này mang thai bảy ngày hoặc tám ngày thì chuyển dạ, khi đứa bé chào đời thì bất kể là con trai hay con gái đều đặt tại ngã tư đường rồi bỏ đi. Nếu có ai đi ngang qua thì đưa ngón tay cho đứa bé này bú, sữa từ đầu ngón tay tuôn ra lưu chuyển khắp thân, nuôi lớn đứa bé. Sau bảy ngày thì đứa bé này lớn lên như bao người khác. Lúc ấy, nếu là nam thì nó theo chúng nam, là nữ thì theo chúng nữ. Người nơi đây khi mạng chung, quyến thuộc không khóc than mà chỉ trang điểm cho tử thi rồi đặt tại ngã tư đường và sau đó bỏ đi. Bấy giờ, có loài chim Ưu-ủy-thiền-già cắp tử thi mang đi nơi khác. Lại nữ a, khi dân chúng muốn đại tiện hay tiểu tiện thì mặt đất tự nứt ra, đại tiện và tiểu tiện xong thì mặt đất khép lại. Loài người nơi đây không có tâm luyến ái ràng buộc, cũng không cất chứa mọi thứ, thọ mạng thường định, sau khi mạng chung đều sanh về cõi trời. Vì sao thọ mạng thường định? Vì đời trước họ tu mười hạnh lành nên sau khi chết sanh về cõi Uất-đan-việt, thọ mạng một ngàn tuổi, không tăng không giảm. Thế nên thọ mạng của họ đều như nhau.

[0119b06] Lại nữa, người sát sanh đọa vào đường ác, người không sát sanh sanh vào nẻo thiện. Kẻ trộm cướp, tà dâm, nói hai chiều, nói thô ác, nói dối, nói thêu dệt, tham lam, ganh ghét và tà kiến đều đọa vào đường ác. Người không trộm cướp, không tà dâm, không nói hai chiều, không nói lời thô ác, không nói dối, không nói thêu dệt, không tham lam, không ganh ghét, không tà kiến thì khi thân hoại mạng chung sẽ sanh về cõi Uất-đan-việt, thọ mạng một ngàn tuổi, không tăng không giảm. Thế nên thọ mạng của họ đều như nhau.

Lại nữa, nếu ai keo kiệt tham lam, không chịu bố thí thì sau khi mạng chung đọa vào đường ác. Nếu người có tâm rộng lớn không keo kiệt, thường đem tài vật ban phát cho người thì được sanh về cõi lành. Nếu ai cúng dường cho Sa-môn, Bà-la-môn và bố thí cho những người bần cùng ăn xin, bệnh tật khốn khổ những vật dụng như áo quần, xe cộ, vòng hoa, hương xoa, giường chiếu, phòng ốc, lại xây chùa tháp, đốt đèn cúng dường thì sau khi mạng chung được sanh về cõi Uất-đan-việt, thọ mạng một ngàn tuổi, không tăng không giảm. Thế nên thọ mạng của họ đều như nhau.

Vì sao gọi cõi Uất-đan-việt là thù thắng? Vì người dân nơi đây tuy không lãnh thọ mười điều thiện nhưng tất cả hành động và cử chỉ của họ đều tự nhiên hợp với mười điều thiện nên sau khi mạng chung sẽ sanh về cõi lành, cõi trời. Vì thế người cõi này được khen rằng: “Tốt đẹp thay người Uất-đan-việt.” Vậy Uất-đan-việt là gì ? Là cõi đứng đầu trong ba cõi thiên hạ, là tối thượng, tối thắng nên gọi là Uất-đan-việt.

Chú thích

39 Nguyên tác: Uất-đan-việt phẩm 欝單越品 (T.01. 0001.30.2. 0117c13).

40 Nguyên tác: Khổng thúy (孔翠), cách viết khác của khổng tước (孔雀), là con chim công.

41 Bà-sư (婆師, vassikā), tên một loài hoa thường nở rộ vào mùa mưa.

42 Ma-đà-diên trì (摩陀延池, Mandākinī) còn gọi Mạn-đà-kỳ-ni trì (漫陀耆尼池), Mạn-na-cát-nhĩ trì (曼那吉儞池),...

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.