Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 01 »
Kinh Trường A-Hàm
(長阿含經)
(Bản dịch của Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm)
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Về châu Uất-đơn-việt có rất nhiều núi non, bên cạnh những núi này có nhiều nhà mát, ao tắm, đồng thời có các thứ hoa chen lẫn nhau, cây cối xanh tươi, hoa trái sum suê, lại có vô số chim chóc cùng hòa ca.
Trong những hòn núi ấy, có rất nhiều dòng nước chảy êm đềm, không có chảy xiết, đồng thời có rất nhiều hoa nổi bồng bềnh trên mặt nước và từ từ di động. Hai bên bờ suối hẹp có nhiều cây cối, nhành cây mềm mại, hoa trái sum suê, đất sanh cỏ mịn, xoay tròn về phía hữu, màu xanh như lông chim khổng tước, mùi hương như hương bà-sư-ca, mềm mại như áo trời. Đất đai mềm mại dùng chân mà giẫm trên đất thì đất lún bốn tấc nhưng khi nhấc chân lên thì đất trở lại bằng phẳng như cũ, giống như lòng bàn tay không có cao thấp.
Này các Tỳ-kheo, về châu Uất-đơn-việt, bốn hướng đều có bốn ao A-nậu đạt, mỗi ao rộng trăm do-tuần, nước ao trong vắt, không cáu bẩn, lại có bảy lớp hào báu xây thành chung quanh,… có vô số loài chim cùng ca hót líu lo, nếu so với sự trang trí của ao Ma-đà-diên thì không hơn không kém. Bốn ao lớn kia đều phát ra bốn sông lớn, rộng mười do-tuần, nước chảy êm đềm, không có chảy mạnh, có rất nhiều hoa nổi trên mặt nước, từ từ di động. Hai bên bờ sông có nhiều cây cối, cành lá mềm mại, hoa trái sum suê, đất sanh cỏ mịn và xoay chiều về phía hữu, màu xanh như lông chim khổng tước, mùi hương như hương bà-sư-ca, mềm mại như áo trời. Đất đai mềm mại, khi dùng chân giẫm lên thì đất lún bốn tấc nhưng khi nhấc chân lên thì đất trở lại bằng phẳng như cũ, giống như lòng bàn tay không có cao thấp. Đất đai ở đó không có hào rãnh, hầm hố, gai góc, không có muỗi mòng, rắn rết, bò cạp, hổ lang, ác thú… Đất đai toàn là các thứ báu, không có cát đá, âm dương nhịp nhàng, bốn mùa hòa thuận, không nóng không lạnh, không có những điều lo sợ, đất đai nhuận trạch, không có bụi bốc lên, như đất đá có tráng dầu thì bụi bặm không thể bốc lên được. Có trăm loài hoa sanh trưởng, không có mùa đông, mùa hạ, cây cối xanh tươi, hoa trái sum suê, đất sanh cỏ mịn và xoay chiều về phía hữu, màu xanh như chim khổng tước, mùi hương như hương bà-sư-ca, mềm mại như áo trời. Đất đai mềm mại, khi dùng chân giẫm lên thì đất lún bốn tấc nhưng khi nhấc chân lên thì đất trở lại bằng phẳng như cũ, giống như lòng bàn tay không có cao thấp. Đất đai ở đó thường có lúa gạo mọc tự nhiên, không phải gieo trồng, không có tấm cám, trắng tinh như chùm hoa trắng, như thức ăn cõi trời Đao-lợi đầy đủ hương vị. Ở đây thường có cái đấu, cái vạc tự nhiên, có hạt châu ma-ni tên Diệm Quang. Họ đặt hạt châu Diệm Quang dưới nồi, đến khi cơm chín thì ánh sáng tự nhiên tắt, không cần thổi lửa, không nhọc công người. Đất ở đó có một loại cây tên Khúc Cung, lá xếp chồng lên nhau theo thứ tự, trời mưa, nước không nhỏ xuống được, do đó trai, gái đều có thể nghỉ ngơi dưới gốc cây này. Lại có một loại cây Hương, cao bảy mươi dặm, hoa trái sum suê, đến khi trái chín thì vỏ tự nứt, tự nhiên tỏa ra mùi hương. Loại cây này cũng cao sáu mươi dặm, hoặc năm mươi dặm, hoặc bốn mươi dặm, cây nhỏ nhất cao năm dặm, hoa trái sum suê, khi trái chín thì vỏ tự nhiên nứt đồng thời phát ra mùi hương. Lại có một loại cây Y Phục, cao bảy mươi dặm, hoa trái sum suê, khi trái chín thì vỏ tự nhiên nứt, đồng thời sanh ra các thứ y phục, loại cây này cao sáu mươi dặm, hoặc năm mươi dặm, hoặc bốn mươi dặm, cây nhỏ nhất cao năm dặm, hoa trái sum suê, sanh ra các thứ y phục. Lại có một loại cây Trang Sức, cao bảy mươi dặm, hoa trái sum suê, khi trái chín thì vỏ tự nhiên nứt, đồng thời phát sanh các thứ trang sức về thân; loại cây này cao sáu mươi dặm, hoặc năm mươi dặm, hoặc bốn mươi dặm, cây nhỏ nhất cao năm dặm, hoa trái sum suê, đồng thời sanh ra các đồ trang sức về thân. Lại có một loại cây Tràng Hoa, cao bảy mươi dặm, hoa trái sum suê, khi trái chín thì vỏ tự nhiên nứt, đồng thời phát sanh các thứ tràng hoa, loại cây này cao sáu mươi dặm, hoặc năm mươi dặm, hoặc bốn mươi dặm, cây nhỏ nhất cao năm dặm, hoa trái sum suê, khi trái chín thì vỏ tự nhiên nứt, đồng thời sanh ra các thứ tràng hoa. Lại có một loại cây Khí Cụ, cao bảy mươi dặm, hoa trái sum suê, khi trái chín thì vỏ tự nhiên nứt, đồng thời phát sanh các thứ khí cụ, loại cây này cao sáu mươi dặm, hoặc năm mươi dặm, hoặc bốn mươi dặm, cây nhỏ nhất cao năm dặm, hoa trái sum suê, đồng thời sanh ra các thứ khí cụ. Lại có một loại cây Quả, cao bảy mươi dặm, hoa trái sum suê, khi trái chín thì vỏ tự nhiên nứt, đồng thời sanh ra các thứ trái cây; loại cây này cao sáu mươi dặm, hoặc năm mươi dặm, hoặc bốn mươi dặm, cây nhỏ nhất cao năm dặm, hoa trái sum suê, đồng thời sanh ra các thứ trái cây. Lại có một loại cây Nhạc Khí, cao bảy mươi dặm, hoa trái sum suê, khi trái chín thì vỏ tự nhiên nứt, đồng thời sanh ra các loại nhạc cụ; loại cây này cao sáu mươi dặm, hoặc năm mươi dặm, hoặc bốn mươi dặm, cây nhỏ nhất cao năm dặm, hoa trái sum suê, đồng thời sanh ra các loại nhạc cụ. Đất này có ao tên là Thiện Kiến, rộng một trăm do-tuần, nước ao trong vắt, không vẩn đục, bờ ao được bao bọc bằng thất bảo chung quanh, bốn phía ao đều có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây… có vô số chim chóc cất tiếng hòa ca cũng như ở các cảnh trước.
Phía Bắc ao Thiện Kiến có cây tên Am-bà-la, thân cây to bảy dặm, cao trăm dặm, nhánh và lá tỏa bốn bề năm mươi dặm. Phía Đông ao Thiện Kiến, lại phát sanh sông Thiện Đạo, rộng một do-tuần, dòng nước không chảy xiết, trái lại chảy một cách lững lờ. Các thứ hoa che phủ trên mặt nước. Về hai bên bờ sông có cây cối xanh tươi, cành cây mềm dẻo, hoa trái sum suê. Đất sanh từng bồn cỏ mịn và xoay chiều về phía hữu, màu xanh như chim khổng tước, mùi hương như hương bà-sư-ca, mềm mại như áo trời, đất đai mềm dẻo, khi dùng chân giẫm lên thì đất lún bốn tấc nhưng khi nhấc chân thì đất trở lại bằng phẳng giống như lòng bàn tay, không cao không thấp. Trong ao có nhiều thuyền báu. Khi dân chúng của nơi ấy muốn đến tắm, hoặc dạo chơi thì họ cởi áo để trên bờ, rồi bơi thuyền giữa dòng sông vui chơi thỏa thích. Sau khi tắm xong họ lên bờ hễ gặp y phục thì mặc, ai lên trước thì mặc trước, ai lên sau thì mặc sau, không đợi phải là áo của mình. Sau đó, họ đến cây Hương, cây đó cong thân xuống, những người ấy dùng tay lấy các thứ hương xoa vào thân thể; kế tiếp, họ đến cây Y Phục, tức thì cây này cong thân xuống; họ bèn lấy các thứ y phục, tùy ý mặc vào. Tiếp đó, họ lại đến cây Trang Sức, tức thì cây ấy liền cong thân xuống; họ bèn lấy các thứ trang sức để tự trang điểm cho mình. Sau đó, họ đến cây Tràng Hoa, tức thì cây liền cong thân xuống; họ bèn lấy các loại tràng hoa cài lên đầu. Tiếp theo, họ đến cây Đồ Dùng, tức thì cây liền cong thân xuống; họ bèn lấy các đồ dùng quý báu để dùng cho mình. Sau đó, họ đến cây Quả, tức thì cây ấy liền cong xuống; họ bèn lấy các loại trái cây ngon, hoặc là ăn, hoặc là ngậm, hay vắt lấy nước dùng. Sau đó, họ đến cây Nhạc Khí, tức thì cây ấy cong xuống; họ bèn lấy các thứ nhạc khí để tấu nhạc, hòa trống, dạo đàn với âm thanh tuyệt diệu. Thế rồi, họ đến rừng cây tùy ý vui chơi, hoặc một ngày, hoặc hai ngày, cho đến bảy ngày. Sau đó, họ mới trở về nhưng không nhất định là nơi nào.
Phía Nam ao Thiện Kiến lại phát xuất sông Diệu Thể, phía Tây ao Thiện Kiến lại phát xuất sông Diệu Vị, phía Bắc ao Thiện Kiến lại phát xuất sông Quang Ảnh, về phía Đông ao Thiện Kiến có rừng cây Thiện Kiến rộng một trăm do-tuần, chung quanh bốn phía vườn đều có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây, màu sắc chen lẫn do bảy báu tạo nên. Bốn phía vườn đều có bốn cửa lớn, có lan can bao quanh, đều do bảy báu tạo thành. Trong vườn hoàn toàn yên tĩnh, không có gai góc, đất đai bằng phẳng, không có khe suối, hầm hố, gò nổng, không có muỗi mòng, ruồi nhặng, rận rệp, rắn rết, độc trùng, hổ lang, ác thú… Đất đai toàn là các thứ báu, không có cát đá, âm dương điều hòa, bốn mùa hòa thuận, không nóng, không lạnh, không có các thứ hoạn nạn. Đất đai sạch sẽ, không có bụi bặm, như đất được tráng dầu, bụi không thể bốc lên. Ở đấy, đất đai thường phát sanh trăm loài cỏ, không có mùa đông, mùa hạ, cây cối xanh tươi, hoa trái sum suê, đất sanh từng bồn cỏ mịn, xoay tròn về phía hữu, màu sắc như màu chim khổng tước, mùi hương như hương bà-sư-ca, mềm mại như áo trời, đất đai mềm mại, khi chân giẫm lên thì đất lún bốn tấc nhưng khi nhấc chân thì đất trở lại bằng phẳng như cũ. Trong vườn có loại gạo thơm tự nhiên, không có trấu cám, trắng như chùm hoa trắng, hương vị đầy đủ như thức ăn cõi trời Đao-lợi. Vườn ấy thường có nồi chảo tự nhiên, có hạt châu ma-ni tên Diệm Quang, khi muốn nấu cơm thì họ đặt hạt châu dưới nồi, đến lúc cơm chín thì ánh sáng tự nhiên tắt, không cần đun lửa, không nhọc công người. Trong vườn lại có cây tên là Khúc Cung, mỗi lá đều xếp chồng lên nhau, trời mưa nước không nhỏ xuống được, khiến nam nữ có thể trú dưới gốc cây. Lại có cây Hương cao bảy mươi dặm, hoa quả sum suê, đến khi trái chín thì vỏ tự nhiên nứt, đồng thời phát sanh các thứ hương; loại cây này cao sáu mươi dặm, năm mươi hoặc bốn mươi dặm, cho đến cây thấp nhất thì cao năm dặm, hoa trái sum suê, phát ra các loại hương... có nhạc khí… (cũng như trên). Ở đây, dân chúng khi vào vườn thì mặc tình vui chơi thỏa thích, hoặc một ngày, hai ngày, cho đến bảy ngày. Trong vườn Thiện Kiến không có người trông coi, tùy ý dạo chơi, rồi trở về. Phía Nam ao Thiện Kiến có rừng tên là Ngu Lạc, phía Bắc ao Thiện Kiến có rừng tên là Đẳng Hoa, cũng giống như cảnh ở trên. Ở đây, giữa đêm, cuối đêm, vua rồng A-nậu-đạt thường tùy thời khởi những vầng mây trong trẻo, bao trùm cả thế giới, làm những trận mưa ngọt, bằng thời gian vắt sữa bò, dùng nước đầy đủ tám vị đượm nhuần khắp nơi. Nước mưa không ứ đọng, không có bùn lầy, cũng như thợ kết hoa khéo dùng nước tưới hoa, khiến cho hoa không khô héo, lại thêm xinh tươi.
Khi ấy, ở châu này, vào giữa đêm, cuối đêm không có mây che, bầu trời quang đãng, biển thổi gió mát trong lành dìu dịu thổi đến, làm cho con người có cảm giác khoan khoái. Hơn nữa, đất này phì nhiêu, dân cư đông đúc. Khi muốn ăn cơm thì họ lấy gạo thơm tự nhiên để vào trong nồi và đặt hạt châu Diệm Quang dưới đáy nồi, cơm tự nhiên chín, ánh sáng tự tắt. Người đến cứ mặc sức mà dùng. Nếu người chủ không đứng dậy thì cơm ăn hoài không hết. Nhưng nếu khi chủ đứng dậy thì cơm tự nhiên hết. Hạt cơm ở đây rất tinh khiết như chùm hoa trắng, mùi vị đầy đủ như thức ăn của trời Đao-lợi. Dân chúng khi dùng cơm này thì không có bệnh hoạn, sức khỏe dồi dào, nhan sắc tươi vui, không tiều tụy. Lại nữa, con người ở đấy thân thể tướng mạo đều giống nhau, không thể phân biệt được. Dung mạo họ luôn luôn trẻ trung như người hai mươi tuổi ở châu Diêm-phù-đề, răng họ trắng tinh, đều đặn và khít khao, tóc họ màu xanh, không có bụi dính, dài tám ngón tay, phủ tới ngang vai, không dài không ngắn. Khi dân chúng ở đây khởi dục tâm thì người nam nhìn kỹ người nữ rồi bỏ đi, thế là người nữ theo sau, họ đi đến rừng cây, nếu người nữ đó là cốt nhục của người nam, không nên hành dâm thì cây không che phủ xuống và mỗi người tự ra đi. Ngược lại, nếu không phải là cốt nhục, có thể hành lạc được thì cây tự nhiên rủ xuống, phủ kín thân họ để họ tùy ý vui thú một ngày, hai ngày, cho đến bảy ngày rồi phân tán. Ở đây người nữ mang thai chỉ độ bảy ngày hay tám ngày là sanh sản. Khi trẻ thơ chào đời dù là trai hay gái, họ đều đem để tại ngã tư đường rồi bỏ đi, thế là mỗi người đi qua đều đưa ngón tay vào miệng đứa bé, tự nhiên có một chất sữa ngọt từ trong ngón tay tuôn ra để rót vào miệng đứa bé. Do đó, nó được no đủ, tình trạng này kéo dài đến hết ngày thứ bảy thì đứa bé to lớn bằng người khác. Nếu là con trai thì theo đoàn người nam; nếu là con gái thì theo đoàn người nữ. Dân chúng ở đấy, mỗi khi có người chết đi thì không ai khóc lóc, người ta trang sức tử thi, đem đặt ở ngã tư đường rồi bỏ đi. Có loài chim tên Ưu-ủy-thiền-già nhận tử thi ấy rồi mang đặt nơi khác. Khi dân chúng muốn đi tiểu tiện thì đất tự nhiên mở ra. Tiểu tiện xong thì đất khép lại. Dân chúng ở đây không có luyến tiếc, không chứa chấp tài sản, tuổi thọ luôn luôn cố định và sau khi qua đời đều được sanh về cõi trời. Tại sao tuổi thọ luôn luôn cố định? Vì kiếp trước họ tu mười hạnh lành, cho nên khi qua đời được sanh về cõi Uất-đơn-việt, tuổi thọ đúng một ngàn năm không tăng không giảm. Vì thế, tuổi thọ dân chúng ở đây bằng nhau. Lại nữa, nếu có kẻ sát sanh thì đọa vào đường ác, còn kẻ không sát sanh thì sanh vào cõi lành. Còn những kẻ trộm cắp, tà dâm, nói lời ly gián, nói lời độc ác, nói không chân thật, nói thêm bớt, tham lam, ganh ghét, tà kiến thì đọa vào đường ác. Còn kẻ không trộm cắp, không tà dâm, không nói lời ly gián, không nói độc ác, không nói dối, không nói lời thêm bớt, không tham lam, không ganh ghét, không tà kiến thì sẽ sanh về cõi lành. Nếu có người không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói lời ly gián, không nói lời độc ác, không nói dối, không nói thêm bớt, không tham lam, không ganh ghét, không tà kiến, sau khi qua đời, được sanh về châu Uất-đơn-việt, sống đúng một ngàn tuổi, không tăng không giảm. Do đó, tuổi thọ của họ bằng nhau. Lại nữa nếu kẻ keo kiệt, tham lam, không chịu bố thí thì sau khi qua đời sẽ đọa vào đường ác. Còn kẻ có tâm quảng đại, không keo kiệt, thường xuyên bố thí, được sanh về cõi lành. Nếu có kẻ cúng dường cho Sa-môn, Bà-la-môn, bố thí cho kẻ hành khất, bệnh hoạn khốn khổ như cung cấp cho y phục, thức ăn, thức uống, xe cộ, tràng hoa, nước thơm xoa mình, giường chõng, phòng xá, hoặc tạo lập tháp miếu, cúng dường đèn đuốc, người đó sau khi qua đời được sanh về châu Uất-đơn-việt, tuổi thọ đúng một ngàn, không tăng, không giảm. Cho nên dân chúng ở đây tuổi thọ bằng nhau. Tại sao gọi Uất-đơn-việt là thù thắng? Vì dân chúng ở đây không cần thọ thập thiện nhưng hành động tự nhiên phù hợp với thập thiện và sau khi qua đời, được sanh về cõi lành. Cho nên, con người ở đấy gọi là Thắng Uất-đơn-việt, nghĩa là thế nào? Là đối với ba cõi thiên hạ khác, châu này là tối thượng, tối thắng, cho nên gọi là Uất-đơn-việt.2
Chú thích:
2 Dịch giả thời Tần dịch Uất-đơn-việt (鬱單越) là tối thượng, tức là cao nhất.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.