Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 01 »
Kinh Trường A-Hàm
(長阿含經)
(Bản dịch của Trung tâm Dịch thuật Trí Tịnh)
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật cùng với đại chúng một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo ngụ tại tinh xá Câu-lợi,2 vườn Cấp Cô Độc, rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, sau khi thọ trai xong, các Tỳ-kheo nhóm họp tại giảng đường và cùng nhau bàn luận: “Này chư Hiền! Thật kỳ lạ thay, trời đất này do đâu mà tan hoại? Do đâu mà hình thành? Cõi nước chúng sanh đang sống thì như thế nào?”
Lúc đó, Thế Tôn đang ở nơi thanh vắng, bằng thiên nhĩ nghe suốt mọi việc nên Ngài biết các Tỳ-kheo sau khi thọ trai xong, nhóm họp tại giảng đường và bàn luận những việc như thế. Thế rồi, đức Thế Tôn rời khỏi nơi thanh vắng, đi đến giảng đường rồi ngồi xuống. Thế Tôn tuy biết nhưng vẫn hỏi các Tỳ-kheo:
– Vừa rồi, các thầy bàn luận về vấn đề gì?
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
– Bạch đức Thế Tôn! Sau khi thọ trai xong, chúng con nhóm họp tại giảng đường và cùng nhau bàn luận: “Này chư Hiền! Thật kỳ lạ thay, trời đất này do đâu mà tan hoại? Do đâu mà hình thành? Cõi nước chúng sanh đang sống thì như thế nào?” Chúng con nhóm họp ở giảng đường rồi cùng nhau bàn luận những điều như thế.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Lành thay, lành thay! Là người xuất gia nên thực hành hai việc: Thứ nhất, im lặng như Hiền thánh. Thứ hai, giảng giải về Chánh pháp. Các thầy nhóm họp tại giảng đường cũng nên học cách im lặng như Hiền thánh hoặc giảng giải về Chánh pháp. Này các Tỳ-kheo! Các thầy muốn nghe Như Lai nói về việc thành hoại của trời đất và các cõi nước của chúng sanh đang sinh sống không?
Các Tỳ-kheo bạch Phật:
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn! Nay thật đúng lúc, chúng con mong muốn được nghe. Kính xin Thế Tôn chỉ bày, nghe xong chúng con sẽ phụng trì!
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Hãy lắng nghe, lắng nghe và khéo suy nghĩ, Ta sẽ giảng nói cho các thầy.
Như mặt trời, mặt trăng tỏa ánh sáng chiếu quanh bốn thiên hạ,3 đó gọi là một thế giới. Trong ngàn thế giới như vậy có một ngàn mặt trời, mặt trăng; một ngàn núi chúa Tu-di;4 bốn ngàn thiên hạ, bốn ngàn thiên hạ lớn; bốn ngàn biển, bốn ngàn biển lớn; bốn ngàn loài rồng, bốn ngàn loài rồng lớn; bốn ngàn chim Cánh Vàng,5 bốn ngàn chim Cánh Vàng lớn; bốn ngàn đường ác,6 bốn ngàn đường ác lớn; bốn ngàn vị vua, bốn ngàn vị vua lớn; bảy ngàn cây lớn, tám ngàn địa ngục lớn, mười ngàn núi lớn; một ngàn Vua Diêm-la,7 một ngàn bốn trăm Thiên vương, một ngàn Đao-lợi thiên,8 một ngàn Diệm-ma thiên,9 một ngàn Đâu-suất thiên,10 một ngàn Hóa Tự Tại thiên,11 một ngàn Tha Hóa Tự Tại thiên12 và một ngàn Phạm thiên, đây gọi là một Tiểu thiên thế giới.13 Một ngàn Tiểu thiên thế giới là một Trung thiên thế giới.14 Một ngàn Trung thiên thế giới là Tam thiên đại thiên thế giới.15 Phạm vi thế giới thành hoại như thế là nơi chúng sanh cư trú, gọi đó là một cõi Phật.
[0114c08] Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Tầng đại địa này sâu một trăm sáu mươi tám ngàn do-tuần, ranh giới không bờ mé. Đất nương trên nước. Nước sâu ba ngàn không trăm ba mươi do-tuần, ranh giới vô hạn. Nước ở trên gió, gió dày sáu ngàn không trăm bốn mươi do-tuần, ranh giới vô hạn.
Này các Tỳ-kheo! Nước của biển lớn sâu tám mươi bốn ngàn do-tuần, bờ biển không có giới hạn. Phần chìm xuống biển của ngọn núi sâu đến tám mươi bốn ngàn do-tuần, núi cao cách mặt nước tám mươi bốn ngàn do-tuần, chân núi sát đất, phần lớn là đất cứng chắc. Ngọn núi thẳng đứng, không có lồi lõm, mọc đủ loại cây, cây cối tỏa hương thơm, xông khắp cả núi rừng. Nơi đây có nhiều bậc Hiền thánh và các vị trời thần diệu lớn lao cư ngụ. Dưới chân núi toàn là cát vàng, bốn phía núi có bốn gò đất cứng chắc nhô lên, cao bảy trăm do-tuần, có nhiều màu sắc xen lẫn, do bảy báu tạo thành. Bốn gò đất uốn cong sát mặt biển. Núi chúa Tu-di có đường bậc thang bằng bảy báu, bậc thang dưới cùng rộng dài sáu mươi do-tuần. Hai bên đường có bảy lớp tường báu, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng và bảy lớp hàng cây. Tường bằng vàng thì cửa bằng bạc, tường bằng bạc thì cửa bằng vàng, tường bằng thủy tinh thì cửa bằng lưu ly, tường bằng lưu ly thì cửa bằng thủy tinh, tường bằng xích châu thì cửa bằng mã não, tường bằng mã não thì cửa bằng xích châu, tường bằng xà cừ thì cửa bằng các thứ báu.
Lại nữa, lan can có cây ngang bằng vàng thì cây dọc bằng bạc, cây ngang bằng bạc thì cây dọc bằng vàng, cây ngang bằng thủy tinh thì cây dọc bằng lưu ly, cây ngang bằng lưu ly thì cây dọc bằng thủy tinh, cây ngang bằng xích châu thì cây dọc bằng mã não, cây ngang bằng mã não thì cây dọc bằng xích châu, cây ngang bằng xà cừ thì cây dọc bằng các loại báu.
Trên lan can ấy có mành lưới báu, dưới mành lưới vàng thì treo linh bằng bạc, dưới lưới bạc thì treo linh bằng vàng, dưới lưới lưu ly thì treo linh bằng thủy tinh, dưới lưới thủy tinh thì treo linh bằng lưu ly, dưới lưới xích châu thì treo linh bằng mã não, dưới lưới bằng mã não thì treo linh bằng xích châu, dưới lưới bằng xà cừ thì treo linh bằng các loại báu. Lại nữa, cây bằng vàng thì rễ và nhánh đều bằng vàng nhưng lá, hoa và quả bằng bạc. Cây bằng bạc thì rễ và nhánh đều bằng bạc nhưng lá, hoa và quả bằng vàng. Cây bằng thủy tinh thì rễ và nhánh đều bằng thủy tinh nhưng hoa và lá bằng lưu ly. Cây bằng lưu ly thì rễ và nhánh đều bằng lưu ly nhưng hoa và lá bằng thủy tinh. Cây bằng xích châu thì rễ và nhánh đều là xích châu nhưng hoa và lá bằng mã não. Cây bằng mã não thì rễ và nhánh đều là mã não nhưng hoa và lá bằng xích châu. Cây bằng xà cừ thì rễ và nhánh đều là xà cừ nhưng hoa và lá bằng các loại báu.
[0115a05] Còn bảy lớp tường ấy, mỗi lớp tường đều có bốn cửa, mỗi cửa có lan can. Trên bảy lớp tường đều có lầu gác, nhà cửa, bao bọc xung quanh bởi khu vườn, ao tắm với các loài hoa lá báu, cây báu xếp thành hàng, hoa quả tốt tươi, gió đưa hương thơm tỏa khắp bốn phương làm vui đẹp lòng người, có vô số loài chim như le le, nhạn, uyên ương và các loài chim kỳ lạ cùng cất tiếng hót vang.
Lại nữa, con đường bậc thang ở giữa núi chúa Tu-di rộng bốn mươi do-tuần, hai bên đường đều có bảy lớp tường báu, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, cho đến vô số loài chim cùng cất tiếng hót vang, cũng như tầng bậc thang dưới núi. Tầng bậc thang trên cùng rộng hai mươi do-tuần, hai bên đường có bảy lớp tường báu, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, cho đến vô số các loài chim cùng cất tiếng hót vang, cũng như tầng bậc thang ở giữa.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Tầng bậc thang dưới núi có quỷ thần tên Già-lầu-la-túc cư ngụ. Tầng bậc thang giữ a có quỷ thần tên Trì Man cư ngụ. Tầng bậcc thang trên cùng có quỷ thần tên Hỷ Lạc cư ngụ. Bốn gò đất cứng chắc nhô lên cao bốn mươi hai ngàn do-tuần, có cung điện của Tứ Thiên Vương cư trú, có bảy lớp tường báu, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây và các lớp linh báu cho đến vô số các loài chim cùng cất tiếng hót, cũng lại như thế.
Trên đỉnh núi Tu-di có cung trời Ba Mươi Ba, có bảy lớp tường báu, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, cho đến vô số các loài chim cùng cất tiếng hót, cũng lại như thế.
Vượt lên cõi trời Ba Mươi Ba một do-tuần thì có cung trời Diệm-ma. Vượt lên cung trời Diệm-ma một do-tuần thì có cung trời Đâu-suất. Vượt lên cung trời Đâu-suất một do-tuần thì có cung trời Hóa Tự Tại. Vượt lên cung trời Hóa Tự Tại một do-tuần thì có cung trời Tha Hóa Tự Tại. Vượt lên cung trời Tha Hóa Tự Tại một do-tuần thì có cung trời Phạm-ca-di. Khoảng giữa cung trời Tha Hóa Tự Tại và cung trời Phạm-ca-di có cung Ma thiên cao rộng sáu ngàn do-tuần, cung này có bảy lớp tường thành, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, cho đến vô số các loài chim cùng cất tiếng hót, cũng lại như thế.
Vượt lên cung trời Phạm-ca-di một do-tuần thì có cung trời Quang Âm. Vượt lên cung trời Quang Âm một do-tuần thì có cung trời Biến Tịnh. Vượt lên cung trời Biến Tịnh một do-tuần thì có cung trời Quả Thật. Vượt lên cung trời Quả Thật một do-tuần thì có cung trời Vô Tưởng. Vượt lên cung trời Vô Tưởng một do-tuần thì có cung trời Vô Tạo. Vượt lên cung trời Vô Tạo một do-tuần thì có cung trời Vô Nhiệt. Vượt lên cung trời Vô Nhiệt một do-tuần thì có cung trời Thiện Kiến. Vượt lên cung trời Thiện Kiến một do-tuần thì có cung trời Đại Thiện Kiến. Vượt lên cung trời Đại Thiện Kiến một do-tuần thì có cung trời Sắc Cứu Cánh. Vượt lên cung trời Sắc Cứu Cánh thì có trời Không Xứ Trí,16 trời Thức Xứ Trí,17 trời Vô Sở Hữu Xứ Trí,18 trời Hữu Tưởng Vô Tưởng Xứ Trí,19 ngang đây gọi là giới hạn của chúng sanh, là thế giới của chúng sanh, tất cả sự sanh, già, bệnh, chết, thọ ấm, thọ hữu của chúng sanh đều ở trong giới hạn này, không thể vượt qua.
[0115b13] Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Phía Bắc núi Tu-di có một cõi thiên hạ tên là Uất-đan-việt,20 mặt đất nơi đây vuông vức, dài và rộng mười ngàn do-tuần, mặt người cũng vuông giống như hình thể mặt đất.
Phía Đông núi Tu-di có một cõi thiên hạ tên là Phất-vu-đãi,21 địa hình tròn trịa, dài và rộng chín ngàn do-tuần, mặt người cũng tròn giống như hình thể mặt đất.
Phía Tây núi Tu-di có một cõi thiên hạ tên là Câu-da-ni,22 địa hình như nửa mặt trăng, dài và rộng tám ngàn do-tuần, mặt người cũng giống như hình thể mặt đất.
Phía Nam núi Tu-di có một cõi thiên hạ tên là Diêm-phù-đề,23 địa hình phía Nam hẹp, phía Bắc rộng, dài và rộng bảy ngàn do-tuần, mặt người cũng giống như hình thể mặt đất.
Phía Bắc núi Tu-di có ánh sáng được tạo thành từ vàng của cõi trời, chiếu sáng phương Bắc. Phía Đông núi Tu-di có ánh sáng được tạo thành từ bạc của cõi trời, chiếu sáng phương Đông. Phía Tây núi Tu-di có ánh sáng được tạo thành từ thủy tinh của cõi trời, chiếu sáng phương Tây. Phía Nam núi Tu-di có ánh sáng được tạo thành từ lưu ly của cõi trời, chiếu sáng phương Nam.
Châu Uất-đan-việt có một cây lớn tên Am-bà-la cao một trăm do-tuần, thân to bảy do-tuần, cành lá che phủ một vùng năm mươi do-tuần. Châu Phất-vu-đãi có cây lớn tên Già-lam-phù cao một trăm do-tuần, thân to bảy do-tuần, cành lá che phủ một vùng năm mươi do-tuần. Châu Câu-da-ni có cây lớn tên Cân-đề cao một trăm do-tuần, thân to bảy do-tuần, cành lá che phủ một vùng năm mươi do tuần, dưới cây ấy có tảng đá Thạch Ngưu Tràng24 cao một do-tuần. Châu Diêm-phù-đề có một cây lớn tên Diêm-phù cao một trăm do-tuần, thân to bảy do-tuần, cành lá che phủ một vùng năm mươi do-tuần. Chim Cánh Vàng chúa và long vương có loài cây lớn tên Câu-lợi-thiểm-bà-la cao một trăm do-tuần, thân to bảy do-tuần, cành lá che phủ bốn bên năm mươi do-tuần.
Vua a-tu-la có loài cây tên Thiện Trú cao một trăm do-tuần, thân to bảy do-tuần, cành lá che phủ bốn phía năm mươi do-tuần. Trời Đao-lợi có cây tên Trú Độ cao một trăm do-tuần, thân to bảy do-tuần, cành lá che phủ bốn phía năm mươi do-tuần.
[0115c07] Bên cạnh núi Tu-di có núi tên Già-đà-la cao bốn mươi hai ngàn do-tuần, ngang dọc bốn mươi hai ngàn do-tuần, biên giới rộng xa, nhiều màu đan xen, do bảy báu tạo thành. Núi này cách núi Tu-di tám mươi bốn ngàn do-tuần, giữa hai núi ấy mọc nhiều loại hoa sen như hoa ưu-bát-la,25 bát-đầu-ma,26 câu-vật-đầu,27 phân-đà-lợi,28 lau, tùng, trúc mọc trong đó, tỏa ra các loại hương, mùi hương lan tỏa khắp nơi. Cách núi Khư-đà-la không xa có ngọn núi tên Y-sa-đà-la cao hai mươi mốt ngàn do-tuần, ngang dọc hai mươi mốt ngàn do-tuần, biên giới rộng xa, nhiều màu đan xen, do bảy báu tạo thành. Núi này cách núi Khư-đà-la khoảng bốn mươi hai ngàn do-tuần, giữa hai núi ấy mọc nhiều loại hoa sen như hoa ưu-bát-la, bát-đầu-ma, câu-vật-đầu, phân-đà-lợi, lau, tùng, trúc mọc trong đó, tỏa ra các loại hương, mùi hương lan tỏa khắp nơi. Cách núi Y-sa-đà-la không xa có núi tên Thọ-cự-đà-la, cao mười hai ngàn do-tuần, ngang dọc mười hai ngàn do-tuần, biên giới rộng xa, nhiều màu đan xen, do bảy báu tạo thành. Núi này cách núi Y-sa-đà-la khoảng hai mươi mốt ngàn do-tuần, giữa hai núi ấy mọc toàn các loại hoa sen như hoa ưu-bát-la, bát-đầu-ma, câu-vật-đầu, phân-đà-lợi, lau, tùng, trúc mọc trong đó, tỏa ra các loại hương, mùi hương lan tỏa khắp núi rừng. Cách núi Thọ-cự-đà-la không xa, có núi tên Thiện Kiến cao sáu ngàn do-tuần, ngang dọc sáu ngàn do-tuần, biên giới rộng xa, nhiều màu đan xen, do bảy báu tạo thành. Núi này cách núi Thọ-cự-đà-la mười hai ngàn do-tuần, khoảng giữa hai ngọn núi này mọc bốn loại hoa sen xen lẫn, lau, tùng, trúc cũng mọc trong đó, tỏa ra các loại hương, mùi hương lan tỏa khắp núi rừng.
Cách núi Thiện Kiến không xa, có núi tên Mã Thực cao ba ngàn do-tuần, ngang dọc ba ngàn do-tuần, biên giới rộng xa, nhiều màu đan xen, do bảy báu tạo thành. Núi này cách núi Thiện Kiến khoảng sáu ngàn do-tuần, giữa hai ngọn núi này mọc bốn loại hoa sen xen lẫn, lau, tùng, trúc cũng mọc trong đó, tỏa ra các loại hương, mùi hương lan tỏa khắp nơi. Cách núi Mã Thực không xa có núi tên Ni-dân-đà-la cao một ngàn hai trăm do-tuần, ngang dọc một ngàn hai trăm do-tuần, biên giới rộng xa, nhiều màu đan xen, do bảy báu tạo thành. Núi này cách núi Mã Thực ba ngàn do-tuần, khoảng giữa hai ngọn núi này mọc bốn loại hoa sen xen lẫn, lau, tùng, trúc cũng mọc trong đó, tỏa ra các loại hương, mùi hương lan tỏa khắp nơi.
Lại cách núi Ni-dân-đà-la không xa, có núi tên là Điều Phục cao sáu trăm do-tuần, ngang dọc sáu trăm do-tuần, biên giới rộng xa, nhiều màu đan xen, do bảy báu tạo thành. Núi này cách núi Ni-dân-đà-la khoảng một ngàn hai trăm do-tuần, khoảng giữa hai ngọn núi này mọc bốn loại hoa sen xen lẫn, lau, tùng, trúc cũng mọc trong đó, tỏa ra các loại hương, mùi hương lan tỏa khắp nơi. Cách núi Điều Phục không xa có núi tên Kim Cang Vi cao ba trăm do-tuần, ngang dọc ba trăm do-tuần, biên giới rộng xa, nhiều màu đan xen, do bảy báu tạo thành. Lại cách núi Điều Phục sáu trăm do-tuần, giữa hai ngọn núi này có bốn loại hoa sen mọc xen lẫn, lau, tùng, trúc cũng mọc trong đó, tỏa ra các loại hương, mùi hương lan tỏa khắp nơi.
[0116a14] Lại cách núi Đại Kim Cang không xa có biển lớn. Bờ phía Bắc của biển lớn này có một cây to lớn tên Diêm-phù, cao một trăm do-tuần, thân to bảy do-tuần, cành lá che phủ bốn bên năm mươi do-tuần, khoảng đất trống hai bên lại có rừng cây tên là Am-bà-la, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Diêm-bà, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên Sa-la ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Đa-la, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Na-đa-la, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Vi Nam, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Vi Nữ, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Nam Nữ, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Tán-na ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Chiên-đàn, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Khư-thù-la ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Ba-nại-bà-la ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Tỳ-la, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Hương Nại, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Vi Lê, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là An Thạch Lưu, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Vi Cam, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Ha-lê-lặc, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Tỳ-hê-lặc, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây A-ma-lặc, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là A-ma-lê, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Nại, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Cam-giá, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Vi, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Trúc, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Xá-la, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Xá-la-nghiệp, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Mộc Qua, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Đại Mộc Qua, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Giải Thoát Hoa, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Chiêm-bà, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Bà-la-la, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Tu-ma-na, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Bà-sư, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Đa-la-lê, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Già-da, ngang dọc năm mươi do-tuần; lại có rừng cây tên là Bồ Đào, ngang dọc năm mươi do-tuần.
[0116b19] Qua khỏi những khu rừng ấy là khoảng đất trống. Trong khoảng đất trống ấy lại có ao trồng hoa, ngang dọc năm mươi do-tuần. Lại có các ao trồng hoa sen như hoa ưu-bát-la, bát-đầu-ma, câu-vật-đầu, phân-đà-lợi, rắn độc ở đầy trong đó, mỗi ao ngang dọc năm mươi do-tuần.
Qua khỏi vùng đất trống ấy là khoảng đất trống nữa. Trong khoảng đất trống ấy có biển lớn tên là Uất-thiền-na. Dưới đá y biển có con đường của Chuyển Luân Thánh Vương, rộng mười hai do-tuần. Hai bên đường có bảy lớp tường thà nh, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây, chung quanh đều được trang hoàng bằng bảy báu.
Khi Chuyển Luân Thánh Vương xuất hiện trong cõi Diêm-phù-đề thì nước tự nhiên rút hết, con đường này hiện ra. Cách biển này không xa có núi tên là Uất-thiền, dáng núi vững chãi, cây cối xanh tươi, hoa trái sum suê, tỏa hương thơm ngát, đủ các chủng loại cầm thú, nương ở khắp nơi. Cách núi Uất-thiền không xa, lại có núi Kim Bích, bên trong núi có tám mươi ngàn hang động, mỗi hang động có tám mươi ngàn voi chúa ở trong đó, thân của chúng thuần màu trắng, đầu có nhiều màu sắc, miệng có sáu ngà, răng có cẩn vàng. Qua khỏi núi Kim Bích có núi Tuyết, núi này dài rộng năm trăm do-tuần, chân núi cắm sâu vào lòng đất năm trăm do-tuần, phía Đông và Tây nhập vào biển. Giữa núi Tuyết lại có tò a núi báu, cao hai mươi do-tuần.
[0116c05] Tầng đất cứng núi Tuyết nhô lên cao một trăm do-tuần. Trên đỉnh núi Tuyết có hồ A-nậu-đạt,29 ngang dọc năm mươi do-tuần, nước hồ rất trong mát, không có cặn bẩn, quanh bờ được lát nền bằng bảy báu, bảy lớp lan can, bảy lớp mành lưới, bảy lớp hàng cây, mỗi loại màu sắc khác nhau, đều do bảy báu hợp thành. Nếu trụ lan can bằng vàng thì tay vịn bằng bạc, lan can bằng bạc thì tay vịn bằng vàng, lan can bằng lưu ly thì tay vịn bằng thủy tinh, lan can bằng thủy tinh thì tay vịn bằng lưu ly, lan can bằng xích châu thì tay vịn bằng mã não, lan can bằng mã não thì tay vịn bằng xích châu, lan can bằng xà cừ thì tay vịn bằng các loại báu. Lưới bằng vàng thì treo linh bằng bạc, lưới bằng bạc thì treo linh bằng vàng, lưới bằng lưu ly thì treo linh bằng thủy tinh, lưới bằng thủy tinh thì treo linh bằng lưu ly, lưới bằng xà cừ thì treo linh bằng bảy thứ báu.
Cây Đa-la bằng vàng thì gốc và cành cũng bằng vàng nhưng lá và quả bằng bạc; cây Đa-la bằng bạc thì gốc và cành đều bằng bạc nhưng lá và quả bằng vàng; cây bằng thủy tinh thì gốc và cành đều là thủy tinh nhưng hoa và quả bằng lưu ly; cây bằng xích châu thì gốc và cành đều bằng xích châu nhưng lá, hoa và quả bằng mã não; cây bằng xà cừ thì gốc và cành đều bằng xà cừ nhưng hoa và quả bằng các loại báu.
Bên bờ hồ A-nậu-đạt đều có vườn cảnh, ao tắm, các loài hoa mọc thành từng khóm, các loại cây lá, hoa quả đều tốt tươi, các loại hương thơm lan tỏa bốn phương, có vô số loài chim cùng nhau ca hót.30 Đáy hồ toàn là cát vàng, bốn bên hồ đều có bậc thềm. Bậc bằng vàng thì thềm bằng bạc, bậc bằng bạc thì thềm bằng vàng, bậc bằng lưu ly thì thềm bằng thủy tinh, bậc bằng thủy tinh thì thềm bằng lưu ly, bậc bằng xích châu thì thềm bằng mã não, bậc bằng mã não thì thềm bằng xích châu, bậc bằng xà cừ thì thềm bằng các loại báu. Bao bọc xung quanh hồ đều có lan can, quanh thềm mọc bốn loài hoa màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng và hoa nhiều màu đan xen. Hoa trong ao lớn như bánh xe, cọng như trục xe, nước ép từ ngó hoa có màu trắng như sữa, vị ngọt như mật.
Phía Đông hồ A-nậu-đạt có miệng Trâu, tuôn nước ra thành sông Hằng-già,31 sông này cùng với năm trăm nhánh sông đều đổ ra biển Đông. Phía Nam của hồ có miệng Sư tử tuôn nước ra thành sông Tân-đầu,32 sông này cùng với năm trăm nhánh sông đều đổ ra biển Nam. Phía Tây hồ A-nậu-đạt có miệng Ngựa, tuôn nước ra thành sông Bà -xoa,33 sông này cùng với năm trăm nhánh sông đều đổ ra biển Tây. Phía Bắc hồ có miệng Voi, tuôn nước ra thành sông Tư-đà,34 sông này cùng với năm trăm nhánh sông đều đổ vào biển Bắc.35 Trong cung A-nậu-đạt có ngôi nhà do năm trụ chống đỡ, là nơi rồng chúa A-nậu-đạt thường cư trú.
[0117a01] Đức Phật dạy:
– Vì sao gọi là A-nậu-đạt? A-nậu-đạt có nghĩa là gì? Tất cả rồng chúa ở cõi Diêm-phù đều có ba nỗi thống khổ, chỉ có rồng chúa ở hồ A-nậu-đạt là hoàn toàn không có. Ba nỗi thống khổ đó là:
Thứ nhất, toàn thể rồng chúa ở cõi Diêm-phù-đề đều bị gió nóng, cát nóng, đốt cháy da thịt đến tận xương tủy làm cho khổ não, chỉ có rồng chúa ở hồ A-nậu-đạt là không bị tai họa này.
Thứ hai, toàn thể rồng chúa ở cõi Diêm-phù-đề đều bị những cơn lốc xoáy dữ dội thổi vào trong cung, bay mất y báu phục sức, thân rồng lộ ra, khiến cho đau khổ phiền não, chỉ có rồng chúa ở hồ A-nậu-đạt là không bị tai họa này.
Thứ ba, toàn thể rồng chúa ở cõi Diêm-phù-đề, khi ở trong cung vui chơi đều bị chim Cánh Vàng bay vào cung bắt đi, hoặc lúc rồng mới sanh, bị chim Cánh Vàng tìm cách bắt ăn thịt, khiến cho các loài rồng lo sợ, thường ôm lòng khổ não, chỉ có rồng chú a ở hồ A-nậu-đạt là hoàn toàn không có tai họa này.
Nếu chim Cánh Vàng khởi ý nghĩ muốn đến cung rồng ở hồ A-nậu-đạt thì chim liền mạng chung, cho nên có tên A-nậu-đạt.
Phật bảo Tỳ-kheo:
– Bên phải của núi Tuyết có thành tên là Tỳ-xá-ly, phía Bắc thành có bảy núi Đen,36 phía Bắc núi Đen lại có núi Hương.37 Trên núi này thường có tiếng kỹ nhạc đàn ca, hát xướng. Trong núi có hai hang động: Một hang động tên là Trú, còn hang động thứ hai tên là Thiện Trú đều do bảy báu cõi trời tạo thành, thơm sạch, mềm mại như áo trời. Vua càn-thát-bà Diệu Âm cùng với năm trăm càn-thát-bà ngụ trong núi đó . Phía Bắc hang động Trú và Thiện Trú có cây Sa-la cao lớn tên Thiện Trụ và có tám ngàn cây cao lớn bao quanh bốn phía. Bên gốc cây cao lớn Thiện Trụ có voi chúa cũng tên Thiện Trụ nương ở gốc cây này. Thân thể voi chúa thuần trắng, bảy chỗ đều đầy đặn,38 có khả năng bay trong hư không. Đầu voi màu đỏ, lông có nhiều màu, sáu ngà thon dài, khoảng giữa được cẩn vàng, có tám ngàn voi đi theo xung quanh. Dưới tám ngàn cây cao lớn ấy có tám ngàn voi, cũng lại như thế.
Phía Bắc cây cao lớn Thiện Trụ có ao tắm lớn tên Ma-đà-diên, ngang dọc năm mươi do-tuần. Lại có tám ngàn ao tắm phụ bao bọc xung quanh, nước trong những ao đó trong sạch mát mẻ, không chút cặn bẩn, bốn bờ ao được lát bằng bảy báu bao bọc xung quanh. Ao có bảy lớp lan can bao quanh, bảy lớp lưới giăng, bảy lớp hàng cây đều do bảy báu tạo thành.
Lan can bằng vàng thì tay vịn bằng bạc, lan can bằng bạc thì tay vịn bằng vàng, lan can bằng thủy tinh thì tay vịn bằng lưu ly, lan can bằng lưu ly thì tay vịn bằng thủy tinh, lan can bằng xích châu thì tay vịn bằng mã não, lan can bằng mã não thì tay vịn bằng xích châu, lan can bằng xà cừ thì tay vịn bằng các loại báu. Dưới mành lưới bằng vàng thì treo linh bằng bạc, dưới mành lưới bằng bạc thì treo linh bằng vàng, dưới mành lưới bằng thủy tinh thì treo linh bằng lưu ly, dưới mành lưới bằng lưu ly thì treo linh bằng thủy tinh, dưới mành lưới bằng xích châu thì treo linh bằng mã não, dưới mành lưới bằng mã não thì treo linh bằng xích châu, dưới mành lưới bằng xà cừ thì treo linh bằng các loại báu.
Cây bằng vàng thì gốc và nhánh đều bằng vàng nhưng lá, hoa và trái bằng bạc. Cây bằng bạc thì gốc và nhánh bằng bạc nhưng lá, hoa và trái bằng vàng. Cây bằng thủy tinh thì gốc và cành bằng thủy tinh nhưng hoa và trái bằng lưu ly. Cây bằng lưu ly thì gốc và nhánh bằng lưu ly nhưng hoa và trái bằng thủy tinh. Cây bằng xích châu thì gốc và nhánh bằng xích châu nhưng hoa và trái bằng mã não. Cây bằng mã não thì gốc và nhánh bằng mã não nhưng hoa và trái bằng xích châu. Cây bằng xà cừ thì gốc và nhánh bằng xà cừ nhưng hoa và trái bằng các loại báu.
[0117b10] Lại nữa, dưới đáy ao trải đầy cát vàng, bao bọc quanh ao có đường bậc thang bằng bảy báu, thềm bằng vàng thì cấp bằng bạc, thềm bằng bạc thì cấp bằng vàng, thềm bằng thủy tinh thì cấp bằng lưu ly, thềm bằng lưu ly thì cấp bằng thủy tinh, thềm bằng xích châu thì cấp bằng mã não, thềm bằng mã não thì cấp bằng xích châu, thềm bằng xà cừ thì cấp bằng bảy báu. Sát hai bên bậc thềm có lan can báu. Lại nữa, trong ao có bốn loài hoa màu xanh, vàng, đỏ, trắng và nhiều màu đan xen. Hoa lớn như bánh xe, cọng như trục xe, rễ hoa ra nhựa có màu trắng như sữa, vị ngọt như mật. Chung quanh bốn mặt ao đều có vườn cảnh, rừng cây, ao tắm, các thứ hoa nở rộ, cây cối mát mẻ, hoa trái sum suê; lại có vô số loài chim cùng nhau ca hót, như đã kể trên.
Voi chúa Thiện Trụ có ý muốn dạo chơi, lúc vào ao tắm liền nghĩ đến tám ngàn voi khác. Khi ấy, tám ngàn voi lại tự nghĩ: “Voi chúa Thiện Trụ đang nghĩ đến chúng ta, chúng ta nên đến chỗ voi chúa.” Thế rồi, đàn voi liền đi đến đứng trước voi chúa. Lúc đó , tám ngàn voi kia theo voi chúa Thiện Trụ đến ao Ma-đà-diên. Trong đàn voi ấy, có con dùng vòi quấn lọng che voi chúa, có con dùng vòi quấn quạt báu quạt cho voi chúa, có con tấu xướng kỹ nhạc đi trước mở đường. Voi chúa Thiện Trụ vào ao tắm rửa, tấu xướng kỹ nhạc, cùng nhau vui chơi, có con rửa vòi cho voi chúa, có con rửa miệng, rửa đầu; có con rửa ngà, rửa tai, rửa bụng, kỳ lưng, rửa đuôi, rửa chân. Trong đó có con nhổ gốc hoa rửa sạch dâng voi chúa ăn, có con lấy bốn loại hoa rải trên voi chúa. Sau khi tắm rửa, ăn uống và cùng nhau vui chơi xong, voi chúa Thiện Trụ lên bờ đến đứng bên cây Thiện Trụ thì tá m ngàn voi kia đều vào ao tắm rửa, ăn uống cùng nhau vui chơi xong, lên bờ rồi đến chỗ voi chúa đứng.
Khi ấy, voi chúa cùng tám ngàn voi tùy tùng vây quanh đi đến chỗ cây Thiện Trụ cao lớn. Trên đường đi, trong đàn voi có con dùng vòi quấn lọng che voi chúa, có con dùng vòi quấn quạt để quạt cho voi chúa, có con tấu xướng kỹ nhạc đi trước mở đường. Khi voi chúa Thiện Trụ đến cây Thiện Trụ cao lớn rồi ngồi, nằm, đi, đứng thỏa thích thì tám ngàn voi tùy tùng cũng ở bên các cây tự do ngồi, nằm, đi, đứng tùy ý. Trong rừng cây ấy, có cây cao tám tầm, có cây cao chín tầm cho đến cây cao mười tầm, mười lăm tầm, chỉ có cây Ta-la chúa của voi chúa Thiện Trụ cao mười sáu tầm. Khi cành lá của tám ngàn cây Ta-la này rụng xuống thì có luồng gió mát mẻ thổi lùa cành lá rụng ra ngoài khu rừng, rồi khi tám ngàn con voi đại tiểu tiện thì có các quỷ dạ-xoa đến hốt bỏ bên ngoài khu rừng.
Đức Phật bảo:
– Các Tỳ-kheo nên biết, voi chúa Thiện Trụ có thần lực lớn và công đức như thế, tuy là loài súc sanh nhưng vẫn hưởng được phước như vậy.
Chú thích
1 Nguyên tác: Thế ký kinh “Diêm-phù-đề châu phẩm” 世記經閻浮提州品 (T.01. 0001.30.1. 0114b07).
2 Câu-lợi quật (俱利窟, Karerikuṭikā) còn gọi là Hoa Lâm quật (花林窟). Xem chú thích 2, kinh số 1, tr. 489.
3 Nguyên tác: Tứ thiên hạ (四天下), là 4 đại châu nằm bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc núi Tu-di.
4 Tu-di sơn vương (須彌山王, Sumeru pabbatarājā).
5 Kim Sí điểu (金翅鳥, Garuḍa), loài chim Cánh Vàng.
6 Nguyên tác: Ác đạo (惡道), chỉ cho các hướng tái sanh xấu ở cõi địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh.
7 Diêm-la vương (閻羅王), gọi tắt là Diêm vương, vua của địa ngục.
8 Đao-lợi thiên (忉利天, Tāvatiṃsa) tức Tam Thập Tam thiên (三十三天), tầng thứ 2 trong cõi trời Dục giới (欲界).
9 Diệm-ma thiên (焰摩天, Yama), tầng thứ 3 trong cõi trời Dục giới.
10 Đâu-suất thiên (兜率天, Tusita), tầng thứ 4 trong cõi trời Dục giới.
11 Hóa Tự Tại thiên (化自在天, Nimmānaratī) còn gọi là Hóa Lạc thiên (化樂天), tầng thứ 5 trong cõi trời Dục giới.
12 Tha Hóa Tự Tại thiên (他化自在天, Paranimmitavasavattī), tầng thứ 6 trong cõi trời Dục giới.
13 Tiểu thiên thế giới (小千世界, sahassadhā lokadhātu): Ngàn thế giới nhỏ .
14 Trung thiên thế giới (中千世界, dvisahassī majjhimikā lokadhātu hay sahassa majjhimakā lokadhātu): Một ngàn thế giới bậc trung. Một Trung thiên thế giới = 1.000 Tiểu thiên thế giới, tức = 1.000 x 1.000 = 1.000.000 thế giới.
15 Tam thiên đại thiên thế giới (三千大千世界, tisahassī mahāsahassī lokadhātu): Ba ngàn thế giới to lớn.
16 Không Xứ Trí thiên (空處智天). Theo Câu-xá luận 俱舍論 (T.29. 1558. 08. 0041a02) là Không Vô Biên Xứ thiên (空無邊處天, Ākāsānañcāyatanūpagā devā).
17 Thức Xứ Trí thiên (識處智天). Theo Câu-xá luận (nt) là Thức Vô Biên Xứ thiên (識無邊處天, Viññāṇañcāyatanūpagā).
18 Vô Sở Hữu Trí thiên (無所有智天). Theo Câu-xá luận (nt) là Vô Sở Hữu Xứ thiên (無所有處天, Ākiñcaññāyatanūpagā).
19 Hữu Tưởng Vô Tưởng Xứ Trí (有想無想處智). Theo Câu-xá luận (nt) là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ thiên (非想非非想處天, Nevasaññāsaññāyatanūpagā).
20 Uất-đan-việt (鬱單越, Uttarakuru): Bắc Câu-lô châu (北拘盧洲).
21 Phất-vu-đãi (弗于逮, Pubbavideha) còn gọi là Phất-bà-đề (弗婆提), Phất-ư-đãi (弗於逮): Đông Thắng-thần châu (東勝神洲).
22 Câu-da-ni (俱耶尼, Aparagoyāna) hoặc Cù-đà-ni-da (瞿陀尼耶): Tây Ngưu-hóa châu (西牛貨洲).
23 Diêm-phù-đề (閻浮提, Jambudīpa): Nam Thiệm-bộ châu (南贍部洲).
24 Thạch Ngưu Tràng (石牛幢). Tham chiếu: Khởi thế nhân bổn kinh 起世因本經 (T.01. 0025. 0365a11) ghi: Dưới gốc cây có một con bò bằng đá (石牛); Đại lâu thán kinh 大樓炭經 (T.01. 0023. 0277a03) ghi: Trên cây có một con bò bằng đá.
25 Ưu-bát-la (優鉢羅, uppala): Hoa sen xanh.
26 Bát-đầu-ma (鉢頭摩, paduma): Hoa sen đỏ.
27 Câu-vật-đầu (俱物頭, kumuda): Hoa sen vàng.
28 Phân-đà-lợi (分陀利, pundarīka): Hoa sen trắng.
29 A-nậu-đạt (阿耨達, Anotatta) còn gọi là hồ Vô Nhiệt (無熱), Vô Não Nhiệt (無惱熱), nghĩa là không bị sức nóng làm cho khổ não.
30 Nguyên tác: Chư điểu ai minh tương hòa (諸鳥哀鳴相和).
31 Hằng-già hà (恒伽河, Gaṅgā), sông Hằng, con sông linh thiêng ở Ấn Độ.
32 Tân-đầu hà (新頭河) còn gọi là sông Tín-độ (信度河, Sindhu), một nhánh của sông Yamunā, con sông lớn thứ 2 sau sông Hằng.
33 Bà-xoa hà (婆叉河, S. Vakṣu) còn gọi là Phược-sô hà (嚩芻河), Bà-thâu hà (婆輸河), Hòa-xoa hà (和叉河),..., ngày nay gọi là sông Amu Darya.
34 Tư-đà hà (斯陀河, Sītī) còn gọi là Đà hà (陀河), Tư-đà hà (斯陀河) Tư-đa hà (斯多河), Tất-đà hà (悉陀河).
35 Bốn con sông lớn này và các chi lưu còn được ghi nhận trong A-tỳ-đạt-ma Đại-tỳ-bà-sa luận 阿毘達磨大毘婆沙論 (T.27. 1545.5. 0021a14).
36 Nguyên tá c: Hắc sơn (黑山), là tên một ngọn núi. Núi này tối đen. Câu-xá luận 俱舍論 (T.29. 1558.11. 0058a18) ghi: Phía Bắc Nam Thiệm-bộ châu (南贍部洲, Jambudīpa), 3 chỗ đều có 3 lớp Hắc sơn. Nơi ấy tối tăm, là chỗ ở của các ác quỷ.
37 Hương sơn (香山), địa danh, là nơi nằm phía Bắc sông Vô Nhiệt (無熱, Anotatta), thuộc trung tâm tối cao của châu Diêm-phù-đề (閻浮提洲, Jambudīpa).
38 Thất xứ bình trụ (七處平住). Tam thập nhị tướng kinh 三十二相經 (T.01. 0026.59. 0494a01) ghi là “thất xứ mãn” (七處滿): 2 chân trước, 2 chân sau, 2 vai và cổ (兩手,兩足,兩肩及頸).
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.