Viện Nghiên Cứu Phật Học

  30. KINH THẾ KÝ

  1. PHẨM CHÂU DIÊM-PHÙ-ĐỀ

 

Tôi nghe như vậy:

Một thời, đức Phật cùng đông đủ đại chúng Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị đều trú tại động Câu-lợi, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Độc, thuộc nước Xá-vệ.

Sau khi thọ trai xong, các Tỳ-kheo tập hợp tại giảng đường và bàn luận như sau: “Này chư Hiền, thật là kỳ lạ, trời đất vì lý do gì mà hoại? Vì lý do gì mà thành? Quốc độ mà chúng sanh ở như thế nào?”

Lúc đó, đức Phật đang ngự nơi thanh vắng, với thiên nhĩ thông suốt nghe câu chuyện mà các Tỳ-kheo đã tụ tập bàn luận ở trong giảng đường, sau khi thọ trai xong. Khi ấy, đức Thế Tôn rời khỏi động thanh vắng, đi đến giảng đường và ngồi tại đấy, dù đã biết nhưng Ngài vẫn hỏi:

– Này các Tỳ-kheo, nãy giờ các ông đã bàn luận việc gì?

Các Tỳ-kheo thưa:

– Bạch đức Thế Tôn, sau khi thọ trai xong, chúng con tập hợp tại giảng đường và bàn luận như sau: “Này chư Hiền, thật kỳ lạ, trời đất vì lý do gì mà hoại? Vì lý do gì mà thành? Quốc độ mà chúng sanh ở như thế nào?” Chúng con tập hợp tại giảng đường mà bàn luận các vấn đề ấy.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Hay lắm, hay lắm! Phàm người xuất gia phải nên thực hành hai việc: Một là im lặng như Hiền thánh, hai là giảng luận pháp ngữ. Các ông đã tập hợp tại giảng đường cũng nên im lặng như Hiền thánh hoặc là giảng luận các pháp ngữ. Này các Tỳ-kheo, các ông muốn nghe đức Như Lai trình bày về sự thành hoại của trời, đất và quốc độ, thành ấp mà chúng sanh ở chăng?

Các Tỳ-kheo bạch Phật:

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn, nay chính là hợp thời, chúng con muốn nghe và sau khi đức Phật dạy xong, chúng con sẽ phụng trì!

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Hãy lắng nghe, hãy lắng nghe! Hãy suy nghĩ và ghi nhớ, Ta sẽ nói cho các ông nghe! 

Như có một mặt trời, một mặt trăng vận hành và chiếu sáng khắp bốn châu thiên hạ, như thế trong một ngàn thế giới như vậy thì có ngàn mặt trời, ngàn mặt trăng, một ngàn núi chúa Tu-di, bốn ngàn thiên hạ, bốn ngàn thiên hạ lớn, bốn ngàn biển nước, bốn ngàn biển lớn, bốn ngàn loài rồng, bốn ngàn loài rồng lớn, bốn ngàn Kim Sí điểu, bốn ngàn Kim Sí điểu lớn, bốn ngàn ác đạo, bốn ngàn ác đạo lớn, bốn ngàn vị vua, bốn ngàn vua lớn, bảy ngàn cây đại thọ, tám ngàn địa ngục lớn, mười ngàn núi lớn, một ngàn Vua Diêm-la, một ngàn bốn trăm Thiên vương, một ngàn Đao-lợi thiên, một ngàn Diệm-ma thiên, một ngàn Đâu-suất thiên, một ngàn Hóa Tự Tại thiên, một ngàn Tha Hóa Tự Tại thiên, một ngàn Phạm thiên. Đó là Tiểu thiên thế giới và một ngàn Tiểu thiên thế giới như thế là một Trung thiên thế giới và một ngàn Trung thiên thế giới như vậy là một Tam thiên Đại thiên thế giới và các thế giới như thế, xoay vần thành hoại, quốc độ mà chúng sanh ở thì gọi là một cõi Phật.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Đại địa này, chiều sâu là mười sáu vạn tám ngàn do-tuần, bờ của nó không có giới hạn, tận cùng ở chỗ nước. Nước chiều sâu là ba ngàn do-tuần và bờ của nó không có giới hạn. Nước tận cùng ở chỗ có không khí, không khí dày sáu ngàn bốn mươi do-tuần, bờ của nó không có giới hạn.

Này các Tỳ-kheo, nước của biển lớn sâu tám vạn bốn ngàn do-tuần, bờ của nó không có giới hạn. Núi chúa Tu-di ăn sâu vào nước biển đến tám vạn bốn ngàn do-tuần, phần cách mặt nước cao tám vạn bốn ngàn do-tuần, chân núi gắn liền với nhiều phần đất, phần nhiều là đất cứng, núi ấy đứng thẳng, không gấp khúc, trên núi có các loại cây phát ra mùi hương, hương ấy tỏa khắp núi rừng. Nơi đây có nhiều bậc Hiền thánh, nhiều vị thần lớn, nhiều vị thiên linh diệu ở. Phần dưới núi thì có cát bằng vàng, bốn phía núi đều lồi ra cao bảy trăm do-tuần có nhiều màu sắc lẫn lộn, do bảy báu tạo thành, bốn chỗ lồi ấy gấp xuôi xuống mặt biển. Núi chúa Tu-di có những con đường ven bằng bảy báu, con đường ven bên dưới rộng sáu mươi do-tuần, hai bên đường ven đều có bảy lớp tường báu, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây. Tường bằng vàng thì cửa bằng bạc, tường bằng bạc thì cửa bằng vàng, tường bằng thủy tinh thì cửa bằng lưu ly, tường bằng lưu ly thì cửa bằng thủy tinh, tường bằng xích châu thì cửa bằng mã não, tường bằng mã não thì cửa bằng xích châu, tường bằng xà cừ thì cửa bằng các thứ báu, lan can bằng vàng thì cây vịn bằng bạc, lan can bằng bạc thì cây vịn bằng vàng, lan can bằng thủy tinh thì cây vịn bằng lưu ly, lan can bằng lưu ly thì cây vịn bằng thủy tinh, lan can bằng xích châu thì cây vịn bằng mã não, lan can bằng mã não thì cây vịn bằng xích châu, lan can bằng xà cừ thì cây vịn bằng các thứ báu. Trên lan can có lưới báu, lưới bằng vàng thì phía dưới treo chuông bằng bạc, lưới bằng lưu ly thì phía dưới treo chuông bằng thủy tinh, lưới bằng thủy tinh thì phía dưới treo chuông bằng lưu ly, lưới bằng xích châu thì phía dưới treo chuông bằng mã não, lưới bằng mã não thì phía dưới treo chuông bằng xích châu, lưới bằng xà cừ thì phía dưới treo chuông bằng các thứ báu. Cây bằng vàng, gốc bằng vàng, cành bằng vàng, hoa lá bằng bạc. Cây bằng bạc, gốc bằng bạc, cành bằng bạc, hoa lá bằng vàng. Cây bằng thủy tinh, gốc và cành bằng thủy tinh, hoa lá bằng lưu ly. Cây bằng lưu ly, gốc và cành bằng lưu ly, hoa lá bằng thủy tinh. Cây bằng xích châu, gốc và cành bằng xích châu, hoa lá bằng mã não. Cây bằng mã não, gốc và cành bằng mã não, hoa lá bằng xích châu. Cây bằng xà cừ, gốc và cành bằng xà cừ, hoa lá bằng các thứ báu. Bảy lớp tường, mỗi lớp tường đều có bốn cửa, mỗi cửa đều có lan can. Trên bảy lớp tường đều có lâu đài, nhà cửa bao bọc chung quanh, có cả vườn cây, nhà mát, ao tắm, có các thứ hoa báu, có các hàng cây quý, bông trái sum suê, gió thơm từ bốn phía làm cho mọi người khoan khoái và có các loài chim kỳ lạ như chim câu, nhạn, uyên ương, nhiều vô số kể, cùng hót líu lo. Con đường ở lưng chừng của núi chúa Tu-di rộng bốn mươi do-tuần, hai bên đường đều có bảy lớp tường báu, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy hàng cây,… vô số loài chim cùng hót líu lo cũng như con đường ở dưới núi. Con đường trên cùng của núi rộng hai mươi do-tuần, hai bên đường đều có bảy lớp tường báu, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy hàng cây,… vô số chim chóc ca hót líu lo cũng như ở con đường lưng chừng.

Bấy giờ, đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Về con đường dưới cùng thì có quỷ thần tên là Già-lầu-la-túc ở, con đường lưng chừng có quỷ thần tên là Trì Man ở, con đường trên cùng có quỷ thần tên là Hỷ Lạc ở. Bốn chỗ nhô ra của núi chúa Tu-di cao bốn vạn hai ngàn do-tuần có cung điện của Tứ Đại Thiên Vương ở, gồm có bảy lớp tường báu, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy hàng cây, bảy lớp chuông báu,… vô số loài chim ca hót líu lo. Cũng như thế, trên đỉnh núi Tu-di có cung trời Tam Thập Tam gồm có bảy lớp thành báu, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy hàng cây,… vô số loài chim ca hót líu lo. Cũng như thế, qua khỏi cõi Tam Thập Tam thiên gấp đôi số do-tuần có cung trời Diệm-ma; qua khỏi cõi Diệm-ma gấp đôi số do-tuần có cung trời Đâu-suất; qua khỏi cung trời Đâu-suất gấp đôi số do-tuần có cung trời Hóa Tự Tại; qua khỏi cung trời Hóa Tự Tại gấp đôi số do-tuần có cung trời Tha Hóa Tự Tại; qua khỏi cung trời Tha Hóa Tự Tại gấp đôi số do tuần có cung trời Phạm-ca-di. Ở giữa cung trời Tha Hóa Tự Tại và cung trời Phạm-ca-di là cung Ma thiên rộng sáu ngàn do-tuần được bao bọc bằng bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây,… vô số loài chim cùng ca hót líu lo, cũng như các cõi khác. Vượt qua khỏi cung trời Phạm-ca-di gấp đôi số do-tuần thì có cung trời Quang Âm. Qua khỏi cung Quang Âm gấp đôi số do-tuần thì có cung trời Biến Tịnh. Qua khỏi cung Biến Tịnh gấp đôi số do tuần thì có cung trời Quả Thật. Qua khỏi cung trời Quả Thật gấp đôi số do-tuần thì có cung trời Vô Tưởng. Qua khỏi cung trời Vô Tưởng gấp đôi số do-tuần thì có cung trời Vô Tạo. Qua khỏi cung trời Vô Tạo gấp đôi số do-tuần thì có cung trời Vô Nhiệt. Qua khỏi cung trời Vô Nhiệt gấp đôi số do-tuần thì có cung trời Thiện Kiến. Qua khỏi cung trời Thiện Kiến gấp đôi số do-tuần, có cung trời Đại Thiện Kiến. Qua khỏi cung trời Đại Thiện Kiến gấp đôi số do-tuần thì có cung trời Sắc Cứu Cánh. Qua khỏi cung trời Sắc Cứu Cánh là cõi trời Không Xứ Trí, cõi trời Thức Xứ Trí, cõi trời Vô Sở Hữu Xứ Trí, cõi trời Hữu Tưởng Vô Tưởng Xứ Trí. Ngang đây là ranh giới của chúng sanh, là thế giới của chúng sanh. Tất cả chúng sanh sanh, lão, bệnh, tử, thọ nhận ấm thân, thọ nhận sự hiện hữu, cùng ở trong này, không thể vượt ra ngoài.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

– Về phía Bắc núi Tu-di có thiên hạ tên Uất-đơn-việt, châu này hình vuông, rộng một vạn do-tuần; khuôn mặt con người hình vuông như mặt đất kia. Phía Đông núi Tu-di có thiên hạ tên Phất-vu-đãi, châu này hình tròn, rộng chín ngàn do-tuần; khuôn mặt con người hình tròn giống như mặt đất kia. Về phía Tây núi Tu-di có thiên hạ tên Câu-da-ni, châu này hình dáng như nửa mặt trăng, rộng tám ngàn do-tuần, khuôn mặt con người cũng như hình dáng của châu ấy. Phía Nam núi Tu-di có thiên hạ tên Diêm-phù-đề, phía Nam của châu này hẹp, phía Bắc rộng, diện tích bảy ngàn do-tuần; khuôn mặt của con người cũng như hình dáng của châu ấy. Mạn Bắc núi Tu-di do vàng trời làm thành, ánh sáng chiếu ở phương Bắc. Mạn Đông núi Tu-di do bạc trời tạo thành, ánh sáng chiếu ở phương Đông. Mạn Tây núi Tu-di do thủy tinh trời tạo thành, ánh sáng chiếu ở phương Tây. Mạn Nam núi Tu-di do lưu ly trời tạo thành, ánh sáng chiếu ở phương Nam.

Về châu Uất-đơn-việt có cây chúa lớn tên là Am-bà-la, thân cây bảy do tuần, cao một trăm do-tuần, nhánh lá phủ bốn phía năm mươi do-tuần. Về châu Phất-vu-đãi thì có cây chúa lớn tên Già-lam-phù, thân cây to bảy do-tuần, nhánh lá tỏa bốn bề năm mươi do-tuần, trên cây, có phướn thạch ngưu cao một do-tuần. Châu Diêm-phù-đề có cây chúa lớn tên Diêm-phù, thân cây to bảy do tuần, cao một trăm do-tuần, nhánh lá phủ bốn bề độ năm mươi do-tuần.

Cõi của Vua Kim Sí điểu và cõi long vương có cây tên là Câu-lợi-diêm-bà la bao phủ bảy do-tuần, cao một trăm do-tuần, cành lá tỏa bốn bề năm mươi do-tuần. Về cõi của vua a-tu-la có cây tên Thiện Trú, thân cây to bảy do-tuần, cao một trăm do-tuần, nhánh lá tỏa bốn bề năm mươi do-tuần. Về cõi trời Đao lợi có cây tên Trú Độ, thân cây to bảy do-tuần, cao một trăm do-tuần, nhánh lá tỏa bốn bề năm mươi do-tuần.

Bên núi Tu-di có núi Già-la-la cao bốn vạn hai ngàn do-tuần, rộng bốn vạn hai ngàn do-tuần, bốn phía rộng rãi, có các màu sắc chen nhau trải rộng do bảy báu tạo thành. Núi Già-la-la cách núi Tu-di tám vạn bốn ngàn do-tuần, giữa hai núi ấy có các thứ hoa ưu-bát-la, bát-đầu-ma, câu-vật-đầu, phân-đà-lợi, có từng bụi tranh, lau, tùng, trúc sanh trưởng; các loại thảo mộc này phát ra các thứ hương phảng phất khắp nơi.

Cách núi Khư-đà-la không xa có núi Y-sa-đà-la cao hai vạn một ngàn do tuần, rộng hai vạn một ngàn do-tuần, bốn phía rộng rãi, có màu sắc chen nhau, do bảy báu tạo thành. Núi này cách núi Khư-đà-la khoảng bốn vạn hai ngàn do tuần, giữa hai núi này có các thứ hoa như ưu-bát-la, bát-đầu-ma, câu-vật-đầu, phân-đà-lợi, có từng bụi tùng, trúc, tranh, lau sanh trưởng; các loại thảo mộc này phát ra các thứ hương, mùi hương phảng phất khắp nơi.

Lại cách núi Y-sa-đà-la không xa có núi Thọ-cự-đà-la cao một vạn hai ngàn do-tuần, rộng một vạn hai ngàn do-tuần, bốn phía núi có các màu sắc chen nhau trải rộng do bảy báu tạo thành. Núi này cách núi Y-sa-đà-la khoảng hai vạn một ngàn do-tuần, khoảng giữa hai núi ấy có bốn thứ hoa hỗn hợp, từng đám tranh, lau, tùng, trúc sanh trưởng; các thảo mộc này phát ra đủ loại mùi hương phảng phất khắp nơi.

Cách núi Thọ-cự-đà-la không xa có núi Thiện Kiến cao sáu ngàn do-tuần, rộng sáu ngàn do-tuần, bốn phía rộng rãi, có các màu sắc chen lẫn trải rộng, do bảy báu tạo thành. Núi này cách núi Thọ-cự-đà-la một vạn hai ngàn do-tuần có bốn thứ tạp hoa, có từng đám tranh, lau, tùng, trúc sanh trưởng; các loại thảo mộc này phát ra đủ loại mùi hương phảng phất khắp nơi.

Cách núi Thiện Kiến không xa có núi Mã Thực cao ba ngàn do-tuần, rộng ba ngàn do-tuần, bốn phía núi có các màu sắc chen lẫn trải rộng, do bảy báu tạo thành. Cách núi Thiện Kiến khoảng sáu ngàn do-tuần, giữa hai núi này có các tạp hoa, có từng đám tranh, lau, tùng, trúc sanh trưởng, các loại thảo mộc này phát ra các mùi hương phảng phất khắp nơi. Cách núi Mã Thực không xa có núi tên Ni-dân-đà-la cao một ngàn hai trăm do-tuần, rộng một ngàn hai trăm do-tuần, bốn phía rộng rãi có nhiều màu do bảy báu tạo thành; núi này cách núi Mã Thực ba ngàn do-tuần, giữa hai núi này lại có bốn loại tạp hoa, có từng đám tranh, lau, tùng, trúc sanh trưởng. Các loại thảo mộc này phát ra các thứ hương phảng phất khắp nơi.

Lại cách núi Ni-dân-đà-la không xa có núi tên là Điều Phục cao sáu trăm do-tuần, rộng sáu trăm do-tuần, bốn phía có các màu sắc do bảy báu tạo thành. Núi này cách núi Ni-dân-đà-la khoảng một ngàn hai trăm do-tuần. Ở giữa hai núi ấy có bốn thứ tạp hoa, từng đám tranh, lau, tùng, trúc sanh trưởng. Các loại thảo mộc này lại phát ra các mùi hương phảng phất khắp nơi.

Cách núi Điều Phục không xa có núi Kim Cang Vi cao ba trăm do-tuần, rộng ba trăm do-tuần, bốn phía rộng rãi, nhiều màu chen lẫn do bảy báu tạo thành. Lại cách núi Điều Phục sáu trăm do-tuần, ở giữa hai núi này có bốn thứ tạp hoa, có từng đám tranh, lau, tùng, trúc sanh trưởng. Các loại thảo mộc này phát ra các mùi hương phảng phất khắp nơi.

Lại cách núi Kim Cang Vi không xa có biển lớn. Bờ phía Bắc của biển nước này lại có một cây chúa lớn, tên Diêm-phù, thân cây to bảy do-tuần, cao một trăm do-tuần, cành lá tỏa rộng năm mươi do-tuần, chung quanh là đất trống.

Lại có rừng cây tên là Am-bà-la, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Diêm-bà, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Ta-la, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Đa-la, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Vi Nam, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Vi Nữ, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Nam Nữ, rộng năm mươi do tuần. Lại có rừng cây tên là Tán-na, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Khư-thù-la, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Ba-nại-bà, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Tỳ-la, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Hương Nại, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Vị Nại, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Am-thạch-lựu, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Vi Cam, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Ha-lê-lặc, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Tỳ-lê-lặc, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây A-ma-lặc, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là A-ma-lê, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Nại, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Cam-giá, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Vi, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Trúc, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Xá-la, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Xá-la-diệp, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Đại Mộc Qua, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Giải Thoát Hóa, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Chiêm bà, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Bà-la-la, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Tu-ma-na, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Bà-sư, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Đa-la-lê, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Già-da, rộng năm mươi do-tuần. Lại có rừng cây tên là Bồ Đào, rộng năm mươi do-tuần.

Qua khỏi chỗ trống của vùng đất này, trong khoảng đất trống có một ao hoa rộng năm mươi do-tuần. Lại có các ao như ao Bát-đầu-ma, ao Câu-vật-đầu, ao Phân-đà-lợi, rộng năm mươi do-tuần, trong đó đầy dẫy cả rắn độc.

Qua khỏi chỗ trống của vùng đất này, trong khoảng đất trống có biển lớn tên là Uất-thiền-na. Dưới biển nước này có con đường của Chuyển Luân Thánh Vương rộng mười hai do-tuần. Hai bên đường có bảy lớp tường, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy hàng cây bao vây chung quanh. Tất cả đều do bảy báu tạo thành, khi Chuyển Luân Thánh Vương của cõi Diêm-phù-đề xuất hiện thì nước tự nhiên biến mất, đường sá bằng phẳng lại xuất hiện.

Cách biển lớn không xa có núi tên là Uất-thiền, hình dáng đẹp đẽ, cây cối xanh tươi, hoa trái sum suê, các thứ hương thơm ngát, các loại cầm thú kỳ lạ, đâu đâu cũng có.

Cách núi Uất-thiền-na không xa thì có núi tên là Kim Bích, trong núi ấy có tám vạn hang động và trong đó có tám vạn voi chúa ở, toàn thân màu trắng, trên đầu có nhiều màu sắc, trong miệng có sáu ngà, các kẽ răng được trám kín bằng vàng.

Cách núi Kim Bích không xa thì có núi tên là Tuyết Sơn rộng năm trăm do tuần, phía Đông lẫn phía Tây đều ăn lấn ra biển, giữa hai núi này lại có núi báu cao hai mươi do-tuần, chỗ nhô lên của Tuyết Sơn cao một trăm do-tuần, trên đỉnh núi có ao A-nậu-đạt rộng năm mươi do-tuần, nước ao trong mát, phẳng lặng, không vẩn đục, có bảy lớp bờ lũy, có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp hàng cây đủ các màu sắc khác nhau, đều do bảy báu hợp thành. Về lan can, lan can bằng vàng thì tay vịn bằng bạc, lan can bằng bạc thì tay vịn bằng vàng, lan can bằng lưu ly thì tay vịn bằng thủy tinh, lan can bằng thủy tinh thì tay vịn bằng lưu ly, lan can bằng xích châu thì tay vịn bằng mã não, lan can bằng mã não thì tay vịn bằng xích châu, lan can bằng xà cừ thì tay vịn bằng các thứ báu. Lưới bằng vàng thì chuông bằng bạc, lưới bằng bạc thì chuông bằng vàng, lưới bằng lưu ly thì chuông bằng thủy tinh, lưới bằng thủy tinh thì chuông bằng lưu ly, lưới bằng xà cừ thì chuông bằng bảy thứ báu.

Cây đa-la bằng vàng thì gốc bằng vàng, cành bằng vàng, lá bằng bạc, trái bằng bạc; cây đa-la bằng bạc thì gốc bằng bạc, cành bằng bạc, lá bằng vàng, trái bằng vàng; cây bằng thủy tinh thì gốc, cành bằng thủy tinh, hoa trái bằng lưu ly; cây bằng xích châu thì gốc, cành bằng xích châu, lá bằng mã não, hoa quả bằng mã não; cây bằng xà cừ thì hoa, trái bằng các thứ báu.

Bên bờ ao A-nậu-đạt đều có nhà mát và ao tắm, có các thứ hoa kết tụ, các loại cây lá, hoa, trái sum suê, gió thơm phảng phất khắp nơi, các loài chim kỳ lạ cùng hòa ca. Đáy ao A-nậu-đạt đều gồm toàn cát vàng, bốn bờ ao đều có bậc thềm. Tay vịn bằng vàng thì thềm bằng bạc, tay vịn bằng bạc thì thềm bằng vàng, tay vịn bằng lưu ly thì thềm bằng thủy tinh, tay vịn bằng thủy tinh thì thềm bằng lưu ly, tay vịn bằng xích châu thì thềm bằng mã não, tay vịn bằng mã não thì thềm bằng xích châu, tay vịn bằng xà cừ thì thềm bằng các thứ báu. Chung quanh ao đều có lan can và có bốn thứ hoa xanh, vàng, đỏ, trắng, màu sắc hỗn hợp, hoa lớn như bánh xe, cọng hoa như trục xe. Cọng hoa tiết ra một loại nước màu trắng tinh như sữa, vị ngọt như mật.

Phía Đông ao A-nậu-đạt có sông Hằng-già phát xuất từ miệng trâu, gồm năm trăm con sông hợp lại, chảy vào biển Đông. Phía Nam ao A-nậu-đạt có sông Tân-đầu, phát xuất từ miệng sư tử, gồm năm trăm con sông hợp lại, chảy vào biển Nam. Về phía Tây ao A-nậu-đạt có sông Bà-xoa phát xuất từ miệng ngựa, gồm năm trăm con sông hợp lại, chảy vào biển Tây. Phía Bắc ao A-nậu đạt có con sông Tư-đà phát xuất từ miệng voi, gồm năm trăm con sông hợp lại, chảy vào biển Bắc. Trong cung điện ao A-nậu-đạt có năm trụ đường, long vương A-nậu-đạt thường ở trong đó.

Đức Phật dạy:

– Tại sao gọi là A-nậu-đạt?1 A-nậu-đạt có nghĩa là gì? Các long vương ở cõi Diêm-phù-đề đều bị ba điều hoạn nạn, chỉ có long vương A-nậu-đạt là không có ba điều hoạn nạn này. Ba điều hoạn nạn đó là gì? Một là các long vương ở trong cõi Diêm-phù-đề đều bị gió nóng, cát nóng bám vào thân, thiêu đốt cả da thịt, xương tủy rất khổ não, chỉ có long vương A-nậu-đạt là không bị hoạn nạn này. Hai là các Long cung trong toàn cõi Diêm-phù-đề đều bị gió dữ nổi lên trong cung thổi bay cả y phục trang sức, thân thể long vương hiện ra rất khổ sở, chỉ có long vương A-nậu-đạt là không bị hoạn nạn này. Ba là khi các long vương trong cõi Diêm-phù-đề tụ họp trong Long cung, trong cung điện để cùng vui thú có chim Kim Sí lớn bay vào cung, vồ lấy, hoặc chim này mới toan tìm cách ăn thịt, các long vương đã vô cùng sợ hãi, thường mang mối khổ não, chỉ có long vương A-nậu-đạt là không có hoạn nạn này. Nếu chim Kim Sí có ý niệm muốn ở lại thì các long vương phải chết, cho nên gọi là A-nậu-đạt.

Phật bảo các Tỳ-kheo:

− Bên phải của núi Tuyết có thành Tỳ-xá-ly, phía Bắc thành này có bảy núi Đen, phía Bắc bảy núi Đen có núi Thơm, núi này thường có tiếng ca, tiếng nhạc. Núi đó có hai động: Một động tên là Trú, một động tên là Thiện Trú, do bảy báu của trời tạo thành, mềm mại, trong sạch, thơm tho cũng như áo trời. Trong đó có vua càn-thát-bà tên là Diệu Âm ở cùng với năm trăm càn-thát-bà.

Phía Bắc động Thiện Trú có cây chúa Bà-la tên là Thiện Trụ và tám ngàn cây chúa khác bao quanh. Dưới gốc cây chúa Thiện Trụ có voi chúa cũng tên là Thiện Trụ, thân thể màu trắng, bảy chỗ đều bằng phẳng với sức mạnh có thể bay được, trên đầu màu trắng, chân chen lẫn nhiều màu sắc, sáu ngà nhọn hoắt, kẽ răng được trám kín bằng vàng. Lại có tám ngàn voi con đi theo chung quanh. Dưới tám ngàn cây chúa ấy, lại có tám ngàn con voi khác cũng như trên.

Phía Bắc cây chúa Thiện Trụ có một ao tắm lớn tên là Ma-đà-diên, rộng năm mươi do-tuần và có tám ngàn ao tắm phụ, bao bọc chung quanh trong mát, không dơ bẩn, có hào bảy báu bao bọc chung quanh ao, có bảy lớp lan can, bảy lớp lưới, bảy lớp cây đều do bảy báu tạo thành. Lan can bằng vàng thì tay vịn bằng bạc, lan can bằng bạc thì tay vịn bằng vàng, lan can bằng thủy tinh thì tay vịn bằng lưu ly, lan can bằng lưu ly thì tay vịn bằng thủy tinh, lan can bằng xích châu thì tay vịn bằng mã não, lan can bằng mã não thì tay vịn bằng xích châu, lan can bằng xà cừ thì tay vịn bằng các thứ báu. Dưới màn lưới bằng vàng thì treo chuông bằng bạc, dưới màn lưới bằng bạc thì treo chuông bằng vàng, dưới màn lưới bằng thủy tinh thì treo chuông bằng lưu ly, dưới màn lưới bằng lưu ly thì treo chuông bằng thủy tinh, dưới màn lưới bằng xích châu thì treo chuông bằng mã não, dưới màn lưới bằng mã não thì treo chuông bằng xích châu, dưới màn lưới bằng xà cừ thì treo chuông bằng các thứ báu. Cây bằng vàng thì gốc bằng vàng, nhánh bằng vàng, lá bằng bạc, hoa bằng bạc. Cây bằng bạc thì gốc bằng bạc, nhánh bằng bạc, lá, hoa, trái bằng vàng. Cây bằng thủy tinh thì gốc và cành bằng thủy tinh, lá, hoa, trái bằng lưu ly. Cây bằng lưu ly thì gốc và nhánh bằng lưu ly, lá, hoa và trái bằng thủy tinh. Cây bằng xích châu thì gốc và nhánh bằng xích châu, lá, hoa và trái bằng mã não. Cây bằng mã não thì gốc và nhánh bằng mã não, hoa và trái bằng xích châu. Cây bằng xà cừ thì gốc và nhánh bằng xà cừ, hoa và trái bằng các thứ báu.

Lại nữa, dưới đáy ao có trải cát vàng, chung quanh hồ có đường bằng bảy báu. Nền đường bằng vàng thì bậc thềm bằng bạc, nền bằng bạc thì bậc thềm bằng vàng, nền đường bằng thủy tinh thì bậc thềm bằng lưu ly, nền bằng lưu ly thì bậc thềm bằng thủy tinh, nền bằng xích châu thì bậc thềm bằng mã não, nền bằng mã não thì bậc thềm bằng xích châu, nền bằng xà cừ thì bậc thềm bằng các thứ báu. Hai bên đường đều có lan can báu. Lại nữa, trong ao có bốn thứ hoa xanh, vàng, đỏ, trắng màu sắc chen lẫn nhau. Hoa lớn như bánh xe, cọng hoa to như trục xe. Cọng hoa tiết ra một loại nước màu trắng như sữa, vị ngọt như mật. Chung quanh bốn mặt ao đều có nhà mát, rừng cây, ao tắm, có các thứ hoa, cây cối xanh tươi, hoa trái sum suê, có nhiều loài chim cùng hòa ca, cũng như các cảnh khác.

Khi voi chúa Thiện Trụ muốn dạo chơi hoặc vào hồ tắm, liền nghĩ đến tám ngàn voi chúa khác, đồng thời, tám ngàn voi chúa ấy cũng tự nghĩ: “Nay voi chúa Thiện Trụ đang nghĩ đến chúng ta, vậy chúng ta mau đến chỗ của voi chúa.” Tức thì tám ngàn voi chúa liền đến đứng trước mặt voi chúa Thiện Trụ. Bấy giờ, voi chúa Thiện Trụ theo tám ngàn voi kia đến ao Ma-đà-diên. Trong số voi ấy, có con thì cầm lọng, có con thì cầm quạt báu để quạt cho voi chúa, có con thì trỗi nhạc, có con thì dẫn đường. Voi chúa Thiện Trụ vào ao để tắm, tất cả đều tấu nhạc và cùng nhau vui chơi, hoặc có con rửa mũi cho voi chúa, có con thì rửa miệng, có con thì rửa đầu, có con thì rửa ngà, hoặc rửa lỗ tai, rửa bụng, rửa lưng, rửa đuôi, rửa chân cho voi chúa, có con thì nhổ gốc hoa để rửa và dâng cho voi chúa ăn, có con thì lấy bốn thứ hoa rải trên thân voi chúa.

Bấy giờ, voi chúa Thiện Trụ sau khi tắm rửa, ăn uống, cùng nhau vui chơi xong lên bờ và đến đứng dưới cây Thiện Trụ. Sau đó, tám ngàn voi kia đều vào ao tắm, khi tắm rửa, ăn uống cùng nhau vui chơi xong liền lên bờ và đến chỗ voi chúa đứng. Lúc ấy, voi chúa theo tám ngàn voi kia trước sau thứ tự, đi đến cây chúa Thiện Trụ. Trong số đó, có con cầm lọng để che cho voi chúa, có con cầm quạt báu quạt cho voi chúa, có con trỗi nhạc, đi trước dẫn đường. Khi voi chúa Thiện Trụ đến cây chúa xong tùy ý nằm, ngồi, đi, đứng bất cứ chỗ nào. Tám ngàn voi con kia đều ở dưới gốc cây, tùy ý đi, đứng, nằm, ngồi. Cây cối ở trong rừng này, có cây to đến tám tầm, có cây to đến chín tầm hoặc mười tầm, cho đến mười lăm tầm, chỉ có voi chúa Thiện Trụ và cây chúa Ta-la là to mười sáu tầm. Về tám ngàn cây Ta-la, khi cành lá rơi rụng, có gió mát cuốn đi tấp ngoài khu rừng. Lại nữa, khi tám ngàn voi kia đại tiểu tiện, có các quỷ dạ-xoa hốt bỏ ngoài rừng.

Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

− Voi chúa Thiện Trụ tuy là thân súc sanh nhưng có đại thần lực, có công đức và hưởng được phúc báu như thế.

Chú thích:
1Dịch giả thời nhà Tần dịch A-nậu-đạt là vô não nhiệt.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.