Viện Nghiên Cứu Phật Học

 

27. KINH SA-MÔN QUẢ[1]

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật cùng với đại chúng một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳkheo ngụ trong vườn Am-bà của Kỳ Cựu đồng tử,[2] thuộc thành La-duyệt-kỳ.[3]

Bấy giờ, vào đêm rằm trăng sáng, Vua A-xà-thế[4] con bà Vi-đề-hy[5] bảo phu nhân:

  • Đêm nay trăng sáng như ban ngày, theo Ái khanh thì trẫm nên làm gì?

Phu nhân thưa:

  • Tâu Đại vương, đêm nay ngày rằm, trăng tròn sáng đẹp không khác gì ban ngày, Bệ hạ hãy tắm gội sạch sẽ rồi cùng với các thể nữ chung hưởng niềm vui năm dục.

Vua lại gọi thái tử thứ nhất là Ưu-da-bà-đà[6] đến hỏi:

  • Đêm nay ngày rằm, trăng tròn sáng đẹp không khác gì ban ngày, theo con thì trẫm nên làm gì?

Thái tử đáp:

  • Đêm nay ngày rằm, trăng tròn sáng đẹp không khác gì ban ngày, phụ vương nên tập hợp bốn binh chủng, cùng bàn mưu chinh phạt quân phản nghịch ở biên cương, sau đó trở về cung rồi cùng nhau hưởng niềm vui dục lạc.

Vua lại truyền lệnh Đại tướng Dũng Kiện đến và hỏi:

  • Đêm nay ngày rằm, trăng tròn sáng đẹp không khác gì ban ngày, theo khanh thì trẫm nên làm gì?

Đại tướng Dũng Kiện tâu:

  • Đêm nay ngày rằm, trăng tròn sáng đẹp không khác gì ban ngày, Đại vương nên triệu tập bốn binh chủng, tuần hành tra xét thiên hạ để biết có việc thuận hay nghịch.

Vua lại truyền lệnh cho Bà-la-môn Vũ-xá đến hỏi:

  • Đêm nay ngày rằm, trăng tròn sáng đẹp không khác gì ban ngày, theo khanh thì trẫm nên đến thăm hỏi các Sa-môn hay Bà-la-môn nào để có thể khai ngộ tâm ta?

Khi ấy, Vũ-xá tâu vua:

  • Đêm nay ngày rằm, trăng tròn sáng đẹp không khác gì ban ngày, nơi đây có ngài Bất-lan Ca-diếp[7] là vị đứng đầu trong đại chúng, được nhiều người biết đến, danh tiếng đồn xa, cũng như biển cả dung nạp mọi thứ, vị ấy được nhiều người tôn kính cúng dường. Đại vương nên đến đó thăm hỏi, nếu được gặp ngài ấy thì tâm của Đại vương sẽ được khai ngộ.

Vua lại truyền lệnh gọi em trai Vũ-xá tên Tu-ni-đà và hỏi:

  • Đêm nay trăng sáng như ban ngày, theo khanh thì trẫm nên đến chỗ Sa-môn, Bà-la-môn nào mới có thể khai ngộ tâm ta?

Tu-ni-đà tâu:

  • Đêm nay trăng sáng như ban ngày, ở đây có ngài Mạt-già-lê Cù-xá-lợi[8] là vị đứng đầu trong đại chúng, được nhiều người biết đến, danh tiếng đồn xa, cũng như biển cả dung nạp mọi thứ, vị ấy được nhiều người tôn kính cúng dường. Đại vương nên đến đó thăm hỏi, nếu được gặp ngài ấy thì tâm của Đại vương sẽ được khai ngộ.

Vua lại truyền gọi quan đại thần phụ trách lễ nghi trong cung đến và hỏi:

  • Đêm nay trăng sáng như ban ngày, theo khanh thì trẫm nên đến gặp Sa-môn, Bà-la-môn nào mới có thể khai ngộ tâm ta?

Quan phụ trách lễ nghi trong cung thưa:

  • Hiện nay có ngài A-kỳ-đa Sí-xá-khâm-bà-la[9] là vị đứng đầu trong đại chúng, được nhiều người biết đến, danh tiếng đồn xa, cũng như biển cả dung nạp mọi thứ, vị ấy được mọi người tôn kính cúng dường. Đại vương nên đến đó thăm hỏi, nếu được gặp ngài ấy thì tâm của Đại vương sẽ được khai ngộ.

Vua lại truyền gọi tướng giữ thành tên Già-la đến hỏi:

  • Đêm nay trăng sáng như ban ngày, theo khanh thì trẫm nên đến gặp Sa-môn, Bà-la-môn nào mới có thể khai ngộ tâm ta?

Già-la tâu:

  • Hiện nay có ngài Bà-phù-đà Già-chiên-na[10] là vị đứng đầu trong đại chúng, được nhiều người biết đến, danh tiếng đồn xa, cũng như biển cả dung nạp mọi thứ, vị ấy được nhiều người tôn kính cúng dường. Đại vương nên đến đó thăm hỏi, nếu được gặp ngài ấy thì tâm của Đại vương sẽ được khai ngộ.

Vua lại truyền lệnh gọi Ưu-đà-di Mạn-đề-tử đến và hỏi:

  • Đêm nay trăng sáng như ban ngày, theo khanh thì trẫm nên đến gặp Sa-môn, Bà-la-môn nào mới có thể khai ngộ tâm ta?

Ưu-đà-di tâu:

  • Hiện nay có ngài Tán-nhã-di Tỳ-la-lê-phất[11] là vị đứng đầu trong đại chúng, được nhiều người biết đến, danh tiếng đồn xa, cũng như biển cả dung nạp mọi thứ, vị ấy được nhiều người tôn kính cúng dường. Đại vương nên đến đó thăm hỏi, nếu được gặp ngài ấy thì tâm của Đại vương sẽ được khai ngộ.

Vua lại truyền lệnh gọi em trai là Vô Úy đến hỏi:

  • Đêm nay trăng sáng như ban ngày, theo khanh thì trẫm nên đến gặp Sa-môn, Bà-la-môn nào mới có thể khai ngộ tâm ta?

Hoàng đệ Vô Úy thưa:

  • Hiện nay có ngài Ni-kiền-tử[12] là vị đứng đầu trong đại chúng, được nhiều người biết đến, danh tiếng đồn xa, cũng như biển cả dung nạp mọi thứ, vị ấy được nhiều người tôn kính cúng dường. Đại vương nên đến đó thăm hỏi, nếu được gặp ngài ấy thì tâm của Đại vương sẽ được khai ngộ.

Vua lại truyền lệnh gọi Thọ Mạng đồng tử[13] đến hỏi:

  • Đêm nay trăng sáng đẹp như ban ngày, theo khanh thì trẫm nên đi đến gặp Sa-môn, Bà-la-môn nào mới có thể khai ngộ tâm ta?

Thọ Mạng đồng tử  tâu:

  • Có đức Phật, Thế Tôn, hiện đang ngự trong vườn Am-bà của thần, Đại vương nên đến đó thăm hỏi. Nếu được gặp Phật, chắc chắn tâm của Đại vương sẽ được khai ngộ.

Vua liền truyền lệnh cho Thọ Mạng:

  • Khanh hãy sửa soạn kiệu voi báu mà trẫm thường cưỡi cùng năm trăm voi trắng cho ta.

Tuân lệnh, Thọ Mạng liền cho sửa soạn kiệu voi báu của vua cùng năm trăm voi trắng xong rồi đến tâu:

  • Xa giá đã chuẩn bị xong, xin Đại vương biết thời!

Vua A-xà-thế tự cưỡi voi báu và bảo năm trăm phu nhân cưỡi năm trăm voi cái, mỗi người đều cầm bó đuốc để thể hiện uy nghi của vua rồi đi ra khỏi thành La-duyệt, đến chỗ Phật ngự. Khi đi được một đoạn đường, vua bảo Thọ Mạng:

  • Có phải ngươi đang dối gạt ta, hãm hại ta nên dẫn ta cùng mọi người đến chỗ của kẻ thù chăng?

Thọ Mạng thưa:

  • Tâu Đại vương! Thần đâu dám dối gạt hay hãm hại Đại vương, dẫn Đại vương cùng với mọi người đến cho kẻ thù. Xin Đại vương hãy tiến lên phía trước, chắc chắn sẽ được phước lạc!

Lúc ấy, vua tiến lên phía trước một đoạn nữa, lại bảo Thọ Mạng:

  • Có phải ngươi đang dối gạt ta, hãm hại ta nên dẫn ta cùng với mọi người đến cho kẻ thù chăng?

Vua lặp lại ba lần như vậy. Vì sao như vậy? Vì vua nghĩ rằng, tại trú xứ có đại chúng đông đảo gồm một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo nhưng lại vắng lặng không hề nghe một tiếng động, việc này có mưu tính gì chăng?

Thọ Mạng cũng ba lần tâu:

  • Thưa Đại vương! Thần không dám lừa dối hay hãm hại Đại vương nên dẫn Đại vương cùng mọi người đến cho kẻ thù. Ngài hãy tiến lên phía trước, chắc chắn sẽ được phước lạc. Vì sao như vậy? Vì pháp của Sa-môn thường ưa sự thanh vắng, do đó không hề có tiếng động. Xin Đại vương hãy tiến lên phía trước, sẽ thấy khu vườn!

[0108a02] Vua A-xà-thế đi đến cổng khu vườn rồi xuống voi, tháo kiếm, cất lọng, bỏ lại năm nghi trượng của vua, bước vào cổng vườn rồi hỏi Thọ Mạng:

  • Đức Phật, Thế Tôn hiện đang ở đâu?

Thọ Mạng thưa:

  • Tâu Đại vương! Đức Phật đang ở trong giảng đường, phía trước có ngọn đèn sáng, Thế Tôn ngồi trên tòa sư tử, xoay mặt về hướng Nam. Xin Đại vương tiến lên phía trước, vài bước nữa sẽ trông thấy đức Thế Tôn!

Bấy giờ, Vua A-xà-thế đi đến chỗ giảng đường, rửa chân ở bên ngoài, sau đó mới bước lên giảng đường, lặng nhìn bốn phía rồi khởi tâm hoan hỷ nên bất chợt thốt lên:

  • Các Sa-môn đang tọa thiền tĩnh lặng, đầy đủ chỉ, quán.[14] Mong sao Thái tử Ưu-bà-da15 của ta cũng có được sự tĩnh lặng giống như các vị Sa-môn này!

Lúc đó, Thế Tôn bảo Vua A-xà-thế:

  • Dường như Đại vương đang nghĩ đến con mình nên bất chợt thốt lên: “Mong sao Thái tử Ưu-bà-da của ta cũng có được sự tĩnh lặng giống như các vị Sa-môn này!” Đại vương hãy ngồi lên phía trước.

Vua A-xà-thế liền tiến lên trước, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật rồi ngồi sang một bên và bạch Phật:

  • Tôi đang có điều muốn hỏi, nếu Ngài có thời gian thì mới dám hỏi!

Đức Phật bảo:

  • Đại vương muốn hỏi điều gì thì cứ hỏi!

Vua A-xà-thế thưa:

  • Bạch Thế Tôn! Như có người cưỡi voi, cưỡi xe ngựa, tập luyện đao, mâu, kiếm, cung tên, binh khí, phương pháp chiến đấu; vương tử, lực sĩ, đại lực sĩ, tôi tớ, thợ da, thợ hớt tóc, thợ bện tóc, thợ đóng xe, thợ gốm, thợ đan, thợ dệt, mỗi người làm một công việc, nghề nghiệp khác nhau để tự nuôi sống bản thân, vui hưởng dục lạc và cùng với cha mẹ, vợ con, tôi tớ, vui hưởng cuộc sống. Những nghề nghiệp sinh sống này đều có kết quả ngay trong hiện tại. Đối với các vị Sa-môn hiện đang tu tập thì có đạt được kết quả thiết thực gì ngay trong hiện tại không?

Đức Phật hỏi:

  • Đại vương đã từng đến chỗ Sa-môn hay Bà-la-môn nào để hỏi về ý nghĩa này chưa?

Vua đáp:

  • Tôi đã từng đến nhiều vị Sa-môn và Bà-la-môn để hỏi về ý nghĩa này.

Tôi nhớ có lần đến chỗ ông Bất-lan Ca-diếp[15] và hỏi rằng: “Như có người cưỡi voi, cưỡi xe ngựa, tập luyện binh pháp... cho đến làm vô số nghề nghiệp để mưu sinh, đều có kết quả ngay trong hiện tại. Đối với những người hiện đang tu tập như thế này thì có đạt được kết quả thiết thực gì ngay trong hiện tại không?”

Ông ấy trả lời tôi rằng: “Đại vương! Nếu tự mình làm hoặc bảo người làm như đâm, chém, giết hại, nấu, nướng, cắt, xẻ, quấy phá chúng sanh, khiến cho chúng sanh đau buồn, than khóc; hoặc sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, trèo tường trộm cắp, phóng hỏa thiêu đốt, chặn đường cưỡng đoạt, này Đại vương, nếu làm những việc như thế thì chưa phải là ác. Đại vương! Nếu dùng kiếm bén lóc thịt tất cả chúng sanh rồi chất thành đống đầy khắp thế gian, hành động như vậy không phải là ác, cũng không có tội báo. Nếu đến bờ phía Nam sông Hằng lóc thịt tất cả chúng sanh thì cũng không có quả báo xấu ác. Hoặc có người đến phía Bắc sông Hằng mở hội bố thí lớn, bố thí cho tất cả chúng sanh, khiến cho họ hưởng lợi lạc như nhau thì cũng không có phước báu gì cả.”

Vua thưa đức Phật:

  • Việc này giống như có người hỏi dưa mà trả lời mận, hỏi mận mà trả lời dưa. Vị ấy cũng như thế, tôi hỏi hiện tại tu hành được quả báo gì không nhưng ông ta lại trả lời tôi là không có quả báo tội phước. Tôi liền suy nghĩ: “Ta là vua Quán đảnh dòng Sát-đế-lợi, đâu thể vô cớ giết người xuất gia, bắt trói hay đuổi đi”, nên khi ấy dù trong lòng rất tức giận nhưng suy nghĩ như vậy rồi, tôi liền bỏ đi.

Rồi vua lại bạch Phật:

  • Có lần, tôi đến chỗ ông Mạt-già-lê Câu-xá-lê[16] và hỏi: “Như có người cưỡi voi, cưỡi xe ngựa, tập luyện binh pháp,... cho đến làm vô số nghề nghiệp để mưu sinh, đều có kết quả ngay trong hiện tại. Đối với những người hiện đang tu tập như thế này thì có đạt được kết quả thiết thực gì ngay trong hiện tại không?”

Ông ta trả lời tôi rằng:

“Tâu Đại vương! Không có bố thí, không có cứu giúp, không lập đàn cúng tế, cũng không có thiện ác, không có quả báo thiện ác, không có đời này, không có đời sau, không có cha, không có mẹ, không có trời, không có đấng tạo hóa, không có chúng sanh, ở đời không có Sa-môn, Bà-la-môn, không có bậc hướng đến Thánh quả, cũng không có tự thân chứng ngộ đời này hay đời sau để rồi truyền bá rộng rãi cho người, nếu cho là có quả báo đều là lời hư vọng.”[17][18]

  • Thưa Thế Tôn! Cũng như có người hỏi dưa mà đáp mận, hỏi mận mà đáp dưa. Vị ấy cũng như thế, tôi hỏi đời này được quả báo gì không nhưng lại trả lời bằng lời nói vô nghĩa. Tôi liền suy nghĩ: “Ta là vua Quán đảnh dòng Sát-đế-lợi, đâu thể vô cớ giết người xuất gia, bắt trói hay đuổi đi”, nên lúc ấy, dù trong lòng rất tức giận nhưng suy nghĩ như vậy rồi, tôi liền bỏ đi.

Vua lại bạch đức Phật:

  • Có lần, tôi đến chỗ ông A-di-đa Sí-xá-khâm-bà-la[19] và hỏi: “Thưa Đại đức! Như nay có người cưỡi voi, cưỡi xe ngựa, tập luyện binh pháp,... cho đến làm vô số nghề nghiệp để mưu sinh, đều có kết quả ngay trong hiện tại. Đối với những người hiện đang tu tập như thế này thì có đạt được kết quả thiết thực gì ngay trong hiện tại không?” Ông ta đáp:

“Con người vốn do bốn đại hợp thành, đến lúc mạng chung thì đất trở về đất, nước trở về nước, lửa trở về lửa, gió trở về gió, tất cả đều phải tan rã, các căn phải trở về hư không. Khi con người lâm chung thì người ta khiêng tử thi bỏ ngoài bãi tha ma, thiêu cháy xương cốt thành màu như chim bồ câu, hoặc biến thành tro đất, bất luận kẻ ngu hay người trí, đến lúc mạng chung cũng đều bị tan rã, là pháp đoạn diệt.

  • Thưa Thế Tôn! Cũng như có người hỏi dưa mà trả lời mận, hỏi mận mà trả lời dưa. Vị ấy cũng như vậy, tôi hỏi đời này có được quả báo gì không nhưng ông ta lại trả lời tôi bằng thuyết Đoạn diệt. Tôi liền suy nghĩ: “Ta là vua Quán đảnh dòng Sát-đế-lợi, đâu thể vô cớ giết người xuất gia, bắt trói hay đuổi đi”, nên lúc ấy, dù trong lòng rất tức giận nhưng suy nghĩ như vậy rồi, tôi liền bỏ đi.

Vua lại bạch đức Phật:

  • Trước kia, có lần tôi đến chỗ ông Ba-phù-đà Già-chiên-diên[20] và hỏi: “Thưa Đại đức! Như nay có người cưỡi voi, cưỡi xe ngựa, tập luyện binh pháp,... cho đến làm vô số nghề nghiệp để mưu sinh, đều có kết quả ngay trong hiện tại. Đối với những người hiện đang tu tập như thế này thì có đạt được kết quả thiết thực gì ngay trong hiện tại không?” Ông ta trả lời tôi:

“Đại vương! Không có sức mạnh, không có tinh tấn, không có sự cố gắng của con người, không có sự siêng năng,[21] không có nhân duyên khiến chúng sanh bị nhiễm ô, không có nhân duyên khiến chúng sanh được thanh tịnh, tất cả các loài chúng sanh có sanh mạng thảy đều không có sức mạnh, không được tự do, không có oán thù, tất cả đều được quyết định bởi số mạng, ở trong sáu sanh loại[22] mà cảm thọ các sự khổ vui.”[23]

Thưa Thế Tôn! Cũng như có người hỏi dưa mà đáp mận, hỏi mận mà đáp dưa. Vị ấy cũng như vậy, tôi hỏi đời này có quả báo không, ông ta lại đem thuyết Không có năng lực[24] để trả lời. Tôi liền suy nghĩ: “Ta là vua Quán đảnh dòng Sát-đế-lợi, đâu thể vô cớ giết người xuất gia, bắt trói hay đuổi đi”, nên lúc ấy, dù trong lòng rất tức giận nhưng suy nghĩ như vậy rồi, tôi liền bỏ đi.

Vua lại thưa đức Phật:

  • Trước đây, có lần tôi đến chỗ ông Tán-nhã-tỳ-la-lê-tử[25] và hỏi: “Thưa Đại đức! Như nay có người cưỡi voi, cưỡi xe ngựa, tập luyện binh pháp,... cho đến làm vô số nghề nghiệp để mưu sinh, đều có kết quả ngay trong hiện tại. Đối với những người hiện đang tu tập như thế này thì có đạt được kết quả thiết thực gì ngay trong hiện tại không?” Ông ta đáp:

“Tâu Đại vương! Có quả báo trong hiện tại của Sa-môn. Hỏi như vậy, trả lời sự việc này như vậy, sự việc này là thật, sự việc này là khác, sự việc này không phải khác cũng không phải không khác. Tâu Đại vương! Không có quả báo trong hiện tại của Sa-môn. Hỏi như vậy, trả lời việc này như vậy, sự việc này là thật, sự việc này là khác, sự việc này không phải khác cũng không phải không khác. Tâu Đại vương! Vừa có vừa không có quả báo trong hiện tại của Sa-môn. Hỏi như vậy, đáp sự việc ấy như vậy, sự việc này là thật, sự việc này là khác, sự việc này không phải khác cũng không phải không khác.”

  • Bạch đức Thế Tôn! Cũng như có người hỏi mận mà lại đáp dưa, hỏi dưa lại đáp mận. Vị ấy cũng như thế, tôi hỏi đời này có quả báo không nhưng ông ta lại trả lời vấn đề khác. Tôi liền suy nghĩ: “Ta là vua Quán đảnh dòng Sát-đếlợi, đâu thể vô cớ giết người xuất gia, bắt trói hay đuổi đi”, nên lúc ấy, dù trong lòng rất tức giận nhưng suy nghĩ như vậy rồi, tôi liền bỏ đi.

[0109a03] Rồi vua lại bạch Phật:

  • Trước đây có lần, tôi đến chỗ ông Ni-kiền-tử[26] và hỏi: “Như nay có người cưỡi voi, cưỡi xe ngựa, tập luyện binh pháp,... cho đến làm vô số nghề nghiệp để mưu sinh, đều có kết quả ngay trong hiện tại. Đối với những người hiện đang tu tập như thế này thì có đạt được kết quả thiết thực gì ngay trong hiện tại không?”

Ông ta đáp:

“Tâu Đại vương! Tôi là bậc nhất thiết trí,[27] là người thấy tất cả, biết rõ mọi việc không sót việc nào. Trong tất cả hành vi đi, đứng, ngồi, nằm, hoặc thức hay ngủ, bất cứ lúc nào, trí thường tự hiện tiền.”

  • Bạch Thế Tôn! Cũng như có người hỏi dưa mà lại đáp mận, hỏi mận mà lại đáp dưa. Vị ấy cũng như vậy, tôi hỏi hiện tại có quả báo gì không nhưng ông ta đem sở chứng “nhất thiết trí” của mình để trả lời. Tôi liền suy nghĩ: “Ta là vua Quán đảnh dòng Sát-đế-lợi, đâu thể vô cớ giết người xuất gia, bắt trói hay đuổi đi”, nên lúc ấy, dù trong lòng rất tức giận nhưng suy nghĩ như vậy rồi, tôi liền bỏ đi.

Thế nên, thưa Thế Tôn! Hôm nay, tôi cũng đến đây để hỏi về ý nghĩa như thế. Như có người cưỡi voi, cưỡi xe ngựa, tập luyện binh pháp,... cho đến làm vô số nghề nghiệp để mưu sinh, đều có kết quả ngay trong hiện tại. Vậy ngày nay, đối với các vị Sa-môn hiện đang tu tập thì có đạt được kết quả thiết thực gì ngay trong hiện tại không?

Đức Phật bảo Vua A-xà-thế:

  • Ta sẽ hỏi Đại vương, ngài tùy ý mà trả lời. Thế nào? Đại vương! Những người hầu phục dịch cho vương gia, dù lớn hay nhỏ,[28] đều thấy Đại vương vào đêm rằm trăng tròn, tắm rửa, gội đầu rồi sau đó lên điện cao hưởng niềm vui dục lạc với các thể nữ, họ liền suy nghĩ: “Lạ thay! Do phước nghiệp gì mà có được quả báo như thế? Vua A-xà-thế vào đêm rằm trăng tròn, tắm rửa, gội đầu rồi sau đó lên điện cao hưởng niềm vui năm dục với các thể nữ. Ai biết được việc này là do phước báo của nghiệp?” Nghĩ như thế, không bao lâu họ cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia học đạo, tu hành chân chánh. Thế nào? Đại vương! Nếu Đại vương từ xa trông thấy người ấy đến đây thì vua có nghĩ rằng:

“Đó là tôi tớ của ta” chăng?

Vua đáp:

  • Thưa không, bạch Thế Tôn! Nếu thấy người ấy đến, tôi phải đứng dậy đón tiếp và mời ngồi.

Đức Phật dạy:

  • Đó không phải là kết quả thiết thực ngay trong hiện tại của hạnh Sa-môn sao?

Vua đáp:

  • Đúng vậy, thưa Thế Tôn! Đó là kết quả thiết thực ngay trong hiện tại của hạnh Sa-môn.

  • Lại nữa, này Đại vương! Nếu có người khách đến ở tạm trong lãnh thổ của Đại vương, được Đại vương chu cấp lương thực. Người ấy thấy vào ngày rằm trăng tròn, Đại vương gội đầu, tắm rửa rồi lên điện cao cùng các thể nữ hưởng niềm vui năm dục, họ liền suy nghĩ: “Lạ thay! Do phước nghiệp gì mà có được quả báo như thế? Ai biết được việc này là do phước báo của nghiệp?” Nghĩ như vậy, không bao lâu vị ấy cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia học đạo, tu hành chân chánh. Thế nào? Đại vương! Nếu Đại vương từ xa trông thấy người ấy đi đến, Đại vương có suy nghĩ rằng: “Người ấy từng là khách dân của ta, đã từng hưởng lương thực do ta ban cho hay không?’’ Vua đáp:

  • Thưa không! Nếu thấy người ấy từ xa đi đến, tôi phải đứng dậy để đón tiếp, thăm hỏi rồi mời ngồi.

  • Thế nào? Đại vương! Đó không phải là kết quả thiết thực ngay trong hiện tại của hạnh Sa-môn sao?

Vua đáp:

  • Đúng vậy, đó là kết quả thiết thực ngay trong hiện tại của hạnh Sa-môn.

  • Lại nữa, Đại vương! Như Lai, bậc Chí Chân, Đẳng Chánh Giác thị hiện ở đời,... vào trong giáo pháp Ta,... cho đến đạt được Ba minh, trừ diệt tối tăm, phát sanh ánh sáng trí tuệ, được gọi là chứng Lậu tận trí. Vì sao như vậy? Vì do tinh cần, không biếng nhác, chuyên niệm, không quên, thích nơi thanh vắng và không buông lung. Thế nào? Đại vương! Đó không phải là kết quả thiết thực ngay trong hiện tại của hạnh Sa-môn sao?

Vua đáp:

  • Đúng vậy, thưa Thế Tôn! Đó là kết quả thiết thực ngay trong hiện tại của hạnh Sa-môn.

Bấy giờ, Vua A-xà-thế liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật và thưa:

  • Kính mong đức Thế Tôn nhận sự sám hối lỗi lầm của con. Con vì điên cuồng ngu muội, tối tăm không hiểu biết. Cha của con là Vua Bình-sa nước Ma-kiệt-đà[29] dùng Chánh pháp để cai trị, không gây oan uổng lỗi lầm, vậy mà con lại chìm đắm trong năm dục, thật sự con đã làm hại phụ vương. Cúi xin Thế Tôn rủ lòng thương xót, nhận sự sám hối lỗi lầm này của con!

Đức Phật bảo nhà vua:

  • Ông ngu si tối tăm, không hiểu biết nhưng nay đã tự biết sám hối lỗi lầm. Ông mê đắm theo năm dục nên làm hại vua cha, nay ở trong pháp Hiền thánh mà biết sám hối, tức là tự làm ích lợi cho mình. Ta vì thương xót ông nên mới chấp nhận sự sám hối lỗi lầm này.

Thế rồi, sau khi đảnh lễ sát chân Phật, Vua A-xà-thế lui ngồi sang một bên. Đức Phật vì vua thuyết giảng các pháp, mở bày, dạy bảo, khích lệ, khiến cho hoan hỷ.[30] Vua nghe Phật giảng xong, liền thưa Phật:

  • Nay con xin quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng. Cúi xin Ngài chấp nhận cho con được làm ưu-bà-tắc trong Chánh pháp! Từ nay về sau, trọn đời con không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Cúi xin đức Thế Tôn và đại chúng nhận lời thỉnh cúng dường bữa cơm trưa của con!

Bấy giờ, đức Thế Tôn im lặng nhận lời. Nhà vua biết Phật đã nhận lời, liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật, đi quanh Phật ba vòng rồi ra về.

Vua đi chưa bao lâu, đức Phật bảo các Tỳ-kheo:

  • Tội lỗi của Vua A-xà-thế giờ đã được giảm bớt, đã trừ được trọng tội. Nếu Vua A-xà-thế không giết cha thì ngay lúc ấy đã xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Thế nhưng, hôm nay Vua A-xà-thế tự mình giãi bày sám hối nên tội lỗi đã vơi bớt phần nào, đã trừ được trọng tội.

Lúc đang trên đường đi, Vua A-xà-thế bảo Thọ Mạng đồng tử :

  • Lành thay, lành thay! Nay khanh làm được nhiều điều lợi ích cho trẫm. Lúc trước, khanh đã tán thán Như Lai, chỉ dẫn, khai mở rồi sau đó đưa trẫm đến chỗ Thế Tôn, nhờ vậy mà trẫm được khai ngộ. Trẫm rất biết ơn khanh, trọn đời sẽ không quên.

Khi trở về cung, nhà vua bày biện đủ loại món ăn và thức uống để cúng dường Phật cùng đại chúng. Hôm sau, vua đến chỗ đức Phật báo:

  • Bạch đức Thế Tôn, đã đến giờ.

Bấy giờ, đức Thế Tôn đắp y, ôm bát cùng với đại chúng một ngàn hai trăm năm mươi vị đi đến cung vua, tiến đến chỗ ngồi đã được sắp sẵn. Thế rồi, nhà vua tự tay dâng thức ăn để cúng dường đức Phật và chúng Tăng. Sau khi thọ trai, đức Phật thu dọn bát rồi dùng nước rửa tay xong, nhà vua đảnh lễ sát chân Phật và bạch:

  • Nay con lại xin sám hối ba lần nữa! Con vì điên cuồng ngu muội, tối tăm không hiểu biết. Cha của con là Vua Bình-sa nước Ma-kiệt-đà dùng Chánh pháp để cai trị, không gây oan uổng sai lầm, vậy mà con lại chìm đắm trong năm dục, thật sự con đã làm hại phụ vương. Cúi xin Thế Tôn rủ lòng thương xót, nhận sự sám hối của con!

Đức Phật bảo vua:

  • Ông quá ngu muội, không hiểu biết, mê say năm dục nên làm hại vua cha, nay ở trong pháp Hiền thánh mà biết ăn năn hối cải, tức là tự làm ích lợi cho mình. Nay vì thương xót ông nên Ta mới nhận sự sám hối này!

Bấy giờ, sau khi đảnh lễ sát chân Phật xong, nhà vua lấy một cái ghế thấp rồi ngồi ở trước Phật. Thế Tôn liền vì nhà vua mà thuyết giảng các pháp, mở bày, dạy bảo, khích lệ, khiến cho hoan hỷ.[31] Khi nghe đức Phật dạy xong, vua lại thưa:

  • Nay con lại xin quy y ba lần nữa. Con xin quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng, kính xin Ngài chấp nhận cho con được làm ưu-bà-tắc trong Chánh pháp! Từ nay về sau, cho đến trọn đời con không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu.

Thế Tôn liền vì nhà vua mà thuyết giảng các pháp, mở bày, dạy bảo, khích lệ, khiến cho hoan hỷ.[32] Sau đó, Ngài rời chỗ ngồi đứng dậy ra về.

Bấy giờ, Vua A-xà-thế và Thọ Mạng đồng tử nghe đức Phật thuyết pháp xong đều hoan hỷ phụng hành.

 

Chú thích:

[1] Nguyên tác: Sa-môn quả kinh 沙門果經 (T.01. 0001.27. 0107a20). Tham chiếu: Tịch chí quả kinh 寂志果經 (T.01. 0022. 0270c27); Tăng. 增 (T.02. 0125.43.7. 0762a07); D. 2, Sāmaññaphala Sutta (Kinh Sa-môn quả).

[2] Nguyên tác: Kỳ Cựu đồng tử Am-bà viên (耆舊童子菴婆園, Jīvakassa Komārabhaccassa Ambavana), khu vườn xoài của Kỳ-bà (耆婆, Jīvaka). Kỳ-bà được Hán dịch là Kỳ Cựu đồng tử (耆舊童子), Thọ Mạng đồng tử (壽命童子). Ông là vị danh y thời Phật, từng học y tại Takkasilā, sau đó trở về thành Vương Xá (王舍, Rājagaha) làm ngự y cho Vua Tần-bà-sa-la (頻婆娑羅, Bimbisāra) và A-xà-thế (阿闍世, Ajātasattu). Ông cũng là một Phật tử thuần thành, từng trị bệnh cho Phật và các vị Tỳ-kheo.

[3] La-duyệt-kỳ (羅閱祇, Rājagaha). Xem chú thích 3, kinh số 2, tr. 517.

[4] A-xà-thế  (阿闍世, Ajātasattu), vua  nước  Magadha.  Ông  là  người  giết  hại  vua  cha  Tần-bà-sa-la (頻婆娑羅, Bimbisāra) và cùng Đề-bà-đạt-đa (提婆達多, Devadatta) mưu hại đức Phật nhưng không thành. Cuối cùng, ông giác ngộ theo đức Phật và phụng sự Phật pháp.

[5] Vi-đề-hy (韋提希, Vedehi): Hoàng hậu của Vua Tần-bà-sa-la.

[6] Ưu-da-bà-đà (優耶婆陀). Đoạn sau nói là Ưu-bà-da (優婆耶, Udayībhadda).

[7] Bất-lan Ca-diếp (不蘭迦葉, Pūraṇa Kassapa).

[8] Mạt-già-lê Cù-xá-lợi (末伽梨瞿舍利, Makkhali Gosāla).

[9] A-kỳ-đa Sí-xá-khâm-bà-la (阿耆多翅舍欽婆羅, Ajita Kesakambala).

[10] Bà-phù-đà Già-chiên-na (婆俯陀伽旃那, Pakudha Kaccāyana).

[11] Tán-nhã-di Tỳ-la-lê-phất (散若夷毘羅梨沸, Sañjaya Belaṭṭhiputta).

[12] Ni-kiền-tử (尼乾子, Nigaṇṭha Nātaputta).

[13] Thọ Mạng đồng tử (壽命童子, Jīvaka). Xem chú thích 2 ở trên, tr. 871.

[14] Nguyên tác: Chỉ quán cụ túc (止觀具足, samatho ca vipassanā ca). 15 Ưu-bà-da (優婆耶, Udāyibhadda) là con trai của Vua A-xà-thế.

[15] Bất-lan Ca-diếp (不蘭迦葉, Puraṇa Kassapa) chủ trương quan điểm Phi tác nghiệp luận (Akiriyavāda).

[16] Mạt-già-lê Câu-xá-lê (末伽梨拘舍梨, Makkhali Gosāla) chủ trương Cực đoan định mệnh luận (Niyativāda). Triết phái này cũng được gọi là Luân hồi tịnh hóa (Saṃsārasuddhivāda).

[17] Nội dung quan điểm này theo D. 2, vốn là chủ trương Đoạn diệt luận (Ucchedavāda) của Ajīta Kesakambala (阿夷陀翅舍欽婆羅), không phải quan điểm của Makkhali Gosāla (末伽梨拘舍梨). Tham chiếu: D. 2: Natthi, mahārāja, dinnaṃ, natthi yiṭṭhaṃ, natthi hutaṃ, natthi sukatadukkaṭānaṃ kammānaṃ phalaṃ vipāko, natthi ayaṃ loko, natthi paro loko, natthi mātā, natthi pitā, natthi sattā opapātikā, natthi loke samaṇabrāhmaṇā sammaggatā sammāpaṭipannā, ye imañca lokaṃ parañca lokaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā pavedenti (Này Ðại vương, không có bố thí, không có lễ hy sinh, không có tế tự, không có quả dị thục các nghiệp thiện ác, không có đời này, không có đời khác, không có mẹ, không có cha, không có loại hóa sanh, ở đời không có những vị Sa-môn, những vị Bà-la-môn chánh hướng, chánh hạnh, đã tự mình chứng tri giác ngộ đời này, đời khác và truyền dạy lại), HT. Thích Minh Châu dịch. Xem thêm S.

[18] .5 - III. 206; Tạp. 雜 (T.02. 0099.154. 0043c21); Tăng. 增 (T.02. 0125.43.7. 0762a07).

[19] A-di-đa Sí-xá-khâm-bà-la (阿夷陀翅舍欽婆羅, Ajīta Kesakambala) chủ trương Đoạn diệt luận (Ucchedavāda).

[20] Ba-phù-đà Già-chiên-diên (波浮陀伽旃延, Pakudha Kaccāyana) hay Bà-phù-đà Già-chiên-na (婆俯陀伽旃那) có quan điểm “Duy vật sơ khai” thời cổ đại với chủ trương Bảy thân (Sattā kāya). Tham chiếu: D. 2: “Này Ðại vương, có bảy thân không bị làm ra, không làm ra, không bị sáng tạo, không sáng tạo, không sanh sản, thường tại như đỉnh núi, đứng thẳng như trụ đá. Chúng bất động không chuyển biến, không xâm lăng nhau. Chúng không ảnh hưởng đến lạc hay khổ với nhau hoặc cả khổ và lạc. Bảy thân ấy là gì? Ðịa thân, thủy thân, hỏa thân, phong thân, khổ, lạc và thứ bảy là mạng” (HT. Thích Minh Châu dịch).

[21] Nguyên tác: Vô phương tiện (無方便): Không siêng năng, không tinh tấn.

[22] Nguyên tác: Lục sanh (六生, chaḷābhijātiyo). Sáu loại chúng sanh với những quan điểm khác biệt. Tham chiếu: A. 6.57 - III. 383: “Tôn giả Pūrana Kassapa trình bày 6 sanh loại: Sanh loại đen, sanh loại xanh, sanh loại đỏ, sanh loại vàng, sanh loại trắng, sanh loại hết sức trắng” (HT. Thích Minh Châu dịch). A. 6.57 - III. 383 đã giải thích 6 hạng người, đó là: 1. Hạng đen (kaṇdābhijāti) chỉ cho người làm nghề đồ tể, thợ săn; 2. Hạng xanh (nīlābhijāti) chỉ cho các vị Tỳ-kheo; 3. Hạng đỏ (ohitābhijāti) chỉ cho các vị tu khổ hạnh của Nigaṇṭha; 4. Hạng vàng (haliddābhijāti) chỉ cho tín đồ của phái lõa thể; 5. Hạng trắng (sukkābhijāti) chỉ cho những du sĩ lõa thể (ājīvaka). 6. Hạng cực trắng (paramasukkābhijāti) chỉ cho Makkhali Gosāla và các vị Tổ sư của ông ta như Nanda Vaccha, Kisa Saṅkicca.

[23] Nội dung quan điểm này theo D. 2 vốn là chủ trương Cực đoan định mệnh luận (Niyativāda) của Makkhali Gosāla (末伽梨拘舍梨), không phải quan điểm của Pakudha Kaccāyana (波浮陀伽旃延). Tham chiếu: D. 2: “Này Ðại vương, không có nhơn, không có duyên, các loài hữu tình bị nhiễm ô; vô nhân, vô duyên, các loài hữu tình bị nhiễm ô. Không có nhân, không có duyên, các loài hữu tình được thanh tịnh; vô nhân, vô duyên, các loài hữu tình được thanh tịnh. Không có tự tác, không có tha tác, không có nhân tác, không có lực, không có tinh tấn, không có nhân lực, không có sự cố gắng của người. Tất cả loài hữu tình, tất cả sanh vật, tất cả sinh loại, tất cả sanh mạng đều không tự tại, không lực, không tinh tấn. Chúng bị dắt dẫn, chi phối bởi định mệnh, bởi điều kiện bộ loại của chúng, bởi cá tánh của chúng. Chúng hưởng thọ khổ lạc, y theo 6 loại thác sanh của chúng” (HT. Thích Minh Châu dịch). Xem thêm S. 24.7 - III. 210.

[24] Nguyên tác: Vô lực (無力, Natthi balaṃ), là thuyết của Makkhali Gosāla. Tham chiếu: D. 2:  Natthi attakāre, natthi parakāre, natthi purisakāre, natthi balaṃ, natthi vīriyaṃ, natthi purisathāmo, natthi purisaparakkamo (Không có tự tác, không có tha tác, không có nhân tác, không có lực, không có tinh tấn, không có nhân lực, không có sự cố gắng của người), HT. Thích Minh Châu dịch.

[25] Tán-nhã Tỳ-la-lê-tử (散若毘羅梨子, Sañjaya Belaṭṭhiputta) chủ trương Ngụy biện luận (Vikkhepavāda), còn gọi Bất khả tri luận (不可知論).

[26] Ni-kiền-tử (尼乾子) còn gọi Ni-kiền-đà Nhã-đề-tử (尼乾陀若提子, Nigaṇṭha Nātaputta) chủ trương Khổ hạnh với 4 loại cấm giới. Xem chi tiết ở D. 2.

[27] Nhất thiết trí (一切智, Sabbaññū) còn được dịch âm là Tát-vân-nhã (薩云若). Tham chiếu: DA. 196: “Này A-nan! Ni-kiền-thân-tử thật ra chưa phải là bậc Nhất thiết trí mà tự xưng là bậc Nhất thiết trí” (阿難! 尼揵親子實非薩云若, 而自稱薩云若).

[28] Nguyên tác: Nội ngoại (內外), chỉ cho nam, nữ, tôn ti, lớn, nhỏ (泛指男女尊卑長幼).

[29] Ma-kiệt quốc (摩竭國, Māgadha). Xem chú thích 5, kinh số 2, tr. 517.

[30] Nguyên tác: Thị, giáo, lợi, hỷ (示, 教, 利, 喜). Xem chú thích 60, kinh số 1, tr. 511.

[31] Nguyên tác: Thị, giáo, lợi, hỷ (示, 教, 利, 喜). Xem chú thích 60, kinh số 1, tr. 511.

[32] Như trên.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.