Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 01 »
Kinh Trường A-Hàm
(長阿含經)
(Bản dịch của Trung tâm Dịch thuật Trí Tịnh)
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật cùng với đại chúng một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳkheo du hóa trong nhân gian ở nước Câu-tát-la,[2] rồi đi đến Y-xa-năng-già-la,[3] thôn của Bà-la-môn ở Câu-tát-la và nghỉ đêm trong rừng Y-xa. Lúc ấy, có hai Bà-la-môn tên là Phất-già-la-sa-la[4] và Đa-lê-xa[5] vì có chút duyên sự nên cũng đến thôn này.
Bà-la-môn Phất-già-la-sa-la có cha mẹ từ bảy đời đến nay đều sống chân chánh, không bị người khác gièm pha, đọc tụng thông suốt ba bộ Vệ-đà,[6] phân biệt rành rẽ các loại kinh thư, giỏi về pháp xem tướng của bậc đại nhân, biết rõ điềm tốt xấu, thành thạo pháp lễ nghi cúng tế. Đệ tử của ông có đến năm trăm người, thường được dạy dỗ đầy đủ.
Trong số đệ tử của Phất-già-la-sa-la, có một vị tên là Bà-tất-tra7 cũng có cha mẹ từ bảy đời đến nay đều sống chân chánh, không bị người khác gièm pha, đọc tụng thông suốt ba bộ Vệ-đà, phân biệt rành rẽ các loại kinh thư, giỏi về pháp xem tướng của bậc đại nhân, biết rõ điềm tốt xấu, thành thạo lễ nghi cúng tế. Bà-tất-tra cũng có năm trăm đệ tử, thường được dạy dỗ đầy đủ.
Bà-la-môn Đa-lê-xa cũng có cha mẹ từ bảy đời đến nay đều sống chân chánh, không bị người khác gièm pha, đọc tụng thông suốt ba bộ Vệ-đà, phân biệt rành rẽ các loại kinh thư, giỏi về pháp xem tướng của bậc đại nhân, biết rõ điềm tốt xấu, thành thạo lễ nghi cúng tế. Đệ tử của ông có đến năm trăm người, thường được dạy dỗ đầy đủ.
Trong số đệ tử của Đa-lê-xa, có một vị tên Phả-la-đọa có cha mẹ từ bảy đời đến nay đều sống chân chánh, không bị người khác gièm pha, đọc tụng thông suốt ba bộ Vệ-đà, phân biệt rành rẽ các loại kinh thư, giỏi về pháp xem tướng của bậc đại nhân, biết rõ điềm tốt xấu, thành thạo lễ nghi cúng tế. Phả-la-đọa cũng có năm trăm đệ tử, thường được dạy dỗ đầy đủ.
[0105a08] Bấy giờ, hai ông Bà-tất-tra và Phả-la-đọa[7] mới sáng sớm đã đến già-lam[8] cùng nhau bàn luận nghĩa lý, ganh đua phải trái với nhau. Bà-tất-tra nói với Phả-la-đọa rằng: “Đạo của tôi là chân chánh, có khả năng xuất ly, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên. Đây là lời của đại sư Bà-la-môn Phất-già-la-sa-la truyền dạy.” Phả-la-đọa lại nói: “Đạo của tôi là chân chánh, có khả năng xuất ly, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên. Đây là lời của đại sư Bà-la-môn Đa-lê-xa đã nói.” Hai người cứ tranh luận qua lại như thế nhiều lần, chỉ nhằm tự tán dương “đạo của mình là chân chánh” và cuối cùng không ai chịu nhường ai.
Thế rồi, Bà-tất-tra nói với Phả-la-đọa: “Tôi nghe tin có Sa-môn Cù-đàm con dòng họ Thích, xuất gia tu hành đã thành đạo quả, hiện đang du hóa trong nhân gian, ở nước Câu-tát-la và đang nghỉ tại rừng Y-xa-năng-già-la. Ngài có danh tiếng lớn, lưu truyền khắp nhân gian. Sa-môn Cù-đàm là Như Lai, bậc Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười đức hiệu. Ngài ở giữa chư thiên và loài người, Ma và Thiên ma, Sa-môn, Bà-la-môn, tự thân chứng ngộ rồi thuyết pháp cho chúng sanh. Giáo pháp của Ngài nói ra phần đầu, phần giữa và phần cuối đều chân chánh, đầy đủ cả nghĩa và văn, Phạm hạnh thanh tịnh. Bậc Chân nhân như vậy thật xứng đáng để đến viếng thăm Ngài. Tôi nghe nói Sa-môn Cù-đàm biết rõ con đường Phạm thiên, có thể giảng thuyết cho người. Ngài thường trò chuyện qua lại với Phạm thiên. Chúng ta hãy cùng nhau đến chỗ Cù-đàm, cầu xin Ngài phân định việc giữa hai ta. Nếu Sa-môn có dạy điều gì thì chúng ta nên vâng giữ.”
Thế rồi, Bà-tất-tra và Phả-la-đọa cùng nhau đi đến rừng Y-xa, chỗ đức Thế Tôn, thăm hỏi xong rồi ngồi sang một bên.
Lúc đó, đức Phật biết được ý nghĩ trong tâm của hai Bà-la-môn này, nên bảo Bà-tất-tra rằng:
Cả hai người vào lúc sáng sớm đã đến già-lam, cùng nhau bàn luận, ganh đua phải trái. Người này nói: “Pháp của ta là chân chánh, có khả năng xuất ly, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên. Đó là điều mà đại sư Bà-la-môn Phất-già-lasa-la truyền dạy.” Người kia nói: “Pháp của ta là chân chánh, có khả năng xuất ly, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên. Đây là điều mà đại sư Bà-la-môn Đa-lê-xa giảng dạy.” Hai ngươi đã nhiều lần tranh luận, phản bác lẫn nhau, sự việc có đúng như vậy không?
[0105b03] Khi Bà-tất-tra và Phả-la-đọa nghe đức Phật nói lời này, thảy đều kinh ngạc, toàn thân rúng động rồi tự suy nghĩ: “Sa-môn Cù-đàm có đại thần lực, biết được tâm người, những điều mà chúng ta muốn bàn luận thì Sa-môn
Cù-đàm đã nói trước rồi.”
Rồi Bà-tất-tra bạch với Phật:
Nếu đạo của người này và đạo của người kia đều tự xưng là “chân chánh, có khả năng xuất ly, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên” thì điều Bà-la-môn Phấtgià-la-sa-la nói là chân thật hay điều Bà-la-môn Đa-lê-xa nói là chân thật?
Đức Phật dạy:
Giả sử, này Bà-tất-tra, đạo của Bà-la-môn này và đạo của Bà-la-môn kia đều chân chánh, đều có khả năng xuất ly, dẫn đến cộng trú với Phạm thiên thì tại sao các ông mới tảng sáng đã đến già-lam tranh tụng phải trái với nhau đến nhiều lần như thế?
Bà-tất-tra thưa Phật:
Vì có những Bà-la-môn thông suốt ba bộ Vệ-đà[9] giảng thuyết các con đường khác nhau, con đường tự tại dục, con đường tự tác và con đường Phạm thiên.[10] Ba con đường ấy đều dẫn đến cộng trú với Phạm thiên. Thưa đức Cùđàm! Cũng như trong thôn xóm có nhiều con đường nhưng tất cả đều dẫn vào thành, cũng vậy các Bà-la-môn tuy nói những con đường khác nhau nhưng đều dẫn đến cộng trú với Phạm thiên.
Đức Phật hỏi Bà-tất-tra:
Những con đường đó chung cuộc có dẫn đến Phạm thiên không?
Bà-tất-tra đáp:
Thưa vâng! Đều dẫn đến Phạm thiên.
Đức Phật lặp lại câu hỏi đến ba lần:
Những con đường đó chung cuộc có dẫn đến Phạm thiên không?
Bà-tất-tra đáp:
Đều dẫn đến Phạm thiên!
Sau khi đã xác định câu trả lời, đức Thế Tôn bèn hỏi Bà-tất-tra:
Thế nào, trong số những Bà-la-môn thông suốt ba bộ Vệ-đà có ai đã từng thấy Phạm thiên chưa?
Đáp:
Thưa, chưa có ai nhìn thấy!
Thế nào? Bà-tất-tra! Tiên sư của Bà-la-môn thông suốt ba bộ Vệ-đà có ai đã từng nhìn thấy Phạm thiên chưa?
Thưa, chưa ai từng nhìn thấy!
Thế nào? Bà-tất-tra! Các tiên nhân thông suốt ba bộ Vệ-đà, các Bà-la-môn kỳ cựu[11] thuở xưa đều đọc tụng thông suốt, có khả năng giảng thuyết cho người khác nghe các bài tán tụng, ca vịnh thi thư cổ xưa. Tên của các vị ấy là: A-tráma,[12] Bà-ma-đề-bà, Tỳ-bà-thẩm, Y-ni-la-tư, Xà-bà-đề-già, Bà-bà-tất, Ca-diếp, A-lâu-na, Cù-đàm-na, Thủ-chỉ, Bà-la-tôn-đà.[13] Những vị này đã từng được nhìn thấy Phạm thiên chưa?
Đáp:
Thưa, chưa ai từng nhìn thấy!
Đức Phật dạy:
Nếu các Bà-la-môn thông suốt ba bộ Vệ-đà không có vị nào nhìn thấy được Phạm thiên và tiên sư của Bà-la-môn thông suốt ba bộ Vệ-đà cũng không có ai nhìn thấy được Phạm thiên, cho đến các bậc đại tiên Bà-la-môn kỳ cựu thông suốt ba bộ Vệ-đà như A-trá-ma... cũng không có vị nào nhìn thấy được Phạm thiên thì nên biết rằng những lời của Bà-la-môn thông suốt ba bộ Vệ-đà nói ra đều không đúng sự thật.
[0105c04] Đức Thế Tôn lại bảo Bà-tất-tra:
Như có một kẻ dâm đãng nói rằng: “Tôi đã tư thông với một cô gái trẻ đẹp và việc đó quả thật tuyệt vời.” Người khác nghe liền hỏi: “Ông có biết cô gái đó không? Cô ta ở đâu? Phía Đông, phía Tây, phía Nam hay phía Bắc?” Đáp rằng: “Không biết!” Lại hỏi:
“Ông có biết quê quán, thành ấp, thôn xóm của cô gái đó không?”
“Không biết!”
“Thế ông có biết cha mẹ và tên họ của cô ta không?”
“Không biết!”
“Vậy ông có biết người con gái đó thuộc dòng Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá hay Thủ-đà-la không?” “Không biết!”
“Ông có biết tướng mạo hình dáng của cô gái đó cao hay thấp, mập hay ốm, đen hay trắng và đẹp xấu thế nào không?”
“Không biết!”
Thế nào? Bà-tất-tra! Kẻ dâm đãng kia ca ngợi như vậy có phải là sự thật không?
Bà-tất-tra đáp:
Không thật!
Cũng vậy, Bà-tất-tra! Những gì Bà-la-môn thông suốt ba bộ Vệ-đà nói ra cũng như vậy, đều là lời hư dối.
Thế nào? Bà-tất-tra! Bà-la-môn thông suốt ba bộ Vệ-đà của ông nhìn thấy mặt trời, mặt trăng di chuyển và vị trí lúc lặn lúc mọc, rồi chắp tay phụng thờ và tuyên bố rằng: “Con đường này chân chánh, sẽ được xuất ly, dẫn đến mặt trời, mặt trăng” được hay không?
Bà-la-môn đáp:
Đúng vậy! Bà-la-môn thông suốt ba bộ Vệ-đà thấy mặt trời, mặt trăng di chuyển và cả vị trí lúc lặn lúc mọc, rồi chắp tay phụng thờ nhưng không thể nói: “Con đường này chân chánh, sẽ được xuất ly, dẫn đến mặt trời, mặt trăng.”
Như vậy, Bà-tất-tra! Bà-la-môn thông suốt ba bộ Vệ-đà thấy mặt trời, mặt trăng di chuyển và vị trí lúc lặn lúc mọc, rồi chắp tay phụng thờ nhưng không thể nói: “Con đường này là chân chánh, sẽ được xuất ly, dẫn đến mặt trời, mặt trăng.” Thế nhưng họ vẫn chắp tay cung kính phụng thờ thì chẳng phải là hư vọng sao?
Đúng vậy, thưa đức Cù-đàm! Họ thật hư vọng.
Đức Phật bảo:
Ví như người dựng thang ở chỗ đất trống, có người khác đến hỏi:
“Ông dựng thang ở đó để làm gì?” Đáp:
“Tôi muốn leo lên nhà.” Lại hỏi:
“Nhà đó ở chỗ nào? Đông, Tây, Nam hay Bắc?” Đáp:
“Không biết!”
Thế nào? Bà-tất-tra! Người dựng thang muốn leo lên nhà đó chẳng phải là hoang đường sao?
Đáp:
Đúng vậy, thưa Thế Tôn! Người kia thật là hoang đường.
Đức Phật dạy:
Bà-la-môn thông suốt ba bộ Vệ-đà cũng như vậy, đều hư dối, không thật.
Này Bà-tất-tra, năm loại dục[14] thật đáng yêu, đáng thích! Thế nào là năm dục? Tức là mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị và thân nhận biết xúc chạm, thật đáng yêu, đáng thích. Nhưng trong pháp Hiền thánh của Ta thì những pháp đó là đắm trước, là trói buộc, là xiềng xích. Bà-la-môn thông suốt ba bộ Vệ-đà kia đã bị năm dục nhận chìm, ái dục dính chặt nên không thấy sự tai hại, lỗi lầm, không biết thoát ly, đã bị năm dục trói buộc. Giả sử họ có phụng thờ mặt trời, mặt trăng, nước, lửa mà cầu nguyện rằng: “Xin hãy giúp tôi sanh lên cõi Phạm thiên” thì điều đó thật hoang đường. Ví như sông A-di-la16 nước dâng tràn bờ, các loài chim, quạ có thể đứng trên bờ cúi xuống uống được. Lúc ấy, có người ở tại bờ này nhưng thân bị trói chặt nên kêu bờ bên kia rằng: “Hãy lại đây, đưa tôi sang sông.” Bờ bên kia có thể nào di chuyển lại gần cho người ấy sang sông không?
[0106a08] Bà-tất-tra đáp:
Thưa không!
Này Bà-tất-tra, năm loại dục thật đáng yêu, đáng thích nhưng đối với pháp Hiền thánh thì pháp ấy cũng như xiềng xích. Các Bà-la-môn thông suốt ba bộ Vệ-đà kia đã bị năm dục nhận chìm, ái dục dính chặt, không thấy sự tai hại, lỗi lầm, không biết thoát ly. Họ bị năm dục trói buộc, dù cho họ có phụng thờ mặt trời, mặt trăng, nước, lửa và cầu nguyện rằng: “Hãy giúp tôi sanh lên cõi Phạm thiên” thì cũng giống như vậy, hoàn toàn không thể xảy ra.
Này Bà-tất-tra! Ví như sông A-di-la mặt nước tràn bờ, các loài chim quạ tha hồ uống, có người muốn qua sông nhưng không vận dụng sức lực của thân thể, tay chân, không nương vào thuyền bè, như vậy có qua sông được không?
Đáp:
Không thể qua được!
Này Bà-tất-tra! Bà-la-môn thông suốt ba bộ Vệ-đà cũng như vậy. Họ không tu Phạm hạnh thanh tịnh của Sa-môn, lại tu tập hạnh bất tịnh của đạo khác mà muốn sanh lên Phạm thiên thì quả thật không có lý đó.
Này Bà-tất-tra, cũng như nước lũ trên núi cuốn trôi nhiều dân chúng và ở đó không có thuyền bè, cũng không có cầu. Nếu có người muốn qua bờ bên kia nhưng thấy nước lũ trên núi cuốn trôi nhiều dân chúng và ở đó lại không có thuyền bè, cũng không có cầu, người kia tự nghĩ: “Ta chỉ còn cách gom nhặt thật nhiều cỏ cây, buộc thành chiếc bè chắc chắn, rồi dùng sức của chính mình mới có thể sang bờ bên kia.” Nghĩ xong, người ấy liền gom nhặt thật nhiều cỏ cây rồi kết thành chiếc bè, rồi dùng sức của chính mình lướt bè sang bờ kia một cách an toàn.
Này Bà-tất-tra, trường hợp này cũng lại như vậy. Nếu vị Tỳ-kheo xả bỏ hạnh bất tịnh của đạo khác, tu tập Phạm hạnh thanh tịnh của Sa-môn và muốn sanh lên Phạm thiên thì điều ấy hoàn toàn có thể được. Thế nào? Bà-tất-tra!
Phạm thiên có tâm giận ghét hay không có tâm giận ghét?
Đáp:
Không có tâm giận ghét!
Bà-la-môn thông suốt ba bộ Vệ-đà có tâm giận ghét hay không có tâm giận ghét?
Đáp:
Có tâm giận ghét!
Này Bà-tất-tra, Phạm thiên không có giận ghét nhưng Bà-la-môn thông suốt ba bộ Vệ-đà có tâm giận ghét. Như vậy, “có tâm giận ghét và không có tâm giận ghét” không giống nhau, vì không cùng một chí hướng và không cùng giải thoát. Thế nên, Phạm thiên và Bà-la-môn không thể cộng trú. Thế nào? Bà-tấttra! Phạm thiên có tâm sân hay không có tâm sân?
[0106b03] Đáp:
Không có tâm sân!
Lại hỏi:
Bà-la-môn thông suốt ba bộ Vệ-đà có tâm sân hay không có tâm sân?
Đáp:
Có tâm sân!
Đức Phật dạy:
Phạm thiên không có tâm sân mà Bà-la-môn thông suốt ba bộ Vệ-đà có tâm sân. Như vậy, “có tâm sân và không có tâm sân” không giống nhau, vì không cùng một chí hướng và không cùng giải thoát. Thế nên, Phạm thiên và Bà-la-môn không thể cộng trú. Thế nào? Bà-tất-tra! Phạm thiên có tâm hận hay không có tâm hận?
Đáp:
Không có tâm hận!
Lại hỏi:
Bà-la-môn thông suốt ba bộ Vệ-đà có tâm hận hay không có tâm hận?
Đáp:
Có tâm hận!
Phật bảo:
Này Bà-tất-tra! Phạm thiên không có tâm hận mà Bà-la-môn thông suốt ba bộ Vệ-đà có tâm hận. Như vậy, “có tâm hận và không có tâm hận” không giống nhau, vì không cùng một chí hướng và không cùng giải thoát. Thế nên, Phạm thiên và Bà-la-môn không thể cộng trú. Thế nào? Bà-tất-tra! Phạm thiên có quyến thuộc và sản nghiệp không?
Đáp:
Không có!
Lại hỏi:
Bà-la-môn thông suốt ba bộ Vệ-đà có quyến thuộc và sản nghiệp không? Đáp:
Thưa có!
Phạm thiên không có quyến thuộc và sản nghiệp, còn Bà-la-môn thông suốt ba bộ Vệ-đà có quyến thuộc và sản nghiệp. Như vậy, “có quyến thuộc, sản nghiệp và không có quyến thuộc, sản nghiệp” không giống nhau, vì không cùng một chí hướng và không cùng giải thoát. Thế nên, Phạm thiên và Bà-lamôn không thể cộng trú. Thế nào? Bà-tất-tra! Phạm thiên được tự tại hay không được tự tại?
Đáp:
Phạm thiên được tự tại!
Lại hỏi:
Bà-la-môn thông suốt ba bộ Vệ-đà được tự tại hay không được tự tại?
Đáp:
Không được tự tại!
Phạm thiên được tự tại mà Bà-la-môn thông suốt ba bộ Vệ-đà không được tự tại. Như vậy, “người không được tự tại và người được tự tại” không giống nhau vì không cùng một chí hướng và không cùng giải thoát. Thế nên, Phạm thiên và Bà-la-môn không thể cộng trú. Giả sử có người đến vấn nạn về nghĩa lý sâu xa, Bà-la-môn thông suốt ba bộ Vệ-đà không thể trả lời đầy đủ, có đúng như vậy không?
Đáp:
Đúng như vậy!
Khi đó, Bà-tất-tra và Phả-la-đọa, hai người đều thưa đức Phật rằng:
Hãy gác lại sự bàn luận này! Chúng tôi nghe nói Sa-môn Cù-đàm biết rõ con đường Phạm thiên, có khả năng thuyết pháp cho người. Ngài cùng Phạm thiên thường gặp nhau, trò chuyện qua lại, kính mong Ngài rủ lòng thương xót, mở bày và diễn nói rộng rãi con đường dẫn đến Phạm thiên để chúng tôi được hiểu!
Đức Phật bảo Bà-tất-tra:
Nay Ta hỏi ông, hãy tùy ý mà đáp. Thế nào? Bà-tất-tra! Nước Tâm Niệm[15] cách đây xa hay gần?
Đáp:
Thưa gần!
Giả sử có người sanh trưởng ở nước Tâm Niệm và được người nước khác hỏi đường đi đến nước này. Thế nào? Bà-tất-tra! người sanh trưởng ở nước Tâm Niệm trả lời đường đi cho người hỏi kia há có điều gì nghi ngờ chăng?
[0106c02] Đáp:
Thưa, không có điều gì nghi ngờ! Vì sao như vậy? Vì vị ấy đã sanh trưởng ở nơi đó.
Đức Phật dạy:
Dẫu người sanh trưởng ở nước Tâm Niệm khi trả lời cho người hỏi đường kia có thể còn có điều nghi ngờ, thế nhưng nếu ai hỏi Ta về con đường dẫn đến Phạm thiên thì Ta trả lời cho họ không có điều gì nghi ngờ cả. Vì sao như vậy? Vì Ta đã từng nhiều lần nói về con đường Phạm thiên.
Khi đó, Bà-tất-tra và Phả-la-đọa lại cùng bạch đức Phật:
Hãy tạm gác lại những bàn luận khác! Chúng tôi nghe nói Sa-môn Cùđàm biết rõ con đường Phạm thiên, có khả năng thuyết pháp cho người; Ngài cùng Phạm thiên thường gặp nhau, trò chuyện qua lại, kính mong Ngài rủ lòng thương xót, chỉ rõ, diễn thuyết và mở bày con đường dẫn đến Phạm thiên để chúng tôi được hiểu!
Đức Phật dạy:
Hãy lắng nghe! Khéo suy nghĩ, Ta sẽ nói cho các ông.
Thưa vâng, chúng con vui lòng muốn được nghe!
Đức Phật dạy:
Đức Như Lai, bậc Chí Chân, Đẳng Chánh Giác thị hiện ở đời, đầy đủ mười đức hiệu, cho đến thành tựu bốn thiền, ở ngay trong đời này mà tự tịnh lạc. Vì sao như vậy? Vì siêng năng tu tập, chuyên niệm, không quên, ưa thích một mình ở nơi yên vắng, không buông lung. Như Lai vận tâm từ rải khắp một phương, các phương khác cũng vậy, rộng khắp, không ngằn mé, bình đẳng, vô lượng, không sân hận, không não hại, an trú với tâm ấy mà tự tịnh lạc. Tâm bi, tâm hỷ và tâm xả cũng rải khắp một phương, các phương khác cũng giống như vậy, rộng khắp, không ngằn mé, bình đẳng, vô lượng, không oán kết, không sân hận, không có ý não hại, an trú với tâm ấy mà tự tịnh lạc. Thế nào? Bà-tất-tra!
Phạm thiên có tâm giận ghét hay không có tâm giận ghét?
Đáp:
Thưa, không có tâm giận ghét!
Phật lại hỏi:
Tỳ-kheo thực hành hạnh từ bi có tâm giận ghét hay không có tâm giận ghét?
Đáp:
Thưa, không có tâm giận ghét!
Đức Phật dạy:
Phạm thiên không có tâm giận ghét, Tỳ-kheo thực hành hạnh từ bi không có tâm giận ghét. Như vậy, “không tâm giận ghét và không tâm giận ghét” là cùng chí hướng, cùng giải thoát. Vì vậy, Phạm thiên và Tỳ-kheo được cộng trú với nhau. Thế nào? Bà-tất-tra! Phạm thiên có tâm sân hay không có tâm sân?
Đáp:
Thưa, không có tâm sân!
Lại hỏi:
Tỳ-kheo thực hành hạnh từ bi, có tâm sân hay không có tâm sân?
Đáp:
Thưa, không có tâm sân!
Đức Phật dạy:
Phạm thiên không có tâm sân và vị Tỳ-kheo thực hành hạnh từ bi cũng không có tâm sân. Như vậy, cả hai đều không có tâm sân nên cùng một chí hướng, cùng giải thoát. Cho nên, Phạm thiên và Tỳ-kheo được cộng trú với nhau. Thế nào? Bà-tất-tra! Phạm thiên có tâm hận hay không có tâm hận?
Đáp:
Thưa, không có tâm hận!
Vị Tỳ-kheo thực hành hạnh từ bi, có tâm hận hay không có tâm hận?
Đáp:
Thưa, không có!
Đức Phật dạy:
Phạm thiên không có tâm hận và vị Tỳ-kheo thực hành hạnh từ bi không có tâm hận. Như vậy, cả hai đều không có tâm hận, nên cùng chí hướng, cùng giải thoát. Cho nên, Tỳ-kheo và Phạm thiên đều được cộng trú với nhau. Thế nào? Bà-tất-tra! Phạm thiên có quyến thuộc và sản nghiệp không?
[0107a02] Đáp:
Thưa, không có!
Tỳ-kheo thực hành hạnh từ bi có quyến thuộc và sản nghiệp không?
Đáp:
Thưa, không có!
Đức Phật dạy:
Phạm thiên không có quyến thuộc và sản nghiệp, vị Tỳ-kheo thực hành hạnh từ bi cũng không có quyến thuộc và sản nghiệp. Như vậy, cả hai đều không có quyến thuộc và sản nghiệp, nên cùng chí hướng, cùng giải thoát. Cho nên, Phạm thiên và Tỳ-kheo được cộng trú với nhau. Thế nào? Bà-tất-tra! Phạm thiên được tự tại không?
Đáp:
Thưa, được tự tại!
Vị Tỳ-kheo thực hành hạnh từ bi có tự tại không?
Đáp:
Thưa, có tự tại!
Đức Phật dạy:
Phạm thiên được tự tại, vị Tỳ-kheo thực hành hạnh từ bi được tự tại. Như vậy cả hai đều được tự tại, nên cùng một chí hướng, cùng một giải thoát. Thế nên Phạm thiên và Tỳ-kheo đều cộng trú với nhau.
Đức Phật bảo:
Này Bà-tất-tra nên biết! Tỳ-kheo thực hành tâm từ nên sau khi mạng chung liền được sanh lên cõi Phạm thiên, nhanh như tên bắn.
Khi đức Phật thuyết pháp này, Bà-tất-tra và Phả-la-đọa ngay đó liền xa lìa trần cấu, ở trong các pháp chứng được pháp nhãn tịnh.
Bấy giờ, Bà-tất-tra và Phả-la-đọa nghe đức Phật thuyết giảng xong đều hoan hỷ phụng hành.[16]
[1] Nguyên tác: Tam minh kinh 三明經 (T.01. 0001.26. 0104c16). Tham chiếu: D. 13, Tevijja Sutta (Kinh Tam minh).
[2] Câu-tát-la (俱薩羅, Kosala). Xem chú thích 3, kinh số 7, tr. 623.
[3] Y-xa-năng-già-la (伊車能伽羅, Iccānanagala).
[4] Phất-già-la-sa-la (沸伽羅娑羅, Pokkharasāti).
[5] Đa-lê-xa (多梨車, Tārukkha).
[6] Nguyên tác: Dị điển tam bộ (異典三部), chỉ cho 3 bộ Vệ-đà. 7 Bà-tất-tra (婆悉咤, Vāsettha).
[7] Phả-la-đọa (頗羅墮, Bhāradvāja).
[8] Nguyên tác: Viên trung (園中). Viên (園) ở đây viết tắt từ chữ “viên quán” (園觀), Từ điển Đinh Phúc Bảo giải thích: 園者園林,觀者高臺也, chỉ cho trú xứ sinh hoạt của những người xuất gia thuộc nhiều tôn giáo khác nhau, trong đó có Phật giáo. Trú xứ này bất định, có thể là một khu rừng, một căn nhà sinh hoạt cộng đồng, một khu vườn... tùy theo thỏa ước của cộng đồng. Nhằm tránh hiểu nhầm là một khu vườn cụ thể, nên chúng tôi sử dụng danh từ già-lam.
[9] Tam minh Bà-la-môn (三明婆羅門, Tevijja Brāhmaṇa).
[10] Nguyên tác: Tự tại dục đạo, tự tác đạo, Phạm thiên đạo (自在欲道,自作道,梵天道). Chưa thể xác định chính xác nội dung cú ngữ này. Quan điểm đầu tiên, có lẽ gần với quan điểm Túng dục luận (從欲論), gọi đủ là Hiện tại Niết-bàn luận (現在涅槃論, Diṭṭhadhammanibbānavādā) được ghi nhận trong D. 1: “Khi nào bản ngã này tận hưởng, sung mãn 5 món dục lạc, như thế bản ngã ấy đạt đến tối thượng Niết-bàn của loài hữu tình” (HT. Thích Minh Châu dịch). Thứ hai, triết phái chủ trương con đường hành động (kammamagga). Thứ ba, con đường thực hành “bốn tâm vô lượng” (四無量心) là từ, bi, hỷ, xả (慈, 悲, 喜, 捨).
[11] Nguyên tác: Cựu Bà-la-môn (舊婆羅門, Brāhmaṇānaṃ pubbakā),
[12] A-trá-ma (阿咤摩, Aṭṭhaka), Bà-ma-đề-bà (婆摩提婆, Vāmadeva), Tỳ-bà-thẩm (毘婆審, Vāseṭṭha), Y-ni-la-tư (伊尼羅斯, Aṅgiras), Xà-bà-đề-già (蛇婆提伽, Yamaṭaggi), Ca-diếp (迦葉, Kassapa).
[13] D. 20 ghi: A-trá-ma (阿咤摩, Aṭṭhaka), Bà-ma (婆摩, Vāmaka), Bà-ma-đề-bà (婆摩提婆, Vāmadeva),
Tỷ-ba-mật-đa (鼻波密多, Vessāmitta), Y-đâu-lại-tất (伊兜瀨悉, Aṅgiras), Da-bà-đề-già (耶婆提伽, Yamataggi), Bà-bà-bà-tất-tra (婆婆婆悉吒, Vāseṭṭha), Ca-diếp (迦葉, Kassapa), A-lâu-na (阿樓那, Bhāradvāja), Cù-đàm (瞿曇, Gotama), Thủ-di-bà (首夷婆), Tổn-đà-la (損陀羅).
[14] Nguyên tác: Ngũ dục khiết tịnh (五欲潔淨). Xem chú thích 20, kinh số 17, tr. 750. 16 A-di-la (阿夷羅, Aciravatī), một trong 5 con sông lớn ở Ấn Độ.
[15] Nguyên tác: Tâm Niệm quốc (心念國, Manasākata). Theo DPPN, đây là địa danh của một ngôi làng Bà-la-môn ở bên bờ sông Aciravatī (阿夷羅, A-di-la), thuộc nước Kosala (S. Kauśala, 俱薩羅, Câu-tát-la).
[16] Bản Hán, hết quyển 16.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.