Viện Nghiên Cứu Phật Học

 

24. KINH KIÊN CỐ[1]

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật cùng với đại chúng một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳkheo ngụ tại rừng Ba-bà-lợi-yểm-thứ,[2] thuộc thành Na-lan-đà.3

Bấy giờ, con trai ông trưởng giả tên là Kiên Cố[3] đi đến chỗ đức Phật, đảnh lễ sát chân Ngài rồi ngồi sang một bên và bạch đức Phật:

  • Lành thay, Thế Tôn! Cúi mong Ngài hãy dạy các vị Tỳ-kheo, kể từ hôm nay trở đi, nếu có gặp Bà-la-môn, trưởng giả hay cư sĩ nào đến thì nên vì họ mà hiện thần thông,[4] hiển bày pháp thượng nhân.[5] Đức Phật bảo:

  • Này Kiên Cố, Như Lai không bao giờ dạy các Tỳ-kheo biểu hiện thần thông, pháp của bậc Thượng nhân cho Bà-la-môn, trưởng giả hay cư sĩ. Như Lai chỉ dạy cho các đệ tử nên ở nơi thanh vắng, lặng lẽ tư duy về lý đạo. Nếu có công đức thì nên tự giấu kín, nếu có lỗi lầm thì nên tự tỏ bày sám hối.

Lúc đó, Kiên Cố lại bạch đức Phật:

  • Cúi mong Thế Tôn hãy dạy cho các vị Tỳ-kheo, nếu có gặp Bà-la-môn, trưởng giả hay cư sĩ nào đến thì nên [vì họ mà] hiện thần thông, [hiển bày] pháp của bậc Thượng nhân cho họ xem.

Đức Phật lại bảo:

  • Này Kiên Cố, Như Lai không bao giờ dạy các Tỳ-kheo biểu hiện thần thông, pháp của bậc Thượng nhân cho Bà-la-môn, trưởng giả hay cư sĩ. Như Lai chỉ dạy các đệ tử nên ở nơi thanh vắng, lặng lẽ tư duy về lý đạo. Nếu có công đức thì nên tự giấu kín, nếu có lỗi lầm thì nên tự tỏ bày sám hối. [0101c01] Lúc ấy, Kiên Cố lại bạch đức Phật:

  • Đối với pháp thượng nhân, con không có điều gì phải nghi ngờ nhưng ở thành Na-lan-đà này, trong một đất nước an bình thịnh vượng, dân chúng đông đúc như vầy mà biểu hiện thần thông thì chắc chắn có nhiều lợi ích, đức Phật cùng đại chúng sẽ dễ dàng hoằng hóa đạo mầu.

Đức Phật lại bảo Kiên Cố:

  • Như Lai không bao giờ dạy các Tỳ-kheo biểu hiện thần thông, pháp của bậc Thượng nhân cho Bà-la-môn, trưởng giả hay cư sĩ. Như Lai chỉ dạy cho các đệ tử nên ở nơi thanh vắng, lặng lẽ tư duy về lý đạo. Nếu có công đức thì nên tự giấu kín, nếu có lỗi lầm thì nên tự tỏ bày, sám hối. Vì sao như vậy? Vì có ba loại thần thông: Một là thần túc, hai là quán sát tâm người và ba là giáo giới.[6]

Này Kiên Cố, thế nào là thần túc? Vị Tỳ-kheo tập luyện vô lượng thần túc, có thể từ một thân biến ra vô số thân, từ vô số thân hợp lại thành một thân, hoặc đi xa, đi gần, đi xuyên qua núi, đi vào trong nước, đi xuyên qua đá, qua vách đều được tự tại, không bị ngăn ngại, không khác gì đi giữa hư không; hoặc ngồi kiếtgià giữa hư không như chim bay; ra, vào lòng đất như bơi lội trong nước; đi trên mặt nước cũng như đi trên mặt đất; hoặc thân tuôn ra khói, lửa như đám cháy lớn; hoặc dùng tay chạm mặt trời, mặt trăng; hoặc đứng cao đến trời Phạm thiên.

Nếu có vị cư sĩ, trưởng giả đã có lòng tin, khi trông thấy vị Tỳ-kheo hiện ra vô lượng thần túc, như đứng cao đến trời Phạm thiên thì sẽ đi đến chỗ những vị cư sĩ, trưởng giả khác chưa có lòng tin mà nói với họ rằng: “Tôi thấy các vị Tỳ-kheo hiện ra vô lượng thần túc,... cho đến đứng cao đến trời Phạm thiên.” Bấy giờ, những vị cư sĩ, trưởng giả chưa có lòng tin đó mới bảo với những vị có lòng tin rằng: “Tôi nghe nói có thần chú Cù-la[7] cũng có thể biến hiện vô lượng thần túc như thế,... cho đến đứng cao đến trời Phạm thiên.” Đức Phật hỏi:

  • Này Kiên Cố, kẻ chưa có lòng tin đó nói như thế, há không phải là lời chê bai hay sao?

Kiên Cố bạch đức Phật:

  • Đó thật là lời chê bai.

Đức Phật dạy:

  • Này Kiên Cố! Chính vì lẽ đó mà Như Lai không dạy các Tỳ-kheo biểu hiện thần thông biến hóa. Như Lai chỉ dạy cho các đệ tử nên ở nơi thanh vắng, lặng lẽ tư duy về lý đạo. Nếu có công đức thì nên tự giấu kín, nếu có lỗi lầm thì nên tự tỏ bày, sám hối. Như vậy, này con trai trưởng giả! Đó chính là loại thần túc mà đệ tử của Như Lai biểu hiện.

Này Kiên Cố! Thế nào là thần túc quán sát tâm người khác? Đó là, Tỳ-kheo thể hiện vô lượng thần túc quán sát, quán sát trong tâm của chúng sanh để thấy họ đang nhớ nghĩ những gì, ngay cả những ý nghĩ sâu kín cũng đều nhận biết. Nếu có trưởng giả, cư sĩ đã có tín tâm trông thấy vị Tỳ-kheo thể hiện vô lượng thần túc quán sát, quán sát trong tâm của chúng sanh để thấy họ đang nhớ nghĩ những gì, ngay cả những ý nghĩ sâu kín cũng đều nhận biết thì sẽ đi đến chỗ các trưởng giả, cư sĩ khác chưa có niềm tin mà nói với họ rằng: “Tôi thấy Tỳ-kheo thể hiện vô lượng thần túc quán sát, quán sát trong tâm của chúng sanh để thấy họ đang nhớ nghĩ những gì, ngay cả những ý nghĩ sâu kín cũng đều nhận biết.” Khi đó, những trưởng giả, cư sĩ chưa có niềm tin nghe nói như vậy rồi liền sanh tâm chê bai, nói rằng: “Thần chú Càn-đà-la[8] cũng có thể quán sát  biết rõ được tâm niệm của người khác, những việc sâu kín cũng đều nhận biết.” Thế nào, này con trai trưởng giả, đó chẳng phải là lời chê bai hay sao?

[0102a06] Kiên Cố bạch đức Phật:

  • Bạch đức Thế Tôn, đó thật là lời chê bai.

Đức Phật dạy:

  • Chính vì lẽ đó mà Như Lai không dạy các Tỳ-kheo biểu hiện thần thông biến hóa. Như Lai chỉ dạy cho đệ tử nên ở chỗ thanh vắng, lặng lẽ tư duy về lý đạo. Nếu có công đức thì nên tự giấu kín, nếu có lỗi lầm thì nên tự tỏ bày, sám hối. Như vậy, này con trai trưởng giả! Đó chính là loại thần túc quán sát tâm người mà đệ tử của Như Lai biểu hiện.

Thế nào là giáo giới thần túc? Này con trai trưởng giả! Nếu Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác xuất hiện ở đời, đầy đủ mười hiệu, Ngài đã tự thân chứng ngộ, giữa hàng trời, người, Ma, Thiên ma, Sa-môn, Bà-la-môn vì chúng sanh mà thuyết pháp. Pháp ấy phần đầu, phần giữa và phần cuối thảy đều chân chánh, đầy đủ cả nghĩa và văn, Phạm hạnh vẹn toàn. Nếu có trưởng giả hay cư sĩ nào được nghe pháp này, liền phát khởi niềm tin. Khi đã có niềm tin ở trong pháp này, vị ấy quán sát và tự suy nghĩ: “Ta không nên sống đời tại gia. Nếu sống tại gia thì cứ bị trói buộc, không thể tu hành Phạm hạnh thanh tịnh. Nay ta nên cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, đủ các công đức,... cho đến thành tựu Ba minh,[9] diệt trừ tối tăm, phát sanh ánh sáng đại trí. Vì sao như vậy? Vì nhờ tinh cần, thích sống một mình nơi thanh vắng, chuyên niệm không quên nên được kết quả như thế. Này Kiên Cố! Đó chính là loại thần túc giáo giới mà Tỳ-kheo đệ tử của Như Lai biểu hiện.

Bấy giờ, Kiên Cố, con trai trưởng giả, bạch đức Phật:

  • Có Tỳ-kheo nào thành tựu cả ba loại thần túc đó không?

Đức Phật bảo con trai trưởng giả:

  • Như Lai không nói có nhiều Tỳ-kheo thành tựu cả ba loại thần thông ấy. Nhưng, này con trai trưởng giả! Trong chúng này của Như Lai, có một Tỳ-kheo tự suy nghĩ rằng: “Thân này, với bốn đại đất, nước, lửa, gió, do đâu mà diệt hẳn?” Nghĩ thế, vị Tỳ-kheo ấy phút chốc hướng vào con đường thiên giới,[10] đi đến chỗ Tứ Thiên Vương[11] và hỏi: “Thân này, với bốn đại đất, nước, lửa, gió, do đâu mà diệt hẳn?”

Này con trai trưởng giả! Tứ Thiên Vương kia trả lời Tỳ-kheo: “Tôi không biết bốn đại do đâu mà diệt hẳn nhưng trên tôi có cõi trời tên là Đao-lợi[12] vi diệu bậc nhất, có trí tuệ lớn. Chư thiên cõi ấy có thể biết được bốn đại do đâu mà diệt hẳn.”

Vị Tỳ-kheo ấy nghe xong, trong phút chốc hướng vào con đường thiên giới, đi đến trời Đao-lợi rồi hỏi chư thiên: “Thân này, với bốn đại đất, nước, lửa, gió, do đâu mà diệt hẳn?” Chư thiên Đao-lợi đáp: “Tôi không biết được bốn đại do đâu mà diệt hẳn nhưng trên tôi có trời tên là Diệm-ma[13] vi diệu bậc nhất, có trí tuệ lớn, có thể biết được điều đó.”

Tỳ-kheo liền lên đó hỏi và được đáp: “Tôi không biết được!” Cứ như thế, lần lượt lên đến trời Đâu-suất, Hóa Tự Tại, Tha Hóa Tự Tại,[14] và trời nào cũng đáp: “Tôi không biết được bốn đại do đâu mà diệt nhưng trên chúng tôi còn có trời gọi là Phạm-ca-di[15] vi diệu bậc nhất, có trí tuệ lớn, trời ấy có thể biết được bốn đại do đâu mà diệt hẳn.”

Tỳ-kheo ấy trong phút chốc hướng vào con đường dẫn đến Phạm thiên. Đến Phạm thiên, Tỳ-kheo hỏi: “Thân này, với bốn đại đất, nước, lửa, gió, do đâu mà diệt hẳn?” Phạm thiên ấy đáp: “Tôi không biết được bốn đại do đâu mà diệt hẳn. Nay có Đại Phạm thiên vương không ai sánh bằng, thống lãnh cả ngàn thế giới, giàu sang quyền quý, rất tự tại, có thể tạo ra muôn loài, là cha mẹ của chúng sanh, chỉ có ngài mới biết được bốn đại do đâu mà diệt hẳn!”

Này con trai trưởng giả! Tỳ-kheo kia liền hỏi: “Vị Đại Phạm vương ấy nay ở đâu?” Phạm thiên đáp: “Tôi cũng không biết hiện giờ Đại Phạm vương ở đâu nhưng theo tôi nghĩ, ngài sẽ xuất hiện bây giờ”, quả thực, không bao lâu bỗng thấy Đại Phạm thiên vương xuất hiện. Này con trai trưởng giả! Tỳ-kheo kia liền đến hỏi Phạm vương: “Thân này, với bốn đại đất, nước, lửa, gió, do đâu mà diệt hẳn?” Đại Phạm vương kia đáp: “Ta là Phạm thiên vương, không ai sánh bằng,
 

thống lãnh cả ngàn thế giới, giàu sang quyền quý, rất tự tại, có thể tạo ra muôn loài, là cha mẹ của tất cả chúng sanh.” Khi đó, Tỳ-kheo kia nói: “Tôi không hỏi việc đó, tôi chỉ muốn hỏi bốn đại đất, nước, lửa, gió do đâu mà diệt hẳn?”

Này con trai trưởng giả! Phạm vương kia vẫn cứ đáp: “Ta là Đại Phạm thiên vương, không ai sánh bằng,... cho đến có thể tạo ra muôn loài, là cha mẹ của tất cả chúng sanh.” Vị Tỳ-kheo lại hỏi: “Tôi không hỏi điều đó, tôi chỉ muốn hỏi bốn đại do đâu mà diệt hẳn thôi!”

Này con trai trưởng giả! Phạm thiên vương kia đáp ba lần như thế nhưng vẫn không trả lời được câu hỏi của Tỳ-kheo ấy là bốn đại do đâu mà diệt hẳn. Lúc đó, Đại Phạm vương bèn nắm tay phải của Tỳ-kheo, dẫn tới chỗ vắng và nói: “Này Tỳ-kheo! Hiện nay, các Phạm thiên đều tôn ta là người có trí tuệ bậc nhất, điều gì cũng biết, cũng thấy nên ta không thể trả lời với thầy rằng ta không thấy, không biết bốn đại do đâu mà diệt hẳn.” Rồi lại nói tiếp với Tỳ-kheo rằng: “Thầy thật quá dại khờ nên mới bỏ Như Lai mà tìm đến chư thiên để hỏi việc này! Thầy nên trở lại hỏi Thế Tôn việc này. Đức Phật dạy như thế nào, thầy hãy khéo léo thọ trì như vậy. Hiện nay, Thế Tôn đang ngự tại vườn ông Cấp Cô Độc, nước Xá-vệ. Thầy hãy mau đến đó mà hỏi!”

[0102c05] Này con trai trưởng giả! Khi ấy, vị Tỳ-kheo kia từ cõi Phạm thiên bỗng nhiên biến mất, nhanh như thời gian người lực sĩ co duỗi cánh tay, hiện đến vườn ông Cấp Cô Độc, rừng Kỳ-đà thuộc nước Xá-vệ. Sau đó, Tỳ-kheo đến chỗ Như Lai, cúi đầu đảnh lễ sát chân rồi ngồi sang một bên, bạch rằng: “Bạch Thế Tôn! Bốn đại, đất, nước, lửa, gió này do đâu mà diệt hẳn?”

Bấy giờ, Như Lai bảo: “Này Tỳ-kheo, ví như người lái buôn mang con chim ưng cùng đi biển.[16] Khi ra giữa biển khơi thì thả con chim ra. Chim bay giữa hư không, trông khắp cả bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, nếu nhìn thấy đất liền thì liền đáp xuống, nếu không thấy bờ thì chim sẽ bay trở lại đáp xuống thuyền. Này Tỳ-kheo, ông nay cũng như thế, đi cho đến Phạm thiên để hỏi ý nghĩa ấy nhưng cuối cùng không thành tựu gì mới trở lại hỏi Như Lai. Nay Như Lai sẽ chỉ dạy cho ông hiểu nghĩa đó.”

Đức Phật liền nói bài kệ:

Bốn đại này do đâu,
Diệt sạch không còn dấu?[17
Sắc thô, tế, đẹp, xấu,
Dài, ngắn, diệt do đâu?
Do đâu không danh, sắc,
Diệt hẳn, không dư tàn? [18]
Nên đáp: Thức vô hình.
Vô lượng, tự tỏa sáng.[19]
Thức diệt, bốn đại diệt,  
Thô, tế, đẹp, xấu diệt,
Thô, tế, đẹp, xấu diệt,
Thức diệt, tất cả diệt.21

 Khi nghe bài kệ này xong, Kiên Cố, con trai trưởng giả, bạch đức Phật:

  • Kính bạch Thế Tôn, vị Tỳ-kheo đó tên gì? Và làm thế nào để nhớ?

Đức Phật bảo con trai trưởng giả:

  • Vị Tỳ-kheo ấy tên A-thất-dĩ.22 Hãy ghi nhớ như vậy!

Bấy giờ, con trai trưởng giả tên là Kiên Cố nghe đức Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.

 

Chú thích:

[1] Nguyên tác: Kiên Cố kinh 堅固經 (T.01. 0001.24. 0101b14). Tham chiếu: D. 11, Kevaddha Sutta (Kinh Kiên Cố).

[2] Nguyên tác: Ba-bà-lợi-yểm-thứ lâm (波婆利掩次林, Pāvārikambavana), vườn Pāvārikamba. 3 Nguyên tác: Na-lan-đà thành (那闌陀城, Nāḷandā), thị tứ nằm ở phía Đông chùa Đại Giác (Mahābodhi), nước Ma-kiệt-đà (Magadha).

[3] Kiên Cố (堅固, Kevaddha), thanh niên tên Kevaddha. 

[4] Nguyên tác: Hiện thần túc (現神足, Iddhi pāṭihāriya). Tham chiếu: D. 11: Iddhipāda: Thần túc, có nơi dịch là “thần thông” (神通), “thần biến” (神變) hay “như ý túc” (如意足).

[5] Nguyên tác: Thượng nhân pháp (上人法, Uttarimanussadhammaṃ). Tạp. 雜 (T.02. 0099.254. 0062b22) gọi là “quá nhân pháp” (過人法), tức những pháp siêu việt, như chứng đắc thiền định, giải thoát, thần thông…

[6] Tham chiếu: D. 11: Ba loại thần túc gồm: 1. Thần biến thị đạo (神變示導, Iddhipāṭihāriya); 2. Ký tâm thị đạo (記心示導, Ādesanāpāithāriya); 3. Giáo giới thị đạo (教誡示導, Anusās anipāṭihāriya).

[7] Nguyên tác: Cù-la chú (瞿羅咒). Tham chiếu: D. 11: Atthi Maṇiko nāma vijjā (Có minh chú gọi là Maṇika).

[8] Nguyên tác: Càn-đà-la chú (乾陀羅咒). Tham chiếu: D. 11: Atthi Gandhāri nāma vijjā (Có minh chú gọi là Gandhāri).

[9] Tam minh (三明): Túc mạng minh (宿命明), Thiên nhãn minh (天眼明) và Lậu tận minh (漏盡明).

[10] Thúc thú thiên đạo (倏趣天道).

[11] Tứ Thiên Vương (四天王, Cātummahārājikā devā), tầng thứ nhất trong 6 tầng trời cõi Dục.

[12] Đao-lợi (忉利, Tāvatiṁsa), tầng thứ 2 trong 6 tầng trời cõi Dục.

[13] Diệm-ma (焰摩, Yāma) còn gọi Dạ-ma (夜摩), tầng thứ 3 trong 6 tầng trời cõi Dục.

[14] Đâu-suất (兜率, Tusita), Hóa Tự Tại (化自在, Nimmānarati), Tha Hóa Tự Tại (他化自在, Paranimmitavasavatti).

[15] Phạm-ca-di (梵迦夷, Brahma Kāyika) cũng gọi Phạm Thân thiên (梵身天) hay Phạm Chúng thiên (梵眾天), tầng thứ nhất trong 3 tầng thuộc cõi trời Sơ thiền (初禪天).

[16] Nguyên tác: Tý ưng nhập hải (臂鷹入海), thương nhân đi biển mang theo con chim tìm bờ.

[17] Tham chiếu: D. 11: Kattha āpo ca paṭhavī tejo vāyo na gādhati? (Nơi nào nước, đất, lửa và gió không trụ vững?)

[18] Tham chiếu: D. 11: Kattha nāmañ ca rūpañ ca asesaṃ uparujjhati? (Nơi nào danh và sắc hoại diệt không dư tàn?)

[19] Nguyên tác: Thức vô hình, vô lượng tự hữu quang (識無形, 無量自有光). Tham chiếu: D. 11: Viññāṇaṃ

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.