Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 01 »
Kinh Trường A-Hàm
(長阿含經)
(Bản dịch của Trung tâm Dịch thuật Trí Tịnh)
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật cùng với đại chúng một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳkheo du hóa nhân gian, đến nước Ma-kiệt-đà[ii] rồi ngụ tại Trúc Lâm,[iii] nơi nghỉ dưỡng của vua.[iv]
Lúc đó, có vị Phạm chí[v] tên là Thiện Niệm[vi] cùng với đệ tử là Phạm-ma-đạt,[vii] hai thầy trò thường đi theo sau đức Phật. Trong khi Phạm chí Thiện Niệm dùng nhiều cách chê bai đức Phật và chúng Tỳ-kheo thì đệ tử của ông là Phạm-mađạt lại dùng nhiều cách tán thán Phật, Pháp và Tăng. Hai thầy trò có tâm niệm khác nhau, mâu thuẫn nhau. Vì sao như vậy? Vì mỗi người có tập quán sai khác, kiến giải sai khác và sự thân cận cũng sai khác.
Lúc ấy, sau khi khất thực về, nhiều vị Tỳ-kheo nhóm họp tại giảng đường rồi cùng nhau bàn luận:
Kỳ lạ thay! Kỳ diệu thay! Đức Thế Tôn có thần lực lớn, đầy đủ oai đức, biết hết mọi tâm hướng của chúng sanh. Như hôm nay, có hai thầy trò là Phạm chí Thiện Niệm và Phạm-ma-đạt cùng đi theo sau đức Phật và chúng Tăng. Trong khi Phạm chí Thiện Niệm dùng nhiều cách chê bai Phật, Pháp và Tăng thì đệ tử là Phạm-ma-đạt lại dùng nhiều cách khen ngợi Phật, Pháp và Tăng, vì hai thầy trò có tập quán sai khác, kiến giải sai khác và sự thân cận cũng sai khác.
Lúc đó, bằng thiên nhĩ thanh tịnh thù thắng hơn người, đức Thế Tôn đang ở trong tịnh thất nghe các Tỳ-kheo bàn luận như thế, Ngài rời khỏi tịnh thất đi đến giảng đường rồi ngồi trước đại chúng. Tuy đã biết nhưng Ngài vẫn hỏi:
Này các Tỳ-kheo! Các thầy nhóm họp ở đây để bàn luận việc gì?
[0088c02] Các Tỳ-kheo bạch Phật:
Sau khi khất thực về, chúng con nhóm họp ở giảng đường này rồi cùng nhau bàn luận: “Kỳ lạ thay! Kỳ diệu thay! Đức Thế Tôn có thần lực lớn, đầy đủ oai đức, biết hết mọi tâm hướng của chúng sanh. Như hôm nay, có hai thầy trò là Phạm chí Thiện Niệm và Phạm-ma-đạt cùng đi theo sau đức Phật và chúng Tăng. Trong khi Phạm chí Thiện Niệm dùng nhiều cách chê bai Phật, Pháp và Tăng thì đệ tử là Phạm-ma-đạt lại dùng nhiều cách khen ngợi Phật, Pháp và Tăng. Vì sao như vậy? Vì hai thầy trò có tập quán sai khác, kiến giải sai khác và sự thân cận cũng sai khác.” Chúng con nhóm họp ở giảng đường và bàn luận những việc như thế.
Bấy giờ, đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
Nếu có ai dùng nhiều cách để chê bai Như Lai, chê bai Chánh pháp và chúng Tăng thì các thầy không nên sanh lòng oán giận hay có ác ý đối với họ. Vì sao như vậy? Vì nếu có ai dùng nhiều cách để chê bai Phật, Pháp và Tăng mà các thầy sanh lòng oán giận hay có ác ý thì các thầy sẽ tự gây chướng ngại cho mình. Bởi vậy, các thầy chớ sanh lòng oán giận hay có ác ý đối với họ. Này các Tỳ-kheo! Nếu có người ca ngợi Phật, Pháp và Tăng thì các thầy cũng chớ lấy đó làm điều vui mừng hãnh diện. Vì sao như vậy? Vì nếu các thầy sanh tâm vui mừng thì tự gây chướng ngại cho mình. Do đó, các thầy không nên vui mừng. Vì sao như vậy? Vì đó chỉ là những duyên nhỏ nhặt về oai nghi, giới hạnh[viii] mà hàng phàm phu ít học, không hiểu được nghĩa lý sâu xa, nên chỉ dựa vào sự thấy biết đó để khen ngợi.
Thế nào là những duyên nhỏ nhặt về oai nghi, giới hạnh mà hàng phàm phu ít học, chỉ dựa vào sự thấy biết đó để khen ngợi? Chẳng hạn như họ khen ngợi: Sa-môn Cù-đàm đã dứt trừ nghiệp sát, từ bỏ dao gậy, luôn có tâm tàm quý, thương xót tất cả chúng sanh.
Đó là những duyên nhỏ nhặt về oai nghi, giới hạnh mà hàng phàm phu ít học dựa vào đó để khen ngợi Như Lai.
Hoặc họ khen ngợi: Sa-môn Cù-đàm đã dứt bỏ trộm cướp, không có tâm trộm cướp.
Sa-môn Cù-đàm đã từ bỏ dâm dục, tịnh tu Phạm hạnh, một lòng giữ giới, không hành dâm dục, bổn hạnh trong sạch.
Sa-môn Cù-đàm dứt hẳn nghiệp nói dối, nói lời chí thành, nói lời chân thật, không dối gạt người.
Sa-môn Cù-đàm đã từ bỏ nói hai chiều, không đem lời người này đến quấy phá kẻ kia, không đem lời người kia đến quấy phá người này, gặp kẻ tranh cãi có thể khiến họ hòa thuận, kẻ đã hòa thuận thì làm cho họ vui thêm, nói ra lời gì cũng muốn đem lại sự hòa thuận, thành thật đi vào lòng người, lời nói hợp thời.
Sa-môn Cù-đàm đã từ bỏ lời nói ác, những lời thô ác làm tổn thương người khác, làm tăng lên lòng oán ghét, thù hận. Những lời thô ác này Ngài không bao giờ nói, chỉ nói điều lành làm vui đẹp lòng người, ai cũng quý mến, nghe mãi không chán, chỉ nói những lời như thế.
Sa-môn Cù-đàm đã từ bỏ nói lời thêu dệt,[ix] chỉ nói đúng thời, nói lời thành thật, nói có lợi ích, nói đúng theo pháp, nói đúng theo luật, nói để đình chỉ sai quấy, chỉ nói những lời như thế.
[0089a05] Sa-môn Cù-đàm đã từ bỏ uống rượu, không trang sức hương hoa, không xem ca múa, không ngồi giường cao, không ăn phi thời, không giữ vàng bạc, không dung nạp vợ, con, tớ trai, tớ gái; không nuôi voi, ngựa, heo, dê, gà, chó và các loài chim, loài thú; không nuôi dưỡng quân voi, quân ngựa, quân xe và quân bộ; không thâu tóm ruộng vườn gieo trồng ngũ cốc; không dùng tay đánh người; không dùng cân đấu lường gạt, không mua bán, khoán ước, giao kèo; không cho vay nợ để sanh lợi bất chánh; cũng không âm mưu, trước mặt khác sau lưng; không đi lại phi thời vì để nuôi thân mạng, chỉ ăn vừa đủ, đi đến chỗ nào đều luôn mang theo y bát như chim bay phải cần đôi cánh. Đó là những duyên nhỏ nhặt về việc giữ gìn giới luật mà hàng phàm phu ít học thường dựa vào đó để tán thán Như Lai.
Như các Sa-môn, Bà-la-môn tuy thọ thức ăn của người tín thí nhưng vẫn mong cầu để cất chứa, không biết vừa đủ về y phục, ẩm thực, còn Sa-môn Cùđàm không làm những việc như thế.
Như các Sa-môn, Bà-la-môn tuy thọ thức ăn của người tín thí nhưng vẫn còn lo mở mang sanh kế, gieo trồng cây cối, các loại thảo mộc,[x] còn Sa-môn Cù-đàm không làm những việc như thế.
Như các Sa-môn, Bà-la-môn tuy thọ thức ăn của người tín thí nhưng vẫn tìm nhiều cách để mong cầu lợi dưỡng như: Ngà voi và các loại châu báu; ghế, giường cao rộng; mền nệm, mùng màn, chăn chiếu thêu dệt tốt đẹp, còn Sa-môn Cù-đàm không làm những việc như thế.
Như các Sa-môn, Bà-la-môn tuy thọ thức ăn của người tín thí nhưng vẫn tìm nhiều cách để tự trang sức: Dùng dầu xoa thân, tắm gội nước thơm, xông ướp bột thơm, dùng dầu thơm chải đầu; đeo tràng hoa đẹp, mắt nhuộm sắc xanh, tô điểm mặt mày, đeo bông tai, soi gương trau chuốt; mang dép da quý, mặc áo trắng mịn, che lọng, cầm phất trần làm bằng lông, cờ hiệu trang nghiêm, còn Sa-môn Cù-đàm không làm những việc như thế.
Như các Sa-môn, Bà-la-môn bày trò tiêu khiển, chơi cờ, đánh bạc, chơi cờ tám đường, mười đường, cho đến trăm ngàn đường, bày nhiều cách chơi để tự thỏa thích, còn Sa-môn Cù-đàm không làm những việc như thế.
Như các Sa-môn, Bà-la-môn tuy thọ thức ăn của người tín thí nhưng chỉ nói những lời vô ích, làm chướng ngại đạo: Hoặc bàn luận việc vua chúa, binh lính, chiến trận, việc quan lại; bạn bè, xe ngựa ra vào, dạo chơi vườn cảnh; bàn chuyện người nữ, nằm ngồi đi đứng; bàn về y phục, ăn uống, luận về thân thế; bàn việc xuống biển tìm châu báu, còn Sa-môn Cù-đàm không làm những việc như thế.
Như các Sa-môn, Bà-la-môn tuy thọ thức ăn của người tín thí nhưng vẫn làm việc tà mạng bằng nhiều cách: Dua nịnh và trau chuốt lời nói, hiện tướng chê bai, lấy lợi cầu lợi, còn Sa-môn Cù-đàm không làm những việc như thế.
Như các Sa-môn, Bà-la-môn tuy thọ thức ăn của người tín thí nhưng vẫn tranh cãi lẫn nhau, hoặc ở vườn rừng, hoặc ở ao tắm, hoặc ở trong nhà, phân bua phải trái với nhau: “Ta biết kinh, luật, còn ông không biết; ta đi đường chánh, ông đi đường tà, đem trước để sau, lấy sau để trước; ta nhẫn nhục được, ông không nhẫn nhục được; những điều ông nói đều không chính đáng, nếu có nghi ngờ thì nên đến hỏi, ta sẽ trả lời tất cả”, còn Sa-môn Cù-đàm không làm những việc như thế.
[0089b13] Như các Sa-môn, Bà-la-môn tuy thọ thức ăn của người tín thí nhưng vẫn tìm nhiều cách làm thông sứ cho vua, cho đại thần của vua, cho Bà-la-môn, cư sĩ, đi từ nơi này đến nơi kia, từ nơi kia đến nơi này, đem tin chỗ này trao qua chỗ kia, đem tin chỗ kia trao qua chỗ này, hoặc tự làm, hoặc khiến người làm, còn Sa-môn Cù-đàm không làm những việc như thế.
Như các Sa-môn, Bà-la-môn tuy thọ thức ăn của người tín thí nhưng lại luyện tập quân trận, chiến đấu: Hoặc luyện tập đao gậy, cung tên; luyện tập các loài cầm thú như chọi gà, chó, heo, dê, voi, ngựa, bò, lạc đà; hoặc so tài nam, nữ; hoặc luyện các thứ tiếng, tiếng thổi, tiếng trống, tiếng ca, tiếng múa; leo cột phướn, leo xuôi, leo ngược; luyện các trò chơi, không trò nào là không luyện, còn Sa-môn Cù-đàm không làm những việc như thế.
Như các Sa-môn, Bà-la-môn tuy thọ thức ăn của người tín thí nhưng vẫn làm việc chướng ngại đạo pháp, nuôi sống bằng tà mạng, như xem tướng nam, nữ, lành, dữ, tốt, xấu và tướng súc sanh để cầu lợi dưỡng, còn Sa-môn Cù-đàm không làm những việc như thế.
Như các Sa-môn, Bà-la-môn tuy thọ thức ăn của người tín thí nhưng vẫn làm những việc chướng ngại đạo pháp, nuôi sống bằng tà mạng, như cầu khẩn quỷ thần, hoặc để sai khiến, hoặc đuổi đi, dùng các thứ trù yểm, cúng tế, vô số phép thuật khiến người khiếp sợ; có thể làm cho tụ lại hoặc làm cho tan rã, làm cho khổ, làm cho vui; có thể an thai, trục thai hoặc phù phép khiến người hóa thành lừa, ngựa; có thể khiến người bị điếc, đui, câm, ngọng, hoặc thực hiện các việc kỳ dị như chắp tay bái lạy mặt trời, mặt trăng, làm các khổ hạnh để cầu lợi dưỡng, còn Sa-môn Cù-đàm không làm những việc như thế.
Như các Sa-môn, Bà-la-môn tuy thọ thức ăn của người tín thí nhưng vẫn làm những việc chướng ngại đạo pháp, nuôi sống bằng tà mạng: Hoặc trì chú trị bệnh cho người; hoặc tụng chú thuật ác, tụng chú thuật thiện; hoặc làm thuốc thang, châm cứu, chữa trị bệnh tật, còn Sa-môn Cù-đàm không làm những việc như thế.
Như các Sa-môn, Bà-la-môn tuy thọ thức ăn của người tín thí nhưng vẫn làm những việc chướng ngại đạo pháp, nuôi sống bằng tà mạng: Hoặc tụng chú vào nước, lửa, hoặc chú quỷ thần, hoặc chú Sát-lợi, hoặc chú luyện voi, hoặc chú an thai,[xi] hoặc bùa chú trấn nhà cửa, hoặc chú giải trừ lửa cháy, chú giải trừ nạn chuột phá hoại; hoặc đọc sách đoán biết việc sống, chết, hoặc đọc các sách giải mộng, xem tướng tay, tướng mặt, hoặc đọc sách thiên văn, hoặc đọc sách nhất thiết âm,[xii] còn Sa-môn Cù-đàm không làm những việc như thế.
Như các Sa-môn, Bà-la-môn tuy thọ thức ăn của người tín thí nhưng vẫn làm những việc chướng ngại đạo pháp, nuôi sống bằng tà mạng, như xem thời tiết, đoán có mưa hay không mưa, được mùa hay mất mùa, nhiều bệnh hoặc ít bệnh, kinh sợ hay yên ổn; hoặc nói sẽ có động đất, sao chổi, nguyệt thực, nhật thực, tinh tú thực, hoặc đoán không có những hiện tượng ấy, tùy nơi xuất hiện mà đoán trước việc xảy ra, còn Sa-môn Cù-đàm không làm những việc như thế.
Như các Sa-môn, Bà-la-môn tuy thọ thức ăn của người tín thí nhưng vẫn làm những việc chướng ngại đạo pháp, nuôi sống bằng tà mạng, như nói nước này sẽ thắng, nước kia sẽ bại, nước kia sẽ hơn, nước này sẽ thua; xem tướng lành, dữ mà đoán việc hưng suy, còn Sa-môn Cù-đàm không làm những việc như thế.
Này các Tỳ-kheo! Đó là những nhân duyên nhỏ nhặt về việc giữ gìn giới luật mà hàng phàm phu ít học thường dựa vào đó để tán thán Như Lai.
[0089c19] Đức Phật dạy các Tỳ-kheo:
– Còn có các pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu mà chỉ có bậc đệ tử Hiền thánh mới dùng pháp đó để tán thán Như Lai. Thế nào là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu mà chỉ có bậc đệ tử Hiền thánh mới dùng pháp đó để tán thán Như Lai?
Có các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến[xiii] và mạt kiếp mạt kiến[xiv] rồi tự ý lập nên vô số luận thuyết.[xv] Tất cả những luận thuyết đó được bao gồm trong sáu mươi hai luận thuyết.[xvi] Trong vô số những luận thuyết dựa vào bổn kiếp bổn kiến và mạt kiếp mạt kiến do họ tự ý lập nên đều bao gồm trong sáu mươi hai luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Vì nguyên do gì mà các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến và mạt kiếp mạt kiến rồi tự ý lập nên vô số học thuyết. Tất cả những luận thuyết đó đều bao gồm trong sáu mươi hai luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua?
Có các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến rồi tự ý lập nên vô số học thuyết và tất cả được bao gồm trong mười tám luận thuyết. Trong vô số những luận thuyết dựa vào bổn kiếp bổn kiến do họ tự ý lập nên đều bao gồm trong mười tám luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Vì nguyên do gì mà các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến rồi tự ý lập nên vô số học thuyết và tất cả được bao gồm trong mười tám luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua?
Có các Sa-môn, Bà-la-môn đã dựa vào bổn kiếp bổn kiến để chủ trương Thường luận,[xvii] cho rằng: “Bản ngã và thế giới thường hằng.”[xviii] Chủ trương này bao gồm trong bốn luận thuyết. Dựa vào bổn kiếp bổn kiến để chủ trương: “Bản ngã và thế giới thường hằng”, tất cả được bao gồm trong bốn luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
[0090a07] Vì nguyên do gì mà các Sa-môn, Bà-la-môn kia dựa vào bổn kiếp bổn kiến để chủ trương Thường luận, cho rằng: “Bản ngã và thế giới thường hằng”, tất cả được bao gồm trong bốn luận thuyết này, trong giới hạn đó không thể vượt qua?
Hoặc có các Sa-môn, Bà-la-môn bằng vô số phương tiện tu tập nên chứng nhập định Tâm tam-muội. Với tâm định tĩnh, vị ấy nhớ được hai mươi kiếp thành và kiếp hoại19 nên chủ trương rằng: “Bản ngã và thế giới thường hằng, chỉ có quan điểm này là đúng, ngoài ra đều sai lầm. Vì sao như vậy? Vì chính tôi bằng vô số phương tiện tu tập nên chứng nhập định Tâm tam-muội. Với tâm định tĩnh, tôi nhớ lại hai mươi kiếp thành và kiếp hoại, thấy chúng sanh trong đó không thêm, không bớt, thường tụ hội, không tan rã. Bởi vậy, tôi biết bản ngã và thế giới thường hằng, chỉ có quan điểm này là đúng, ngoài ra đều sai lầm.” Đây là luận thuyết thứ nhất. Các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến này mà cho rằng bản ngã và thế giới thường hằng, đều thuộc vào bốn luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Có những Sa-môn, Bà-la-môn bằng vô số phương tiện tu tập nên chứng nhập định Tâm tam-muội. Với tâm định tĩnh, vị ấy nhớ được bốn mươi kiếp thành và kiếp hoại nên chủ trương rằng: “Bản ngã và thế giới thường hằng, chỉ có quan điểm này là đúng, ngoài ra đều sai lầm. Vì sao như vậy? Vì chính tôi bằng vô số phương tiện tu tập nên chứng nhập định Tâm tam-muội. Với tâm định tĩnh, tôi nhớ được bốn mươi kiếp thành và kiếp hoại, thấy chúng sanh trong đó không thêm, không bớt, thường tụ hội, không tan rã. Bởi vậy, tôi biết bản ngã và thế giới thường hằng, chỉ có quan điểm này là đúng, ngoài ra đều sai lầm.” Đây là luận thuyết thứ hai. Các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến này mà cho rằng bản ngã và thế giới thường hằng, đều thuộc vào bốn luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Có những Sa-môn, Bà-la-môn bằng vô số phương tiện tu tập nên chứng nhập định Tâm tam-muội. Với tâm định tĩnh, vị ấy nhớ được tám mươi kiếp thành và kiếp hoại, nên chủ trương rằng: “Bản ngã và thế giới thường hằng, chỉ có quan điểm này là đúng, ngoài ra đều sai lầm. Vì sao như vậy? Vì chính tôi bằng vô số phương tiện tu tập nên chứng nhập định Tâm tam-muội. Với tâm định tĩnh, tôi nhớ được tám mươi kiếp thành và kiếp hoại, thấy chúng sanh trong đó không thêm, không bớt, thường tụ hội, không tan rã. Bởi vậy, tôi biết bản ngã và thế giới thường hằng, chỉ có quan điểm này là đúng, ngoài ra đều sai lầm.” Đây là luận thuyết thứ ba. Các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến này mà cho rằng bản ngã và thế giới thường hằng, đều thuộc vào bốn luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
[0090b03] Có những Sa-môn, Bà-la-môn với trí nhạy bén, giỏi quán sát,[xix] họ dùng trí nhạy bén ấy làm phương tiện quán sát, tức là quán sát chân lý, với những gì đã thấy và bằng tài biện luận của mình, họ chủ trương rằng: “Bản ngã và thế giới thường hằng.” Đây là luận thuyết thứ tư. Các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến này mà cho rằng bản ngã và thế giới thường hằng, đều thuộc vào bốn luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Các Sa-môn, Bà-la-môn này dựa vào bổn kiếp bổn kiến mà chủ trương: “Bản ngã và thế giới thường hằng.” Tất cả những chủ trương như thế đều bao gồm trong bốn luận thuyết: “Bản ngã và thế giới thường hằng”, trong giới hạn bốn luận thuyết đó, không thể vượt qua.
Chỉ có Như Lai mới biết rõ ngọn nguồn của những luận thuyết trên.[xx] Chúng được nắm bắt như vậy, được giữ chặt như vậy và cũng biết sẽ có báo ứng như vậy. Như Lai còn biết những điều vượt xa hơn thế, dù biết nhưng không chấp trước, vì không chấp trước nên được tĩnh lặng. Trong sự tĩnh lặng, Như Lai biết được sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và con đường xuất ly khỏi thọ,[xxi] bằng chánh quán mà được giải thoát hoàn toàn nên gọi là Như Lai. Đó gọi là còn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu để cho đệ tử Hiền thánh có thể tán thán Như Lai chân thật, bình đẳng.
Lại còn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu để cho đệ tử Hiền thánh tán thán Như Lai chân thật, bình đẳng. Đó là pháp gì?
Có các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến rồi chủ trương rằng: “Bản ngã và thế giới một nửa thường hằng, một nửa không thường hằng.”[xxii] Những Sa-môn, Bà-la-môn đó dựa vào bổn kiếp bổn kiến này mà chủ trương bản ngã và thế giới một nửa thường hằng, một nửa không thường hằng, đều thuộc vào bốn luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Khi kiếp này mới hình thành, có một số chúng sanh phước hết, mạng hết và nghiệp hết, mạng chung ở cõi trời Quang Âm[xxiii] rồi sanh vào cõi Phạm thiên trống không.[xxiv] Tại đó, họ khởi tâm yêu thích, lại mong muốn các chúng sanh khác cùng sanh vào cõi này. Chúng sanh này sau khi khởi tâm yêu thích và có mong muốn như vậy rồi, lại có những chúng sanh khác mạng hết, nghiệp hết và phước hết, mạng chung ở cõi trời Quang Âm rồi sanh vào cõi Phạm thiên trống không. Những chúng sanh xuất hiện đầu tiên nơi cõi ấy liền nghĩ rằng: “Ở đây, ta là Phạm, là Đại Phạm, ta tự nhiên mà có, không ai có thể tạo ra ta. Ta biết hết thảy nghĩa lý kinh thư.[xxv] Ta tự tại trong một ngàn thế giới, là tôn quý nhất, có khả năng biến hóa, vi diệu bậc nhất. Ta là cha của chúng sanh, chỉ riêng ta xuất hiện trước, còn các chúng sanh khác xuất hiện sau. Các chúng sanh đến sau đều do ta hóa thành.” Các chúng sanh đến sau cũng nghĩ rằng: “Vị ấy là Đại Phạm, vị ấy tự sanh, chứ không phải do kẻ khác tạo ra, vị ấy biết hết thảy nghĩa lý kinh thư, tự tại trong một ngàn thế giới, là bậc tôn quý nhất, có khả năng biến hóa, vi diệu bậc nhất, là cha của chúng sanh, chỉ riêng vị ấy xuất hiện trước, còn chúng ta xuất hiện sau, chúng ta là các chúng sanh do vị ấy tạo ra.”
Những chúng sanh ở cõi Phạm thiên kia khi mạng hết và nghiệp hết thì sanh vào thế giới này, dần dần trưởng thành, sau đó lại cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo,... cho đến chứng nhập định Tâm tam-muội. Do tâm định tĩnh, vị ấy tự biết đời trước của mình, liền bảo rằng: “Bậc Đại Phạm thiên kia tự sanh, không do kẻ khác tạo ra, biết hết thảy nghĩa lý kinh thư, tự tại trong một ngàn thế giới, là bậc tôn quý nhất, có khả năng biến hóa, vi diệu bậc nhất, là cha của chúng sanh, thường trụ, bất biến. Vị Phạm thiên ấy tạo ra chúng ta, chúng ta là vô thường biến đổi, không tồn tại lâu. Vậy nên biết rằng bản ngã và thế giới là một nửa thường hằng, một nửa không thường hằng, chỉ có điều này là thật, ngoài ra đều hư dối.” Đây là luận thuyết thứ nhất. Các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến này mà chủ trương luận thuyết một nửa thường hằng, một nửa không thường hằng, đều thuộc vào bốn luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
[0090c15] Hoặc có những chúng sanh ham thích vui đùa, lười biếng, thường lấy vui đùa làm niềm thỏa thích. Do ham vui đùa thỏa thích, thân thể mệt mỏi nên mất chánh niệm. Do mất chánh niệm trong lúc qua đời nên sanh vào cõi nhân gian, dần dần khôn lớn, rồi lại cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, vị ấy nhập định Tâm tam-muội, nhờ định tâm mà biết được đời trước của mình rồi bảo rằng: “Các chúng sanh kia nhờ tâm không ham vui đùa thỏa thích nên được thường trú, không biến đổi ở cõi ấy; còn ta ham vui đùa thỏa thích nên phải chịu vô thường, biến đổi như thế này. Do vậy ta biết rằng bản ngã và thế giới một nửa thường hằng, một nửa không thường hằng, chỉ có điều này là thật, ngoài ra đều hư dối.” Đây là luận thuyết thứ hai. Các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến này mà chủ trương bản ngã và thế giới một nửa thường hằng, một nửa không thường hằng, đều thuộc vào bốn luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Có những chúng sanh vì mãi lo nhìn ngắm nhau mà đánh mất chánh niệm. Do mất chánh niệm trong lúc qua đời nên sanh vào thế giới này, dần dần khôn lớn rồi cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, nhập định Tâm tammuội, nhờ định tâm mà biết được đời trước rồi nghĩ rằng: “Các chúng sanh kia nhờ không nhìn ngắm nhau nên không đánh mất chánh niệm, được thường trú không biến đổi, còn chúng ta do nhìn ngắm nhau mà đánh mất chánh niệm, nên phải chịu vô thường, biến đổi. Do vậy, ta biết rằng bản ngã và thế giới một nửa thường hằng, một nửa không thường hằng, chỉ điều này là thật, ngoài ra đều hư dối.” Đây là luận thuyết thứ ba. Các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến này mà chủ trương bản ngã và thế giới một nửa thường hằng và một nửa không thường hằng, đều thuộc vào bốn luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
[0091a05] Hoặc có những Sa-môn, Bà-la-môn với trí lanh lợi, giỏi quán sát. Họ dùng trí quán sát lanh lợi ấy và bằng tài trí biện luận của mình nên tuyên bố: “Bản ngã và thế giới một nửa thường hằng, một nửa không thường hằng, chỉ có điều này là thật, ngoài ra đều hư dối.” Đây là luận thuyết thứ tư. Các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến này mà chủ trương rằng: “Bản ngã và thế giới một nửa là thường hằng, một nửa không thường hằng”, đều thuộc vào bốn luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến mà chủ trương rằng: “Bản ngã và thế giới một nửa thường hằng, một nửa không thường hằng”, tất cả đều bao gồm trong bốn luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Chỉ có Như Lai mới biết rõ những luận thuyết như trên. Chúng được nắm bắt như vậy, được giữ chặt như vậy và cũng biết sẽ có báo ứng như vậy. Như Lai còn biết những điều vượt xa hơn thế, dù biết nhưng không chấp trước, vì không chấp trước nên được tĩnh lặng. Trong sự tĩnh lặng, Như Lai biết được sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và con đường xuất ly khỏi thọ, bằng chánh quán mà được giải thoát hoàn toàn, nên gọi là Như Lai.
Đó gọi là còn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu để cho đệ tử Hiền thánh tán thán Như Lai chân thật, bình đẳng.
Lại còn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu để các đệ tử Hiền thánh tán thán Như Lai chân thật, bình đẳng. Đó là pháp gì?
Có Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến mà chủ trương rằng: “Bản ngã và thế giới là có giới hạn và không có giới hạn.” Các Sa-môn, Bà-lamôn dựa vào bổn kiếp bổn kiến này mà chủ trương rằng: “Bản ngã và thế giới là có giới hạn và không có giới hạn” đều thuộc vào bốn luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn bằng vô số phương tiện tu tập nên chứng nhập định Tâm tam-muội. Với tâm định tĩnh, vị ấy quan sát thế giới và khởi lên biên tưởng.[xxvi] Họ cho rằng: “Thế giới này là có giới hạn,[xxvii] chỉ đây là thật, ngoài ra đều hư dối. Vì sao như vậy? Vì tôi đã dùng nhiều phương tiện để nhập định Tâm tam-muội, nhờ tâm định tĩnh, tôi quan sát thấy thế giới có giới hạn. Do vậy, tôi biết thế giới là có giới hạn, chỉ đây là thật, ngoài ra đều hư dối.” Đây là luận thuyết thứ nhất. Các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến này mà chủ trương rằng: “Bản ngã và thế giới là có giới hạn” đều thuộc vào bốn luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Hoặc có những Sa-môn, Bà-la-môn bằng vô số phương tiện tu tập nên chứng nhập định Tâm tam-muội. Với tâm định tĩnh quan sát thế giới mà khởi lên vô biên tưởng. Họ bảo rằng: “Thế giới là không có giới hạn, chỉ có đây là thật, ngoài ra đều hư dối. Vì sao như vậy? Vì chính tôi đã dùng nhiều phương tiện để nhập định Tâm tam-muội, nhờ tâm định tĩnh nên quan sát thấy thế giới này là không có giới hạn. Do vậy, tôi biết rằng thế giới là không có giới hạn, chỉ có đây là thật, ngoài ra đều hư dối.” Đây là luận thuyết thứ hai. Các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến này mà chủ trương rằng: “Bản ngã và thế giới là không có giới hạn”, đều thuộc vào bốn luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
[0091b06] Hoặc có những Sa-môn, Bà-la-môn bằng vô số phương tiện tu tập nên chứng nhập định Tâm tam-muội. Với tâm định tĩnh, vị ấy quan sát thế giới, thấy phương trên có giới hạn, còn bốn phương thì không có giới hạn. Họ bảo rằng: “Thế giới vừa có giới hạn vừa không có giới hạn, chỉ có đây là thật, ngoài ra đều hư dối. Vì sao như vậy? Vì chính tôi đã dùng nhiều phương tiện để nhập định Tâm tam-muội, nhờ tâm định tĩnh quan sát thấy phương trên có giới hạn, còn bốn phương thì không có giới hạn. Do vậy, tôi biết rằng thế giới vừa có giới hạn vừa không có giới hạn, chỉ có đây là thật, ngoài ra đều hư dối.” Đây là luận thuyết thứ ba. Các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến này mà chủ trương rằng: “Bản ngã và thế giới vừa có giới hạn vừa không có giới hạn”, đều thuộc vào bốn luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Hoặc có những Sa-môn, Bà-la-môn với trí tuệ lanh lợi, giỏi quan sát. Vị ấy dùng trí quán sát lanh lợi và bằng tài trí biện luận của mình, tuyên bố rằng: “Bản ngã và thế giới chẳng phải có giới hạn, chẳng phải không có giới hạn, chỉ có đây là thật, ngoài ra đều hư dối.” Đây là luận thuyết thứ tư. Các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến này mà chủ trương rằng: “Bản ngã và thế giới chẳng phải có giới hạn, chẳng phải không có giới hạn, chỉ đây là thật, ngoài ra đều hư dối”, đều thuộc vào bốn luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Các Sa-môn, Bà-la-môn này dựa vào bổn kiếp bổn kiến mà chủ trương rằng: “Bản ngã và thế giới chẳng phải có giới hạn, chẳng phải không có giới hạn”, tất cả đều bao gồm trong bốn luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Chỉ có Như Lai mới biết rõ những luận thuyết như trên. Chúng được nắm bắt như vậy, được giữ chặt như vậy và cũng biết sẽ có báo ứng như vậy. Như Lai còn biết những điều vượt xa hơn thế, dù biết nhưng không chấp trước, vì không chấp trước nên được tĩnh lặng. Trong sự tĩnh lặng, Như Lai biết được sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và con đường xuất ly khỏi thọ, bằng chánh quán mà được giải thoát hoàn toàn, nên gọi là Như Lai.
Đó gọi là còn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu để cho đệ tử Hiền thánh tán thán Như Lai chân thật, bình đẳng.
Lại còn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu để cho đệ tử Hiền thánh tán thán Như Lai chân thật, bình đẳng. Đó là pháp gì?
Có các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến, khi được hỏi khác nhưng trả lời khác.[xxviii] Những vị ấy, mỗi khi có người hỏi điều này hay điều khác, được hỏi khác nhưng trả lời khác, thuộc vào bốn luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua. Các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến này mà hỏi và đáp khác nhau, đều thuộc vào bốn luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn có luận thuyết như vầy, có quan điểm như vầy: “Ta không thấy, không biết thiện ác có quả báo hay không có quả báo? Vì ta không thấy cho nên chủ trương rằng: ‘Thiện ác có báo ứng chăng? Không có báo ứng chăng?’ Thế giới có những Sa-môn, Bà-la-môn học rộng nghe nhiều, thông minh trí tuệ, thường ưa nhàn tịnh, biện luận tinh vi, được người đời tôn trọng, có thể dùng trí tuệ phân biệt các quan điểm. Nếu họ hỏi ta các ý nghĩa thâm sâu mà ta không đáp được, vì hổ thẹn, vì sợ họ nên ta phải dựa vào sự trả lời ấy làm nơi nương tựa, làm cơ sở, làm nơi che chở, làm con đường cứu cánh. Nếu người kia hỏi thì ta sẽ đáp rằng: ‘Điều ấy như thế, điều ấy là thực, điều ấy là khác, điều ấy là không khác, điều ấy không phải khác cũng không phải không khác.’” Đây là luận thuyết thứ nhất. Các Sa-môn, Bà-la-môn do được hỏi khác, lại đáp khác, đều thuộc vào bốn luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
[0091c12] Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn có luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy: “‘Ta không thấy, không biết có đời khác hay không có đời khác.’ Trong đời, có các Sa-môn, Bà-la-môn dùng thiên nhãn trí, tha tâm trí, có thể thấy những việc xa xôi. Những việc ấy tuy gần người khác nhưng người khác không thấy. Những người như thế thì có thể biết được có đời khác hay không có đời khác. Ta không biết, không thấy có đời khác hay không có đời khác. Nếu ta nói thì lời ta là hư dối mà ta thì ghét và sợ hư dối.[xxix] Vì thế để làm nơi nương tựa, làm cơ sở, làm nơi che chở, làm con đường cứu cánh, nếu có người hỏi ta thì ta sẽ đáp rằng: ‘Điều ấy như thế, điều ấy là thực, điều ấy là khác, điều ấy là không khác, điều ấy không phải khác cũng không phải không khác.’” Đây là luận thuyết thứ hai. Các Sa-môn, Bà-la-môn do được hỏi khác, lại đáp khác, đều thuộc vào bốn luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Hoặc có những Sa-môn, Bà-la-môn có luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy: “‘Ta không biết, không thấy thế nào là thiện, thế nào là bất thiện.’ Nếu ta không biết, không thấy mà nói đây là thiện, đây là bất thiện thì do đây ta sẽ sanh ra ưa thích, từ ưa thích sanh ra giận ghét. Có ưa thích, có giận ghét thì có chấp thủ.[xxx] Ta muốn diệt trừ chấp thủ nên xuất gia tu hành. Người kia ghét chấp thủ và sợ chấp thủ nên lấy đây để làm nơi nương tựa, làm cơ sở, làm nơi che chở, làm con đường cứu cánh. Nếu được hỏi thì ta nên đáp rằng: ‘Điều ấy như thế, điều ấy là thực, điều ấy là khác, điều ấy là không khác, điều ấy không phải khác cũng không phải không khác.’” Đây là luận thuyết thứ ba. Các Sa-môn, Bà-lamôn do được hỏi khác, lại đáp khác, đều thuộc vào bốn luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
[0092a02] Hoặc có những Sa-môn, Bà-la-môn ngu si tăm tối, khi có người hỏi thì tùy theo người hỏi mà đáp rằng: “Điều ấy là như thế, điều ấy là thực, điều ấy là khác, điều ấy là không khác, điều ấy không phải khác cũng không phải không khác.” Đây là luận thuyết thứ tư. Các Sa-môn, Bà-la-môn do được hỏi khác, lại đáp khác, đều thuộc vào bốn luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến, được hỏi khác, lại đáp khác, tất cả đều bao gồm trong bốn luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Chỉ có Như Lai mới biết rõ ngọn nguồn của những luận thuyết trên. Chúng được nắm bắt như vậy, được giữ chặt như vậy và cũng biết sẽ có báo ứng như vậy. Như Lai còn biết những điều vượt xa hơn thế, dù biết nhưng không chấp trước, vì không chấp trước nên được tĩnh lặng. Trong sự tĩnh lặng, Như Lai biết được sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và con đường xuất ly khỏi thọ, bằng chánh quán mà được giải thoát hoàn toàn, nên gọi là Như Lai.
Đó gọi là còn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu để các đệ tử Hiền thánh tán thán Như Lai chân thật, bình đẳng.
Lại còn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu để các đệ tử Hiền thánh tán thán Như Lai chân thật, bình đẳng. Đó là pháp gì?
Hoặc có các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến mà chủ trương rằng: “Thế giới này xuất hiện không có nguyên nhân.” Chủ trương này bao gồm hai luận thuyết. Dựa vào bổn kiếp bổn kiến mà chủ trương rằng: “Thế giới này xuất hiện không có nguyên nhân”, thuộc vào hai luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Các Sa-môn, Bà-la-môn đó vì nguyên do gì mà dựa vào bổn kiếp bổn kiến rồi chủ trương: “Không nhân mà hiện hữu”, thuộc vào hai luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua?
Hoặc có những chúng sanh vô tưởng, vô tri.[xxxi] Khi họ khởi tưởng thì mạng chung, liền sanh vào thế giới này, dần dần khôn lớn, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, cho đến chứng nhập định Tâm tam-muội. Nhờ tâm định tĩnh mà họ biết cội gốc đời trước, liền xướng lên rằng: “Ta trước vốn không có, nay bỗng nhiên có. Thế giới này vốn không, nay bỗng nhiên có, chỉ có đây là thật, ngoài ra đều hư dối.” Đây là luận thuyết thứ nhất. Các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến này mà chủ trương: “Không nhân mà hiện hữu”, thuộc vào hai luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Hoặc có những Sa-môn, Bà-la-môn với trí tuệ lanh lợi, có khả năng quán sát khéo. Vị ấy, bằng trí tuệ quán sát lanh lợi và tài trí biện luận của mình, tuyên bố như vầy: “Thế giới này từ không mà có, chỉ có đây là thật, ngoài ra đều hư dối.” Đây là luận thuyết thứ hai. Các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến này mà chủ trương: “Thế giới này hiện hữu không có nguyên nhân”, thuộc vào hai luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Các Sa-môn, Bà-la-môn nào dựa vào bổn kiếp bổn kiến, chủ trương: “Không nhân mà hiện hữu”, tất cả bao gồm trong hai luận thuyết trên, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Chỉ có Như Lai mới biết rõ ngọn nguồn của những luận thuyết trên, cũng lại như vậy.
Có các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến rồi tự ý lập thuyết với vô số luận thuyết. Tất cả những luận thuyết ấy đều bao gồm trong mười tám luận thuyết. Trong vô số những luận thuyết dựa vào bổn kiếp bổn kiến do họ tự ý lập nên thì tất cả đều bao gồm trong mười tám luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Chỉ có Như Lai mới biết rõ ngọn nguồn của những luận thuyết trên, cũng lại như vậy.
[0092b07] Lại còn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu để cho các đệ tử Hiền thánh tán thán Như Lai chân thật, bình đẳng. Đó là pháp gì?
Có các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào mạt kiếp mạt kiến rồi tự ý lập thuyết với vô số luận thuyết và tất cả những luận thuyết ấy đều bao gồm trong bốn mươi bốn luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.[xxxii]
Các Sa-môn, Bà-la-môn kia do nguyên nhân gì mà dựa vào mạt kiếp mạt kiến rồi tự ý lập thuyết với vô số luận thuyết và tất cả những luận thuyết ấy đều bao gồm trong bốn mươi bốn luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua?
Có các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào mạt kiếp mạt kiến rồi chủ trương Hữu tưởng luận,[xxxiii] cho rằng thế giới là có tưởng, tất cả luận thuyết đó bao gồm mười sáu luận thuyết. Dựa vào mạt kiếp mạt kiến để chủ trương [Hữu] tưởng luận, cho rằng thế giới là có tưởng, bao gồm mười sáu luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Các Sa-môn, Bà-la-môn đó vì nguyên nhân gì mà dựa vào mạt kiếp mạt kiến rồi chủ trương Hữu tưởng luận, cho rằng thế giới là có tưởng, bao gồm mười sáu luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua?
Có các Sa-môn, Bà-la-môn có luận thuyết như vầy, có quan điểm như vầy: “Tự ngã sau đời này, sanh ra có tưởng, có sắc, đây là thật, ngoài ra là hư dối.” Đó là luận thuyết thứ nhất. Các Sa-môn, Bà-la-môn nhân đó, dựa vào mạt kiếp mạt kiến này rồi chủ trương Hữu tưởng luận, cho rằng thế giới có tưởng, thuộc trong mười sáu luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh ra không sắc, có tưởng, đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh ra vừa có sắc vừa không sắc, có tưởng, đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh ra không phải có sắc không phải không sắc, có tưởng, đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh ra có giới hạn, có tưởng, đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh ra không giới hạn, có tưởng, đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh ra vừa có giới hạn vừa không giới hạn, có tưởng, đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh ra không phải có giới hạn cũng không phải không giới hạn, có tưởng, đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh ra chỉ thuần có lạc, có tưởng,[xxxiv] đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh ra chỉ thuần có khổ, có tưởng,[xxxv] đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh vào cõi vừa khổ vừa lạc, có tưởng, đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh ra không phải khổ, không phải lạc, có tưởng, đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh ra có một tưởng,[xxxvi] đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh ra có nhiều tưởng,[xxxvii] đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh có ít tưởng,[xxxviii] đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh ra có vô lượng tưởng,[xxxix] đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Đó là mười sáu luận thuyết mà các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào mạt kiếp mạt kiến rồi chủ trương Hữu tưởng luận, cho rằng thế giới là có tưởng, bao gồm mười sáu luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Chỉ có Như Lai mới biết rõ ngọn nguồn của những luận thuyết trên, cũng lại như vậy.
[0092c10] Lại còn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu. Đó là pháp gì?
Có các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào mạt kiếp mạt kiến rồi chủ trương Vô tưởng luận, cho rằng thế giới là không có tưởng và tất cả những luận thuyết ấy bao gồm trong tám luận thuyết. Dựa vào mạt kiếp mạt kiến rồi chủ trương Vô tưởng luận, bao gồm trong tám luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Các Sa-môn, Bà-la-môn kia do nguyên nhân nào mà dựa vào mạt kiếp mạt kiến rồi chủ trương Vô tưởng luận, cho rằng thế giới là không có tưởng, bao gồm trong tám luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua?
Các Sa-môn, Bà-la-môn đó có luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy: “Tự ngã sau đời này, sanh ra có sắc, không có tưởng, đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh ra không có sắc, không có tưởng, đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh ra vừa có sắc vừa không sắc, không có tưởng, đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh ra không phải có sắc, cũng không phải không có sắc, không có tưởng, đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh ra có giới hạn, không có tưởng, đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh ra không có giới hạn, không có tưởng, đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh ra vừa có giới hạn vừa không có giới hạn, không có tưởng, đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh ra không phải có giới hạn không phải không có giới hạn, không có tưởng, đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Đó là tám luận thuyết mà các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào mạt kiếp mạt kiến rồi chủ trương Vô tưởng luận, cho rằng thế giới là không có tưởng. Tất cả đều bao gồm trong tám luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Chỉ có Như Lai mới biết rõ những luận thuyết trên, cũng lại như vậy.
[0092c27] Lại còn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu để cho các đệ tử Hiền thánh tán thán Như Lai chân thật, bình đẳng. Đó là pháp gì?
Hoặc có các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào mạt kiếp mạt kiến rồi chủ trương Phi tưởng phi phi tưởng luận, cho rằng thế giới này là không phải có tưởng không phải không có tưởng. Những chủ trương này đều bao gồm trong tám luận thuyết. Chủ trương Phi tưởng phi phi tưởng luận rồi dựa vào mạt kiếp mạt kiến cho rằng thế giới không phải có tưởng không phải không có tưởng bao gồm trong tám luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Các Sa-môn, Bà-la-môn kia do nguyên nhân gì, dựa vào mạt kiếp mạt kiến rồi chủ trương Phi tưởng phi phi tưởng luận, cho rằng thế giới này là không phải có tưởng không phải không có tưởng và tất cả bao gồm trong tám luận thuyết, trong giới hạn trong đó, không thể vượt qua?
Các Sa-môn, Bà-la-môn có luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy: “Tự ngã sau đời này, sanh ra có sắc, không phải có tưởng không phải không có tưởng, đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh ra không có sắc, không phải có tưởng không phải không có tưởng, đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh ra vừa có sắc vừa không có sắc, không phải có tưởng không phải không có tưởng, đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh ra không phải có sắc không phải không có sắc, không phải có tưởng không phải không có tưởng, đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh ra có giới hạn, không phải có tưởng không phải không có tưởng, đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh ra không có giới hạn, không phải có tưởng không phải không có tưởng, đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh ra vừa có giới hạn vừa không có giới hạn, không phải có tưởng không phải không có tưởng, đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Lại có chủ trương: “Tự ngã sau đời này, sanh ra không phải có giới hạn không phải không có giới hạn, không phải có tưởng không phải không có tưởng, đây là thật, ngoài ra đều hư dối.”
Đó là tám luận thuyết mà các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào mạt kiếp mạt kiến rồi chủ trương Phi hữu tưởng phi vô tưởng luận, cho rằng thế giới này không phải có tưởng không phải không có tưởng, tất cả bao gồm tám luận thuyết này, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Chỉ có Như Lai mới biết rõ ngọn nguồn của những luận thuyết trên, cũng lại như vậy.
[0093a19] Lại còn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu để cho các đệ tử Hiền thánh có thể tán thán Như Lai chân thật, bình đẳng. Đó là pháp gì?
Có những Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào mạt kiếp mạt kiến rồi chủ trương Đoạn diệt luận,[xl] cho rằng chúng sanh bị đoạn diệt hoàn toàn, tất cả bao gồm trong bảy luận thuyết. Dựa vào mạt kiếp mạt kiến rồi chủ trương Đoạn diệt luận, cho rằng chúng sanh bị đoạn diệt hoàn toàn, bao gồm trong bảy luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Các Sa-môn, Bà-la-môn đó do nguyên nhân gì mà dựa vào mạt kiếp mạt kiến rồi chủ trương Đoạn diệt luận, cho rằng chúng sanh bị đoạn diệt hoàn toàn, bao gồm trong bảy luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua?
Có những Sa-môn, Bà-la-môn có luận thuyết như vầy, có quan điểm như vầy: “Bản ngã với xác thân bốn đại, sáu căn là do cha mẹ sanh ra, do bú mớm nuôi dưỡng, được trưởng thành nhờ áo cơm, nâng niu, bồng ẵm nhưng là vô thường, chắc chắn phải đi đến chỗ hoại diệt”, cho đến giới hạn ấy, gọi là đoạn diệt. Đây là luận thuyết thứ nhất.
Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn có chủ trương rằng: “Bản ngã này không thể gọi là đoạn diệt. Cái bản ngã cõi trời Dục giới[xli] mới đoạn diệt hoàn toàn, cho đến giới hạn ấy, gọi là đoạn diệt.” Đây là luận thuyết thứ hai.
Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn có chủ trương: “Đó không phải là đoạn diệt. Bản ngã cõi Sắc giới, có thân hóa sanh, các căn đầy đủ, đoạn diệt hoàn toàn không còn gì, cho đến giới hạn ấy, gọi là đoạn diệt.”
Có người chủ trương: “Đó không phải là đoạn diệt. Cái bản ngã cõi Vô Sắc, ở Không Vô Biên Xứ mới đoạn diệt.”
Có người chủ trương: “Đó không phải là đoạn diệt. Cái bản ngã cõi Vô Sắc, thuộc Thức Vô Biên Xứ mới đoạn diệt.”
Có người chủ trương: “Đó không phải là đoạn diệt. Cái bản ngã cõi Vô Sắc, thuộc Vô Sở Hữu Xứ mới đoạn diệt.”
Có người chủ trương: “Đó không phải là đoạn diệt. Cái bản ngã cõi Vô Sắc, ở Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ mới đoạn diệt.” Đây là đoạn diệt thứ bảy.
Đó là bảy luận thuyết mà các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào mạt kiếp mạt kiến rồi chủ trương các loại chúng sanh bị đoạn diệt hoàn toàn, bao gồm trong bảy luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Chỉ có Như Lai mới biết rõ ngọn nguồn của những luận thuyết trên, cũng lại như vậy.
[0093b10] Lại còn có pháp khác, là ánh sáng của đại pháp sâu xa vi diệu để cho đệ tử Hiền thánh tán thán Như Lai chân thật, bình đẳng. Đó là pháp gì?
Các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào mạt kiếp mạt kiến rồi chủ trương Hiện tại Niết-bàn luận,[xlii] cho rằng chúng sanh đạt được Niết-bàn trong hiện tại, bao gồm trong năm luận thuyết. Dựa vào mạt kiếp mạt kiến rồi họ chủ trương Hiện tại Niết-bàn luận, bao gồm trong năm luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Các Sa-môn, Bà-la-môn kia vì nguyên nhân gì mà dựa vào mạt kiếp mạt kiến rồi chủ trương chúng sanh đạt được Niết-bàn trong hiện tại, bao gồm trong năm luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua?
Các Sa-môn, Bà-la-môn đó có luận thuyết như vầy, quan điểm như vầy: “Nếu trong hiện tại được thỏa mãn năm dục thì ta đạt được Hiện tại Niết-bàn.” Đây là luận thuyết thứ nhất.
Lại có các Sa-môn, Bà-la-môn cho rằng: “Đó đúng là Hiện tại Niết-bàn, chứ không phải không đúng nhưng còn có một loại Niết-bàn vi diệu bậc nhất hơn nữa mà các ông chưa biết, chỉ riêng mình ta biết. Đó là, nếu ta lìa bỏ dục và các pháp bất thiện, có giác, có quán, cùng với hỷ, lạc được sanh ra do sự viễn ly, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, đó là Hiện tại Niết-bàn.” Đây là luận thuyết thứ hai.
Lại có các Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương rằng: “Đó đúng là Hiện tại Niếtbàn, chứ không phải không đúng nhưng còn có một loại Niết-bàn vi diệu bậc nhất hơn nữa mà các ông chưa biết, chỉ riêng mình ta biết. Đó là, lìa bỏ giác và quán, trong tâm bình đẳng thanh tịnh, có hỷ, lạc do định sanh, chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, không giác không quán. Cho đến giới hạn này mới gọi là Hiện tại Niết-bàn.” Đây là luận thuyết thứ ba.
Lại có các Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương: “Đó đúng là Hiện tại Niết-bàn, chứ không phải không đúng nhưng còn có một loại Niết-bàn vi diệu bậc nhất hơn nữa mà các ông chưa biết, chỉ riêng mình ta biết. Đó là, nếu lìa bỏ hỷ, an trú xả, với chánh niệm và tỉnh giác, thân cảm lạc thọ, chứng đạt và an trú Thiền thứ ba, điều mà bậc Thánh gọi là lạc trú trong xả và có chánh niệm. Cho đến giới hạn này mới gọi là Hiện tại Niết-bàn.” Đây là luận thuyết thứ tư.
Lại có các Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương: “Đó đúng là Hiện tại Niết-bàn, chứ không phải không đúng nhưng còn có một loại Niết-bàn vi diệu bậc nhất hơn nữa mà các ông chưa biết, chỉ riêng mình ta biết. Đó là, nếu ta đã diệt trừ ưu và hỷ trước đó, nên buông bỏ cả khổ và vui, chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, một trạng thái không khổ không vui, gọi là xả niệm thanh tịnh thì đó mới gọi là Niết-bàn bậc nhất.” Đây là luận thuyết thứ năm.
Nếu có các Sa-môn, Bà-la-môn nào dựa vào mạt kiếp mạt kiến rồi chủ trương Hiện tại Niết-bàn luận như thế, đều bao gồm trong năm luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Chỉ có Như Lai mới biết rõ ngọn nguồn của những luận thuyết trên, cũng lại như vậy.
[0093c09] Có các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào mạt kiếp mạt kiến rồi tự ý lập thuyết với vô số luận thuyết và tất cả những luận thuyết đó bao gồm trong bốn mươi bốn luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Chỉ có Như Lai mới biết rõ ngọn nguồn của những luận thuyết trên, cũng lại như vậy.
Có các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến và mạt kiếp mạt kiến rồi tự ý lập thuyết với vô số luận thuyết. Tất cả những luận thuyết đó đều bao gồm trong sáu mươi hai luận thuyết. Trong vô số những luận thuyết dựa vào bổn kiếp bổn kiến và mạt kiếp mạt kiến do họ tự ý lập nên thì tất cả đều bao gồm trong sáu mươi hai luận thuyết, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Chỉ có Như Lai mới biết rõ ngọn nguồn của những luận thuyết trên, cũng lại như vậy.
Các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến rồi chủ trương Thường luận, cho rằng: “Bản ngã và thế giới luôn thường còn.” Các Sa-môn, Bà-la-môn kia ở nơi đó mà phát sanh trí. Nghĩa là, do niềm tin khác biệt, ước muốn khác biệt, học tập khác biệt, thân cận khác biệt, hiểu biết khác biệt, nhận thức khác biệt, thiền định khác biệt, kham nhẫn khác biệt, họ nhân đó mà phát sanh trí. Các vị ấy vì hiện tại mong cầu nên bị chấp thủ,[xliii]... cho đến Hiện tại Niết-bàn cũng như thế.
Các Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Thường trú luận, cho rằng thế giới luôn thường còn. Các vị ấy do nhân duyên chấp thủ mà sanh khởi ái, sanh khởi ái rồi mà tự mình không hay biết nên bị vướng mắc vào tham ái, bị tham ái chế ngự,... cho đến Hiện tại Niết-bàn cũng như thế.
Các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến chủ trương Thường trú luận, cho rằng thế giới luôn thường còn. Họ lấy xúc làm điều kiện, nếu lìa điều kiện xúc này thì chủ trương kia bất thành,... cho đến Hiện tại Niết-bàn cũng như thế.
Các Sa-môn, Bà-la-môn dựa vào bổn kiếp bổn kiến và mạt kiếp mạt kiến, mỗi người tùy theo nhận thức của mình mà lập thuyết, tất cả đều bao gồm trong sáu mươi hai luận thuyết. Mỗi người tự ý lập thuyết, tất cả đều ở trong đây, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
Cũng như người đánh cá lành nghề, dùng lưới đánh cá có lỗ nhỏ, phủ trùm lên trên cái ao nhỏ thì có thể biết rằng những loài thủy tộc ở trong ao đó đều bị mắc vào trong lưới, không có chỗ trốn thoát, không thể vượt ra ngoài được. Các Sa-môn, Bà-la-môn cũng giống như thế. Họ dựa vào bổn kiếp bổn kiến và mạt kiếp mạt kiến với vô số luận thuyết khác nhau và tất cả bao gồm trong sáu mươi hai luận thuyết này, trong giới hạn đó không thể vượt qua.
[0094a03] Nếu vị Tỳ-kheo đối với sáu xúc, biết rõ như thật sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự xuất ly thì vị Tỳ-kheo đó là người tối thắng, vượt ra ngoài những kiến giải trên.
Như Lai tự biết sanh tử đã chấm dứt nhưng Như Lai sở dĩ hiện thân vì muốn làm phước độ cho trời và người. Nếu Như Lai không hiện thân thì trời và người không có nơi nương tựa. Như cây ta-la bị gãy đọt thì không thể sống lại được, Ta cũng thế, đã đoạn trừ sanh tử rồi thì không còn sanh lại nữa.
Khi đức Phật thuyết giảng pháp này, đại thiên thế giới ba lần rung chuyển với sáu cách chấn động. Bấy giờ, Tôn giả A-nan đứng sau đang cầm quạt hầu Phật, sửa áo bày vai phải rồi quỳ xuống bạch đức Phật rằng:
Pháp này rất sâu xa, làm sao để gọi tên và làm sao để phụng trì pháp này?
Đức Phật dạy:
Này A-nan, kinh này nên gọi là Nghĩa động, Pháp động, Kiến động, Ma động và Phạm động.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan nghe đức Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.[xliv]
Chú thích:
[i] Nguyên tác: Phạm động kinh 梵動經 (T.01. 0001.21. 0088b12). Tham chiếu: Phật thuyết Phạm võng lục thập nhị kiến kinh 佛說梵網六十二見經 (T.01. 0021. 0264a20); D. 1, Brahmajāla Sutta (Kinh Phạm võng). Bản Kinh Trường A-hàm này có tựa đề là “Phạm động” (梵動), với nguyên tác Pāli là Brahmajāla, có nghĩa là “cái lưới của Phạm thiên” (Phạm võng). Sự khác biệt giữa bản Pāli và bản Hán có khả năng phát xuất từ 3 lý do sau. Thứ nhất, có thể phát xuất từ lỗi truyền khẩu ở hậu tố jāla và cāla, tức là Brahmajāla nhưng nghe thành Brahmacāla. Thứ hai, có thể dựa vào yếu tố kỳ đặc ở phần cuối của bản kinh: Khi đức Phật thuyết giảng pháp này, đại thiên thế giới 3 lần rung chuyển với 6 cách chấn động. Thứ ba, có thể căn cứ vào một trong những tựa đề kinh được chính đức Phật dạy. Đức Phật dạy: “Này A-nan, kinh này nên gọi là Nghĩa động, Pháp động, Kiến động, Ma động và Phạm động.” Hai bộ luật quan trọng trong 6 bộ luật hiện lưu, tức là Ngũ phần luật thuộc Hóa Địa bộ và Tứ phần luật thuộc Pháp Tạng bộ đều ghi nhận là Phạm động kinh (梵動經). Xem Di-sa-tắc-bộ-hòa-ê Ngũ phần luật 彌沙塞部和醯五分律 (T.22. 1421.30. 0191a20); Tứ phần luật 四分律 (T.22. 1428.37. 0833b25).
[ii] Ma-kiệt quốc (摩竭國, Magadhā). Xem chú thích 5, kinh số 2, tr. 517.
[iii] Bản Hán Tống, Nguyên, Minh ghi: Trúc thôn (竹村), địa danh nằm giữa Rājagaha, thủ phủ của Makiệt-đà và Nāḷandā.
[iv] Nguyên tác: Tại Vương đường thượng (在王堂上, Ambalaṭṭhikāyam rājārake). Ambalatthikā là nơi nghỉ mát của vua, cũng gọi vườn Thượng uyển.
[v] Phạm chí (梵志, Paribbājaka) chỉ cho Bà-la-môn sống thanh tịnh, cầu được sanh về cõi Phạm thiên.
[vi] Thiện Niệm (善念, Suppiya).
[vii] Phạm-ma-đạt (梵摩達, Brahmadatta). Phật thuyết Phạm võng lục thập nhị kiến kinh 佛說梵網六十二見經 (T.01. 0021. 0264a24) ghi: Phạm-đạt-ma-nạp (梵達摩納, Brahmadattamanava).
[viii] Nguyên tác: Tiểu duyên oai nghi giới hạnh (小緣威儀戒行). Tham chiếu: D. 1: Appamatakaṃ kho pan’ etaṃ oramattakaṃ sīlamattakaṃ (việc đó chỉ thuộc về giới luật nhỏ nhặt, không quan trọng).
[ix] Nguyên tác: Ỷ ngữ (綺語) hay “tạp uế ngữ” (雜穢語). Tham chiếu: D. 1: Samphappāla (lời nói phù phiếm).
[x] Nguyên tác: Chủng thực thọ mộc quỷ thần sở y (種植樹木鬼神所依). MĀ. 141 có đề cập danh từ “quỷ thôn” (鬼村), trực dịch từ bhūtagāma. Theo PED, bhūta có nghĩa là quỷ thần, cũng có nghĩa là hạt giống. Ở đây, bhūtagāma chỉ cho các loại hoa màu, rau cỏ.
[xi] Nguyên tác: Chi tiết (支節, pasākha), dịch âm là Bát-la-xa-khư (鉢羅奢佉), chỉ cho thai nhi từ tuần lễ thứ 5 trở đi.
[xii] Nguyên tác: Nhất thiết âm thư (一切音書). Xem chú thích 19, kinh số 20, tr. 782.
[xiii] Bổn kiếp bổn kiến (本劫本見, pubbantakappikā pubbantādiṭṭhino): Quan điểm về khởi nguyên của thế giới dựa vào kiếp quá khứ, cũng gọi là Nguyên thủy sáng thế luận.
[xiv] Mạt kiếp mạt kiến (末劫末見, aparantakappikā aparantānudiṭṭhino): Quan điểm về thế giới trong tương lai, cũng gọi là Thế mạt luận.
[xv] Chủng chủng vô số, tùy ý sở thuyết (種種無數隨意所說). Tham chiếu: D. 1: Adhivutti pada (Lập thuyết phù phiếm).
[xvi] Nguyên tác: Kiến (見, vatthu): Cơ sở, nền tảng, sự vật.
[xvii] Nguyên tác: Thường luận (常論, sassatavādā): Chủ trương Thường kiến.
[xviii] Nguyên tác: Ngã cập thế gian thường tồn (我及世間常存, sassataṃ attāñ ca lokañ ca). 19 Nguyên tác: Thành kiếp bại kiếp (成劫敗劫): Các thời kỳ sáng thế và tận thế.
[xix] Nguyên tác: Hữu tiệp tật tướng trí thiện năng quán sát (有捷疾相智善能觀察). Tham chiếu: D. 1: Takkī hoti vīmaṃsī hoti (nhà suy luận, nhà thẩm sát).
[xx] Nguyên tác: Kiến xứ (見處, diṭṭhiṭṭhānā): Chỗ thấy, cách nhìn, lập trường tư tưởng.
[xxi] Nguyên tác: Tri thọ tập, diệt, vị, quá hoạn, xuất yếu (知受集滅味過患出要). Tham chiếu: D. 1: Vedanānaṃ ca samudayañ ca aṭṭhagamañ ca assādañ ca ādīnavañ ca nissaraṇañ ca yathā bhūtaṃ viditvā (biết một cách như thật sự tập khởi, sự hủy diệt, vị ngọt, sự nguy hiểm và sự thoát ly của thọ).
[xxii] Nguyên tác: Bán thường bán vô thường (半常半無常). Tham chiếu: D. 1: Ekaccaṃ sassataṃ ekaccaṃ asassataṃ (một bộ phận thường, một bộ phận không thường).
[xxiii] Nguyên tác: Quang Âm thiên (光音天, Ābhassara), tầng cao nhất của Nhị thiền thiên (二禪天).
[xxiv] Nguyên tác: Không Phạm thiên (空梵天). Tham chiếu: D. 1: Vivaṭṭamāne loke sūññaṃ Brahmavimānaṃ pātu bhavati (Trong khi thế giới chuyển thành, cung điện Phạm thiên trống không hiện ra).
[xxv] Nguyên tác: Tận tri chư nghĩa điển (盡知諸義典). Tham chiếu: DĀ. 30: Thiện chư nghĩa thú (善諸義趣): Thông hiểu các nghĩa lý; D. 1: Aññadat Thudaso (đấng Thấy Khắp Tất Cả).
[xxvi] Nguyên tác: Khởi biên tưởng (起邊想).
[xxvii] Nguyên tác: Hữu biên (有邊): Có biên tế, có giới hạn.
[xxviii] Nguyên tác: Dị vấn dị đáp (異問異答): Hỏi khác đáp khác. Tham chiếu: D. 1: Amarāvikkhepika (nhà ngụy biện, uốn lượn như con lươn).
[xxix] Nguyên tác: Ố úy vọng ngữ (惡畏妄語). Tham chiếu: D. 1: Musā vāda bhayā musā vāda parijegucchā (vì sợ vọng ngữ, kinh tởm vọng ngữ).
[xxx] Thọ (受) tức “thủ” (取, upādāna), cũng gọi “chấp thủ”, là một chi trong 12 chi duyên khởi.
[xxxi] Vô tưởng, vô tri (無想無知) còn gọi “vô tưởng hữu tình.”
[xxxii] Bản Hán lặp lại 2 lần, ở đây bỏ bớt một phần.
[xxxiii] Hữu tưởng luận (有想論, Saññīvādā). Luận thuyết cho rằng chúng sanh sau khi chết vẫn có các tác dụng ý thức như: Cảm giác, nhận thức, ý chí, tư duy, v.v… Đây là Thường kiến trong 62 loại kiến chấp của ngoại đạo ở Ấn Độ.
[xxxiv] Nguyên tác: Nhất hướng lạc hữu tưởng (一向樂有想).
[xxxv] Nguyên tác: Nhất hướng hữu khổ (一向有苦).
[xxxvi] Nguyên tác: Hữu nhất tưởng (有一想).
[xxxvii] Nguyên tác: Hữu nhược can tưởng (有若干想).
[xxxviii] Nguyên tác: Hữu thiểu tưởng (有少想).
[xxxix] Nguyên tác: Hữu vô lượng tưởng (有無量想).
[xl] Đoạn diệt luận (斷滅論, Ucchedavādā): Chủ nghĩa Hư vô, chủ trương chết là hết.
[xli] Nguyên tác: Ngã dục giới thiên (我欲界天). Tham chiếu: D. 1: Añño attā dibbo rūpī kāmāvacaro kabaliṅkārāhārabhakkho (Có tự ngã khác, thuộc thiên giới, ở Dục giới, có sắc, ăn bằng đoàn thực. Tức chỉ tự ngã của chư thiên thuộc Dục giới).
[xlii] Nguyên tác: Hiện tại Nê-hoàn luận (現在泥洹論, Diṭṭhadhammanibbānavāda).
[xliii] Nguyên tác: Thọ (受), dùng như “thủ” (取, upādāna): Chấp trước.
[xliv] Bản Hán, hết quyển 14.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.