Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 01 »
Kinh Trường A-Hàm
(長阿含經)
(Bản dịch của Trung tâm Dịch thuật Trí Tịnh)
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật cùng với đại chúng năm trăm vị Tỳ-kheo đều là những bậc A-la-hán đã hết sạch phiền não, ngụ trong rừng Ca-duy, thuộc nước Ca-tỳla-vệ.[2] Lúc ấy, cũng có nhiều vị thần và chư thiên kỳ diệu trong mười phương đều vân tập về để kính lễ đức Như Lai và chúng Tỳ-kheo.
Bấy giờ, có bốn vị trời đang ở trên cung điện cõi trời Tịnh Cư, tự suy nghĩ rằng: “Nay đức Thế Tôn đang ở tại nước Ca-tỳ-la-vệ, trong rừng Ca-duy cùng với đại chúng năm trăm vị Tỳ-kheo đều là những bậc A-la-hán, lại có nhiều vị thần và chư thiên kỳ diệu trong mười phương cũng đều vân tập về để kính lễ đức Như Lai và chúng Tỳ-kheo. Hôm nay, chúng ta cũng nên đi đến chỗ đức Thế Tôn, mỗi người sẽ dùng kệ để tán thán đức Như Lai.”
Lúc ấy, bốn vị trời bỗng nhiên biến mất khỏi cõi trời Tịnh Cư, trong khoảng thời gian nhanh như vị lực sĩ duỗi cánh tay, đến nước Ca-tỳ-la-vệ rồi hiện ra trong rừng Ca-duy, nơi Thế Tôn đang ngự. Đến nơi, bốn vị trời ở cõi Tịnh Cư cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật rồi đứng sang một bên. Sau đó, một vị liền ở trước Phật dùng kệ khen rằng:
Nay đại chúng vân tập,
Có cả chư thiên thần,
Đều vì pháp đến đây,
Đảnh lễ chúng Vô thượng.
Nói kệ xong, vị trời ấy liền đứng sang một bên. Lại có một vị trời khác dùng kệ tán thán:
Tỳ-kheo thấy cấu uế,
Chú tâm tự hộ trì,
Như biển chứa muôn sông,
Người trí hộ các căn.
Nói kệ xong, vị trời ấy liền đứng sang một bên. Lại có một vị trời khác dùng kệ tán thán:
Trừ gai, lấp hầm ái,
San bằng hố vô minh,
Riêng dạo cõi thanh tịnh,
Như khéo huấn luyện voi.
Nói kệ xong, vị trời ấy liền đứng sang một bên. Lại có một vị trời khác dùng kệ tán thán:
Ai về nương tựa Phật, Sẽ không đọa ác thú, Sau khi bỏ thân người, Thọ thân trời thanh tịnh.
Bấy giờ, bốn vị trời ở cõi Tịnh Cư nói bài kệ ấy xong, đức Thế Tôn liền ấn khả.[3] Họ liền đảnh lễ sát chân Phật, nhiễu quanh Phật ba vòng rồi bỗng nhiên biến mất. Họ đi chưa bao lâu, đức Thế Tôn bảo chúng Tỳ-kheo:
– Hôm nay, chư thiên đại hội, có nhiều vị thần và chư thiên kỳ diệu trong mười phương đều đến đây kính lễ đức Như Lai và chúng Tỳ-kheo. Này các Tỳkheo! Thuở quá khứ, các đức Như Lai, bậc Chí Chân, Đẳng Chánh Giác cũng có chư thiên tập hợp đông đủ như Ta ngày nay. Đời tương lai, các đức Như Lai, bậc Chí Chân, Đẳng Chánh Giác cũng có chư thiên tập hợp đông đủ như Ta ngày nay.
Này các Tỳ-kheo! Hôm nay, chư thiên đại hội, có nhiều vị thần và chư thiên kỳ diệu trong mười phương đều đến đây kính lễ đức Như Lai và chúng Tỳkheo, Ta cũng dùng kệ để nói về danh hiệu của họ. Tỳ-kheo nên biết:
Chư vị nương hang núi
Ẩn sâu, thấy đáng sợ,
Thân mặc toàn áo trắng
Tinh sạch, chẳng vết nhơ.
Trời, người nghe kệ xong
Đều trở về cõi Phạm,
Nay Ta xưng danh họ,
Thứ tự không sai nhầm.
Nay chư thiên đã đến,
Ông cần hiểu, Tỳ-kheo,
Bậc trí trong thế gian,
Trong trăm, không được một.
Quỷ thần bảy vạn chúng,
Có thể thấy, vì sao?
Dù thấy mười vạn quỷ,
Cũng chỉ thấy một phần,
Huống gì các quỷ thần,
Trải đều khắp thiên hạ.
[0079c18] Bấy giờ, địa thần dẫn bảy ngàn quỷ dạ-xoa đủ loại, thảy đều có thần túc, dung mạo, sắc tướng và tên gọi, với tâm hoan hỷ đi đến khu rừng có chúng Tỳ-kheo.
Thần Tuyết sơn dẫn sáu ngàn quỷ dạ-xoa đủ các loại, đều có thần túc, dung mạo, sắc tướng và tên gọi, với tâm hoan hỷ đi đến khu rừng có chúng Tỳ-kheo.
Lại có một vị thần Xá-la[4] dẫn ba ngàn quỷ dạ-xoa đủ các loại, đều có thần túc, sắc tướng và tên gọi, với tâm hoan hỷ đi đến khu rừng có chúng Tỳ-kheo.
Lại có mười sáu ngàn quỷ dạ-xoa đủ các loại, đều có thần túc, dung mạo, sắc tướng và tên gọi, với tâm hoan hỷ đi đến khu rừng có chúng Tỳ-kheo.
Lại có thần Tỳ-ba-mật[5] ngụ tại Mã Quốc, dẫn năm trăm quỷ dạ-xoa đủ các loại, đều có thần túc và uy đức.
Lại có thần Kim-tỳ-la[6] ngụ tại thành Vương Xá, bên núi Tỳ-phú-la, dẫn vô số quỷ thần đến cung kính vây quanh.
Lại có Thiên vương Đề-đầu-lại-tra[7] ở phương Đông, thống lãnh các thần càn-đạp-hòa.8 Vị Thiên vương này có oai đức lớn, có chín mươi mốt người con cùng tên Nhân-đà-la,[8] đều có thần lực lớn.
Lại có Thiên vương Tỳ-lâu-lặc ở phương Nam, thống lãnh các long vương, là bậc đại oai đức, có chín mươi mốt người con cùng tên Nhân-đà-la, đều có thần lực lớn.
Lại có Thiên vương Tỳ-lâu-bác-xoa ở phương Tây, thống lãnh các quỷ cưubàn-trà, là bậc đại oai đức, có chín mươi mốt người con cùng tên Nhân-đà-la, đều có thần lực lớn.
Lại có Thiên vương tên Tỳ-sa-môn ở phương Bắc, thống lãnh loài quỷ dạxoa, là bậc đại oai đức, có chín mươi mốt người con cùng tên là Nhân-đà-la, đều có thần lực lớn.
Bốn vị Thiên vương này đều hộ trì ở thế gian, có oai đức lớn, thân phóng ra ánh sáng rồi cùng đi đến khu rừng Ca-duy.
[0080a09] Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn hàng phục tâm không thành thật, hư dối của họ mà lập thần chú rằng:
“Ma câu lâu la, ma câu lâu la, tỳ lâu la, tỳ lâu la, chiên đà na già ma thế trí, ca ni diên đậu, ni diên đậu, ba na lô, ô hô nô nô chủ, đề bà tô mộ, ma đầu la chi đa la tư na, càn đạp ba, na la chủ, xà ni sa, thi ha, vô liên đà la, tỳ ba mật đa la thọ trần đà la, na lữ ni ha, đậu phù lâu, thâu chi bà tích bà.”
Như thế, cho đến các vua càn-thát-bà và la-sát đều có thần túc, dung mạo, sắc tướng và tên gọi, với tâm hoan hỷ đi đến khu rừng có chúng Tỳ-kheo. Lúc đó, đức Thế Tôn lại lập thần chú:
“A hê, na đà sắc, na đầu, tỳ xá li, sa ha, đới xoa xà, bà đề đề đầu lại tra, đế bà, sa ha. Nhã lợi da, già tỳ la, nhiếp bà na già, a đà già ma, thiên đê già, y la bà đà, ma ha na già, tỳ ma na già đa, đà già đà dư, na già la xà, ba ha sa ha, xoa kỳ đề, bà đề la đế, bà đề la đế, tỳ mai dại tích xúc, tỳ ha tứ bà ninh, a bà bà tứ, chất đa la, tốc hòa ni na, cầu tứ đạ, a bà do, na già la trừ, a tứ tu bạt la, tát đế nô, a già, Phật-đà sái, thất la ninh, bà da, ưu la đầu bà diên lâu, tố bàn nậu Phật đầu, xá la nâu, già loại lâu.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn vì hàng a-tu-la mà lập thần chú rằng:
“Kỳ đà, bạt xà, ha đế, tam vật đệ, a tu la, a thất đà, bà diên địa, bà tam bà tứ, y đệ a đà, đề bà ma, thiên địa, già lê diệu, ma ha bí ma. A tu la, đà na bí la đà, bế ma chất đâu lâu, tu chất đế lệ, bà la ha lê, vô di liên na bà, xá lê a tế bạt lê, phất đa la na, tát bệ, bệ lâu da na na mê, tát na mê đế, bà lê, tế như, la da bạt đâu lâu, thi ha am bà la mễ, tam ma do y, đà na, bạt đà nhã, tỳ kheo na, tam di thế, nê bạt.”
[0080b07] Lại nữa, đức Thế Tôn vì hàng chư thiên mà lập thần chú:
“A phù, đề bà, tỳ lê hê bệ, đề dự, bà do, đa xà nậu, bạt lâu nậu, bạt lâu ni, thế đế tô di, da xá a đầu, di đa la bà, già la na di bà, a lã đề bà, ma thiên thê dự, đà xá đề xá, già dư, tát bí, na nan đa la bà bạt na, y địa bàn đại thù địa, bàn na bàn đại, da xá tỳ nậu, mộ đà bà na, a lê kiển đại, tỳ kheo na, bà châu đệ, bà ni, bệ nô, đề bộ, xá già lợi, a hê địa, dõng mê, na sát đế lệ phú la tức kỷ đại a đà man, đà la, bà la bệ chiên đại tô, bà ni sảo, đề bà, a đà chiên đà, phú la xí chi đại, tô lê da tô bà ni sảo, đề bà, a đà, tô đề da, phú la xí đại, ma già đà, bà tô nhân, đồ lô a đầu, thích câu, phú la đại lô, thúc già, già la ma, na la a đại, bệ ma ni bà, ô bà đề, kỳ ha, ba la vô ha, bệ bà la, vi a ni, tát đà ma đa, a ha lê, di sa a ni bác thù nậu, thán nô a, lô dư đề xá a hê bạc sa, xa ma, ma ha xa ma, ma nậu sa ha, ma nậu sớ đa ma, khất đà ba đầu sái a đà ma, nậu ba đậu sái a hê a la dạ, đề bà, a đà, lê đà dạ, bà tư, ba la, ma ha, ba la a đà, đề bà ma thiên, thê dạ, sai ma, đâu suất đà, dạ ma, già sa ni a ni, lam bệ lam bà chiết đế, thọ đề, na ma y sái, niệm ma la đề, a đà lê, ba ha niệm di đại, a hê, đề bà, đề bà, xà lan đề, a kỳ, thi hô ba, ma a lật tra lô da, hô ma, phù phù, ni bà tư, giá bà, đà mộ, a châu đà, a ni, thâu đậu đàn da nậu, a đầu, a lã, tỳ-sa-môn y sái.”
[0081a01] Đây là tên gọi của sáu mươi chủng loại trời.
Bấy giờ, đức Thế Tôn lại vì sáu mươi tám vị Bà-la-môn chứng năm phép thần thông mà lập thần chú rằng:
“La da lê sa da hà hà hê kiền đại bà ni, dà tỳ la bạt đâu bệ địa xà nậu a đầu sai mộ tát đề, ương kỳ bệ địa mâu ni a đâu bế lê da sai già thi lê sa bà ha nhã nậu a đầu phạm la đề bà đề na bà bệ địa mâu ni a đầu, câu tát lê y ni lô ma xà lã, ương kỳ la dã bát xà a lâu minh viễn đâu, ma ha la dã a câu đề lâu bí nâu a đầu, lục bế câu tát lê a lâu giá lăng ỷ giá di la đàn hê hội phù đã phước đô lô lê sái tiên đà bộ, a đầu, đề na già phủ bà ha di già da la dã đa đà a già độ, bà đa mạn đà nậu ca mục la dã a đầu nhân đà la lâu mê ca phù đà lô mộ ma già hê a sắc thương câu tỳ dư a đầu hệ lan nhã già phủ lê rị dư lê đa tha già đô, a hê bà hảo la dư di lô lư đa tha a già độ, bà tư Phật ly thù đà la sư đa tha a già độ, y lê da sai ma ha la dư tiên a bộ đa già a già độ, bát xà bà dư bà lê địa xí a la dư đa già a già độ, uất a lan ma ha la dư tiện bị bà lê ma lê thâu bà hê đại, na ma a bàn địa khổ ma lê la dư a cu tư lợi đà na bà địa a đầu, xí bệ la dư thi y nấc di nấc ma ha la dư phục bà lâu đa già a xà độ, bạt đà bà lợi ma ha la dư câu tát lê ma đê thâu thi hàn đề khiêm bà lợi lê la dư tu đà la lâu tha già độ, a nhân đầu lâu a đầu ma la dư tô lợi dữ tha bệ địa đề bộ a ha bệ lợi tứ a đầu, hằng a da lâu ba la mục giá đa mộ a di nậu a đầu nhứt ma da xà tỳ na bà, sai ma la dư hà lê kiền đô dư tỳ độ bát chi dư thị số ba na lộ ma tô la dư da tứ da do hê lan nhã tô bát na bí sầu độ trí da số la xá, ba la bệ đà uất đà bà ha bà sái bà ha bà bà mưu bà ha xa tham phúc xa đại xa pháp xà xa lệ la đà, na la bát di đa đá la càng đạp bà, xa ha bà tát ba đề tô bệ la dư a hê kiền độ, tỳ kheo tam di địa bà ni địa bà ni.”
[0081b03] Lúc đó, lại có một ngàn vị Bà-la-môn chứng ngũ thông cũng được đức Như Lai lập thần chú.
Khi ấy, Phạm vương đứng đầu trong thế giới này và các Phạm thiên khác đều có thần thông. Trong số đó có một vị Phạm đồng tử tên là Đề-xá, có thần lực lớn.
Lại có các Phạm thiên vương khác trong mười phương cùng với quyến thuộc vây quanh mà đến dự.
Lại qua khỏi một ngàn thế giới, có Đại Phạm vương thấy đại chúng đang ở chỗ Thế Tôn ngự, liền cùng quyến thuộc vây quanh mà đến dự.
Lúc đó, Ma vương thấy đại chúng ở chỗ đức Thế Tôn ngự liền khởi tâm xấu ác rồi tự suy nghĩ: “Ta sẽ dẫn các loại quỷ thần đến phá hoại những người này, bao vây bắt hết không để sót một ai.”
Nghĩ xong, Ma vương liền triệu tập bốn binh chủng dùng tay lăn bánh xe, tiếng rền như sấm dậy, những ai trông thấy đều phải khiếp sợ. Sau đó, binh ma phóng ra bão táp, mưa tuôn, sấm chớp vang rền rồi tiến về rừng Ca-duy bao vây đại chúng.
Khi đó, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo ưa thích hội chúng này:
– Các thầy nên biết, hôm nay ma quân đến đây với tâm xấu ác.
Rồi Thế Tôn nói bài kệ:
Các thầy nên kính thuận,
Vững trụ trong pháp Phật,
Phải diệt chúng ma này,
Như voi phá rừng lau.
Chuyên niệm chớ buông lung,
Đầy đủ về tịnh giới,
Tâm định, tự tư duy,
Khéo giữ ý chí mình.
Nếu ở trong Chánh pháp,
Những ai không buông lung,
Thì thoát khỏi già chết,
Dứt hẳn các gốc khổ.
Các đệ tử nghe rồi,
Phải càng tinh tấn hơn,
Vượt khỏi những thứ dục,
Mảy lông không lay động.
Vì chúng đây tối thắng,
Có đại trí tiếng tăm,
Đệ tử đều dũng mãnh,
Được mọi người tôn kính.
Bấy giờ, chư thiên, quỷ thần và tiên nhân chứng ngũ thông đều tập hợp trong rừng Ca-duy, nhìn thấy chúng ma khuấy động, quái dị chưa từng có.
Khi đức Thế Tôn nói pháp này xong, có tám mươi bốn ngàn chư thiên xa lìa trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh. Các vị trời, rồng, quỷ, thần, a-tu-la, calâu-la, chân-đà-la, ma-hầu-la-già, người cùng phi nhân nghe Phật thuyết pháp xong, thảy đều hoan hỷ phụng hành.[9]
[1] Nguyên tác: Đại hội kinh 大會經 (T.01. 0001.19. 0079b01). Tham chiếu: Phật thuyết Đại tam-manhạ kinh 佛說大三摩惹經 (T.01. 0019. 0258a10); Tạp. 雜 (T.02. 0099.1192. 0323a12); Biệt Tạp. 別雜 (T.02. 0100.105. 0411a24); D. 20, Mahāsamaya Sutta (Kinh Đại hội); S. 1.37 - I. 54.
[2] Nguyên tác: Thích-sí-đề quốc (釋翅提國). Cụm từ này mang nhiều nghĩa. Thứ nhất, theo Phiên dịch danh nghĩa tập 翻譯名義集 (T.54. 2131.3. 1096c28), Thích-sí (釋翅) là viết tắt của chữ Bà-đâu-thíchsí-sưu (婆兜釋翅搜), là tên khác của thành Ca-tỳ-la-vệ (迦毘羅衛). Thứ hai, Thích-sí là viết tắt của chữ Thích-sí-sưu (釋翅搜) được dịch âm từ chữ Śākyesu của Sanskrit hoặc Sakkesu trong ngôn ngữ Pāli, chỉ cho những người thuộc bộ tộc Thích-ca. Tham chiếu bản kinh Pāli tương đương, cho thấy nghĩa hợp lý là đức Phật đang trú trong bộ tộc Thích-ca.
[3] Ấn khả (印可): Chứng minh và thừa nhận.
[4] Xá-la thần (舍羅神, Sātāgiri).
[5] Tỳ-ba-mật (毘波蜜, Vessāmitta).
[6] Kim-tỳ-la (金毘羅, S. Kumbhīra) còn gọi Cấm-tỳ-la (禁毘羅), Cung-tỳ-la (宮毘羅), là một trong 12 vị thần tướng Dược Sư (藥師十二神將), chủ thống lãnh các dạ-xoa.
[7] Đề-đầu-lại-tra (提頭賴吒) còn gọi Đề-đa-la-trá (提多羅吒), tức Trì Quốc Thiên vương (持國天王). 8 Càn-đạp-hòa (乾沓惒) tức càn-thát-bà (乾闥婆).
[8] Nhân-đà-la (因陀羅), vị trời vốn có khả năng làm mưa gió sấm sét.
[9] Bản Hán, hết quyển 12.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.