Viện Nghiên Cứu Phật Học

18. KINH TỰ HOAN HỶ[1]

 

Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật cùng với đại chúng một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳkheo ngụ tại thành Na-lan-đà,[2] trong rừng Ba-ba-lợi-am-bà.[3]

Bấy giờ, Trưởng lão Xá-lợi-phất ở nơi thanh vắng tự mình suy nghĩ: “Ta biết chắc chắn rằng, đối với các Sa-môn, Bà-la-môn ở quá khứ, hiện tại và tương lai, xét về phương diện trí tuệ, thần thông, công đức và đạo lực thì không một ai có thể sánh với đức Như Lai, Vô Sở Trước, Chánh Đẳng Chánh Giác.”

Nghĩ xong, Xá-lợi-phất liền từ tịnh thất đi đến chỗ đức Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ sát chân Ngài rồi ngồi sang một bên và bạch rằng:

  • Bạch đức Thế Tôn! Khi con ở tịnh thất đã tự mình suy nghĩ: “Đối với các Sa-môn, Bà-la-môn ở quá khứ, hiện tại và tương lai, xét về phương diện trí tuệ, thần thông, công đức và đạo lực thì không một ai có thể sánh với đức Như Lai, Vô Sở Trước, Chánh Đẳng Chánh Giác.” [0076c03] Phật bảo Xá-lợi-phất:

  • Lành thay, lành thay! Thầy có thể đứng trước Như Lai mà dám nói lên những lời như thế, với niềm tin xác quyết thì quả thật thầy đã cất lên tiếng rống sư tử! Thầy có thể biết được những suy nghĩ trong tâm của chư Phật quá khứ chăng? Chư Phật ấy có giới như vậy, pháp như vậy, trí tuệ như vậy, giải thoát như vậy và an trú giải thoát như vậy chăng?

Xá-lợi-phất thưa:

  • Bạch Thế Tôn, con không biết!

  • Thế nào, Xá-lợi-phất! Thầy có thể biết những điều được suy nghĩ trong tâm của chư Phật tương lai chăng? Biết đức Phật ấy có giới như vậy, pháp như vậy, trí tuệ như vậy, giải thoát như vậy và an trú giải thoát như vậy chăng?

  • Bạch Thế Tôn, con không biết!

  • Thế nào, Xá-lợi-phất! Như Ta hôm nay là Như Lai, bậc Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, những gì được suy nghĩ trong tâm, giới như vậy, pháp như vậy, trí tuệ như vậy, giải thoát như vậy và an trú giải thoát như vậy, thầy có thể biết được chăng?

  • Bạch Thế Tôn, con không biết!

Phật lại bảo Xá-lợi-phất:

  • Thầy không thể biết được những ý nghĩ trong tâm của Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác ở quá khứ, tương lai và hiện tại thì tại sao thầy lại suy nghĩ một cách xác quyết như thế? Vì lý do nào mà thầy suy nghĩ như vậy với niềm tin xác quyết, cất lên tiếng rống sư tử? Những Sa-môn, Bà-la-môn khác khi nghe thầy nói rằng: “Ta biết chắc chắn rằng, đối với các Sa-môn, Bà-la-môn ở quá khứ, tương lai và hiện tại, xét về phương diện trí tuệ, thần thông, công đức và đạo lực thì không một ai có thể sánh với đức Như Lai, Vô Sở Trước, Chánh Đẳng Chánh Giác”, họ sẽ không tin lời thầy.

Xá-lợi-phất bạch Phật:

  • Bạch Thế Tôn! Con thật sự không biết được suy nghĩ trong tâm của chư Phật ở đời quá khứ, tương lai và hiện tại nhưng con có thể biết rõ pháp tổng tướng[4] của Phật. Vì Như Lai đã dạy cho con các pháp cao xa, vi diệu, các pháp đen, pháp trắng, hữu duyên, vô duyên, minh và vô minh. Những điều Ngài dạy rất vi diệu, cao xa. Sau khi nghe, con hiểu rõ từng pháp một, đạt đến chỗ cứu cánh của pháp, tin Như Lai là bậc Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, tin vào pháp của Như Lai được khéo giảng bày, tin chúng đệ tử của Như Lai thành tựu sự diệt khổ. Trong những pháp lành, Tam bảo là tối thượng. Thế Tôn có trí tuệ rộng khắp, thần thông quảng đại, các Sa-môn, Bà-la-môn trong thế gian không ai có thể sánh với Ngài về các năng lực đó thì làm sao có thể vượt hơn Như Lai?

 Vả lại, pháp mà Như Lai nói, còn có pháp cao hơn nữa, gọi pháp chế.[5] Pháp chế là pháp bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn thần túc, bốn thiền, năm căn, năm lực, bảy giác chi và Thánh đạo tám chi. Đây là những pháp chế vô thượng với trí tuệ rộng khắp, thần thông quảng đại; các Sa-môn, Bà-la-môn ở thế gian không ai có thể sánh với Như Lai về các năng lực đó thì làm sao có thể vượt hơn Như Lai?

[0077a03] Lại nữa, pháp mà Như Lai nói, còn có pháp cao hơn nữa, gọi là chế chư nhập.[6] Chư nhập là mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm và ý tiếp nhận pháp trần. Như Lai ở đời quá khứ, bậc Chí Chân, Đẳng Chánh Giác cũng thiết lập pháp này, gọi là mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý tiếp nhận pháp trần. Ngay cả Như Lai ở đời tương lai, bậc Chí Chân, Đẳng Chánh Giác cũng thiết lập pháp này, gọi là mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý tiếp nhận pháp trần. Nay Như Lai, bậc Chí Chân, Đẳng Chánh Giác cũng thiết lập pháp này, gọi là mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý tiếp nhận pháp trần. Những pháp này vô thượng với trí tuệ rộng khắp, thần thông quảng đại; các Sa-môn, Bà-la-môn ở thế gian không có ai có thể sánh với Như Lai về các năng lực đó thì làm sao có thể vượt hơn?

Lại nữa, pháp mà Như Lai nói, lại còn có pháp cao hơn nữa, đó là thức nhập thai. Có bốn loại nhập thai: Một là, có loạn nhập thai,[7] loạn trụ thai, loạn xuất thai. Hai là, không loạn nhập thai nhưng loạn trụ thai, loạn xuất thai. Ba là, không loạn nhập thai, không loạn trụ thai nhưng loạn xuất thai. Bốn là, không loạn nhập thai, không loạn trụ thai, không loạn xuất thai. Trường hợp không loạn nhập, không loạn trụ, không loạn xuất thai này, chính là hạng nhập thai bậc thượng. Những pháp này vô thượng với trí tuệ rộng khắp, thần thông quảng đại; các Sa-môn, Bà-la-môn ở thế gian không có ai có thể sánh với Như Lai về các năng lực đó thì làm sao có thể vượt hơn?

Pháp mà Như Lai nói, lại còn có pháp cao hơn, gọi là đạo.[8] Sở dĩ gọi là đạo vì các Sa-môn, Bà-la-môn dùng vô số phương tiện nhập định Ý tam-muội, rồi bằng tâm định mà tu niệm giác chi, nương nơi mong cầu,[9] nương nơi xả ly, nương nơi diệt tận, nương vào xuất ly. Những pháp tinh tấn, hỷ, khinh an, định và xả giác chi,[10] nương nơi mong cầu, nương nơi xả ly, nương nơi diệt tận, nương vào xuất ly. Những pháp này vô thượng, với trí tuệ rộng khắp, thần thông quảng đại; các Sa-môn, Bà-la-môn ở thế gian không có ai có thể sánh với Như Lai về các năng lực đó thì làm sao có thể vượt hơn?

Pháp mà Như Lai nói, còn có pháp cao hơn nữa, đó là diệt.[11] Diệt có nghĩa là biết rõ bốn phương pháp hành trì: Tu khổ hạnh mà chậm chứng ngộ, do vậy cả hai đều thấp kém;[12] kế đến, tu khổ hạnh mà chứng ngộ nhanh nhưng do tu khổ hạnh nên gọi là thấp kém; thứ ba, tu tập trong an lạc nhưng chậm chứng ngộ, do chậm chứng ngộ nên xem là thấp kém; thứ tư, tu tập với hỷ lạc và chứng ngộ nhanh chóng nhưng không được rộng rãi, do không rộng rãi, nên xem là thấp kém. Ngày nay, Như Lai không chỉ đi đến tịch diệt bằng con đường an lạc, chứng ngộ nhanh chóng mà còn phổ biến rộng khắp, cho đến trời, người ai ai cũng được nhìn thấy thần thông biến hóa.[13]Xá-lợi-phất bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn, những pháp mà Thế Tôn giảng nói vi diệu bậc nhất, ngay cả hàng nữ nhân cũng có thể thọ trì, từ đó diệt trừ hữu lậu, thành tựu vô lậu, thành tựu tâm giải thoát, tuệ giải thoát, ngay trong đời này tự thân tác chứng: “Sanh tử đã chấm dứt, Phạm hạnh đã thành tựu, việc cần làm đã xong, không còn tái sanh nữa.” Đây là pháp diệt vô thượng mà Như Lai đã thuyết. Những pháp này vô thượng với trí tuệ rộng khắp, thần thông quảng đại; các Sa-môn, Bà-la-môn ở thế gian không có ai có thể sánh với Như Lai về các năng lực đó thì làm sao có thể vượt hơn?

[0077b05] Lại nữa, pháp mà Như Lai nói, còn có pháp cao hơn nữa, đó là nói lời thanh tịnh.[14] Nói lời thanh tịnh nghĩa là Thế Tôn đối với các Sa-môn, Bà-la-môn không bao giờ nói lời hư vọng, vô ích, không nói vì hơn thua, cũng không nói vì phe đảng mà chỉ nói lời nhu hòa, nói đúng thời, không nói suông. Đó gọi là nói lời thanh tịnh. Những pháp này vô thượng với trí tuệ rộng khắp, thần thông quảng đại; các Sa-môn, Bà-la-môn ở thế gian không có ai có thể sánh với Như Lai về các năng lực đó thì làm sao có thể vượt hơn?

 Lại nữa, pháp mà Như Lai nói, còn có pháp cao hơn nữa, đó là kiến định.[15] Nói kiến định, nghĩa là như vầy:

Một là, có Sa-môn, Bà-la-môn dùng vô số phương tiện nhập định Ý tammuội.16 Với tâm định tĩnh ấy, vị ấy quán từ đầu đến chân, từ chân đến đầu, trong ngoài lớp da bao bọc, chỉ toàn những thứ bất tịnh như: Tóc, lông, móng, gan, phổi, ruột, dạ dày, lá lách, thận tức là năm tạng; mồ hôi, mỡ, tủy, não, phân, nước tiểu, nước mũi, nước mắt, chỗ hôi thối bất tịnh, không có một thứ gì đáng để tham luyến. Đây là kiến định thứ nhất.

Hai là, có Sa-môn, Bà-la-môn dùng vô số phương tiện nhập định Ý tammuội. Với tâm định tĩnh ấy, vị ấy loại trừ các thứ bất tịnh bên trong và ngoài da, chỉ quán xương trắng và răng. Đây là kiến định thứ hai.

Ba là, các Sa-môn, Bà-la-môn dùng vô số phương tiện nhập định Ý tammuội. Với tâm định tĩnh ấy, vị ấy loại trừ các thứ bất tịnh ở bên trong và bên ngoài da, cùng xương trắng, chỉ quán tâm thức trụ ở nơi nào? Trụ ở đời này hay đời sau? Đời này không gián đoạn, đời sau không gián đoạn, đời này không giải thoát, đời sau không giải thoát. Đây là kiến định thứ ba.

Bốn là, các Sa-môn, Bà-la-môn dùng vô số phương tiện nhập định Ý tammuội. Với tâm định tĩnh ấy, vị ấy loại trừ các thứ bất tịnh ở bên trong và bên ngoài da, cùng xương trắng và tiếp tục quán thức; thức ở đời sau, không ở đời này; đời này gián đoạn, đời sau không gián đoạn; đời này giải thoát, đời sau không giải thoát. Đây là kiến định thứ tư.

Năm là, các Sa-môn, Bà-la-môn dùng vô số phương tiện nhập định Ý tammuội. Với tâm định tĩnh ấy, vị ấy loại trừ các thứ bất tịnh như ở bên trong và bên ngoài da, cùng xương trắng và tiếp tục quán thức; thức không ở đời này, không ở đời sau, cả hai đều đoạn, cả hai đều giải thoát. Đây là kiến định thứ năm.

Những pháp này vô thượng, với trí tuệ rộng khắp, thần thông quảng đại; các Sa-môn, Bà-la-môn ở thế gian không có ai có thể sánh với Như Lai về các năng lực đó thì làm sao có thể vượt hơn?

[0077c03] Lại nữa, đức Như Lai nói pháp, còn có pháp cao hơn nữa, đó là chỉ rõ về thường trú luận.[16] Thường trú luận nghĩa là:

Một là, các Sa-môn, Bà-là-môn dùng vô số phương tiện nhập định Ý tammuội. Với tâm định tĩnh ấy, vị ấy nhớ lại hai mươi kiếp thành và kiếp hoại của thế gian, nên nói rằng: “Thế gian này là thường hằng, chỉ có điều này là chân thật, ngoài ra đều giả dối. Vì sao như vậy? Vì do tôi nhớ lại nên mới biết có kiếp thành, kiếp hoại này. Quá khứ còn lại thì tôi không biết. Kiếp thành, kiếp hoại ở tương lai, tôi cũng không biết.” Người này, do vô trí mà luôn nói rằng: “Thế gian này là thường hằng, chỉ có điều này là chân thật, ngoài ra đều giả dối.” Đây là thường trú luận thứ nhất.

Hai là, các Sa-môn, Bà-la-môn dùng vô số phương tiện nhập định Ý tammuội, với tâm định tĩnh ấy, vị ấy nhớ biết được bốn mươi kiếp thành, kiếp hoại nên nói rằng: “Thế gian này là thường hằng, chỉ có điều này là chân thật, ngoài ra đều giả dối. Vì sao như vậy? Vì do tôi nhớ lại nên biết được kiếp thành và kiếp hoại. Tôi còn biết hơn thế nữa, biết kiếp thành, kiếp hoại của quá khứ nhưng tôi không biết được kiếp thành, kiếp hoại ở tương lai.” Thuyết này là biết khởi đầu nhưng không biết chung cuộc. Người này do vô trí mà luôn nói rằng: “Thế gian này là thường còn, chỉ có điều này là chân thật, ngoài ra đều giả dối.” Đây là thường trú luận thứ hai.

Ba là, các Sa-môn, Bà-la-môn dùng vô số phương tiện nhập định Ý tammuội. Với tâm định tĩnh ấy, vị ấy nhớ biết được tám mươi kiếp thành, kiếp hoại nên nói rằng: “Thế gian này là thường hằng, chỉ có điều này là chân thật, ngoài ra đều giả dối. Vì sao như vậy? Vì do tôi nhớ lại nên biết được có kiếp thành, kiếp hoại. Hơn nữa, tôi còn biết tường tận về kiếp thành, kiếp hoại ở đời quá khứ cũng như đời tương lai.” Người này do vô trí mà luôn nói rằng: “Thế gian này là thường còn, chỉ có điều này là chân thật, ngoài ra đều giả dối.” Đây là thường trú luận thứ ba.

Những pháp này vô thượng, với trí tuệ rộng khắp, thần thông quảng đại; các Sa-môn, Bà-la-môn ở thế gian không có ai có thể sánh với Như Lai về các năng lực đó thì làm sao có thể vượt hơn?

Lại nữa, đức Như Lai thuyết pháp, còn có pháp cao hơn, đó là quán sát.[17] Quán sát nghĩa là:

Một là, có Sa-môn, Bà-la-môn dùng tưởng để quán sát,[18] “tâm kia thú hướng như vậy, tâm này thú hướng như vậy, tâm ấy khi phát khởi tưởng như vậy.” Điều này có khi đúng và cũng có khi sai. Đây là quán sát thứ nhất.

Hai là, có Sa-môn, Bà-la-môn không dùng tưởng quán sát mà nghe lời của chư thiên và phi nhân rồi nói với người kia rằng: “Tâm của ngươi thế này, tâm của ngươi thế kia.” Điều này có khi đúng và cũng có khi sai. Đây là quán sát thứ hai.

Ba là, có Sa-môn, Bà-la-môn không dùng tưởng quán sát, cũng không nghe lời của chư thiên và phi nhân mà tự quán sát thân mình, lại nghe lời nói của người khác, rồi nói với người kia rằng: “Tâm ngươi như thế này, tâm ngươi như thế kia.” Điều này có khi đúng và cũng có khi sai. Đây là quán sát thứ ba.

Bốn là, hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn không dùng tưởng quán sát, cũng không nghe lời nói của chư thiên và phi nhân, cũng không tự quán sát thân mình mà quán sát thân người khác, sau khi loại bỏ giác và quán rồi, được định Ý tam-muội, vị ấy quán sát tâm người khác rồi nói với người ấy rằng: “Tâm ngươi như thế này, tâm ngươi như thế kia.” Quán sát như vậy mới là chân thật. Đây là quán sát thứ tư.

Những pháp này vô thượng, với trí tuệ rộng khắp, thần thông quảng đại; các Sa-môn, Bà-la-môn ở thế gian không có ai có thể sánh với Như Lai về các năng lực đó thì làm sao có thể vượt hơn? 

[0078a11] Lại nữa, đức Như Lai nói pháp, còn có pháp cao hơn nữa, đó là giáo giới.[19] Giáo giới nghĩa là:

Một là, hoặc có trường hợp, có người không trái giáo giới, dứt sạch hữu lậu thành vô lậu, thành tựu tâm giải thoát và trí tuệ giải thoát, ngay trong đời này tự thân tác chứng: “Sanh tử đã chấm dứt, Phạm hạnh đã thành tựu, việc cần làm đã xong, không còn tái sanh nữa.” Đó là giáo giới thứ nhất.

Hai là, hoặc có trường hợp, có người không trái giáo giới, diệt trừ năm hạ phần kiết sử, [chứng quả A-na-hàm]. Sau khi diệt độ ở cõi này, vị ấy không còn trở lại cõi đời này nữa. Đó là giáo giới thứ hai.

Ba là, hoặc có trường hợp, có người không trái giáo giới, diệt trừ ba kiết sử, giảm thiểu tham, sân, si, chứng quả Tư-đà-hàm, vị ấy tái sanh trở lại cõi đời này rồi sau đó diệt độ. Đó là giáo giới thứ ba.

Bốn là, hoặc có trường hợp, có người không trái giáo giới, diệt trừ ba kiết sử, chứng được quả Tu-đà-hoàn, vị ấy tái sanh cõi này tối đa là bảy lần thì sẽ thành tựu đạo quả, không còn đọa vào đường ác. Đó là giáo giới thứ tư.

Những pháp này vô thượng, với trí tuệ rộng khắp, thần thông quảng đại; các Sa-môn, Bà-la-môn ở thế gian không có ai có thể sánh với Như Lai về các năng lực đó thì làm sao có thể vượt hơn?

 Lại nữa, Như Lai thuyết pháp, còn có điều cao hơn, đó là thuyết pháp cho người khác, khiến cho họ được giới thanh tịnh.[20] Giới thanh tịnh nghĩa là, có Sa-môn, Bà-la-môn với lời nói thành thực, không nói hai chiều, thường tự kính cẩn, giảm trừ ngủ nghỉ, không ôm lòng dua nịnh, miệng không nói dối, không đoán việc cát hung cho người, không tự khen mình, không đem sở đắc của người này nói với người kia để cầu thêm lợi dưỡng từ người khác; tọa thiền, tu trí, biện tài vô ngại, chuyên niệm không loạn, siêng năng không biếng nhác. Những pháp này vô thượng, với trí tuệ rộng khắp, thần thông quảng đại; các Sa-môn, Bà-la-môn ở thế gian không có ai có thể sánh với Như Lai về các năng lực đó thì làm sao có thể vượt hơn?

[0078b01] Pháp mà Như Lai nói, còn có pháp cao hơn, đó là trí giải thoát.[21] Trí giải thoát nghĩa là, do nhân duyên của người khác mà Thế Tôn thầm tư duy: “Người này là Tu-đà-hoàn, người kia là Tư-đà-hàm, người này là A-na-hàm, người kia là A-la-hán.” Những pháp này vô thượng, với trí tuệ rộng khắp, thần thông quảng đại; các Sa-môn, Bà-la-môn ở thế gian không có ai có thể sánh với Như Lai về các năng lực đó thì làm sao có thể vượt hơn?

Lại nữa, pháp mà Như Lai nói, còn có pháp cao hơn, đó là tự biết mình chứng Túc mạng trí.[22] Như các Sa-môn, Bà-la-môn dùng vô số phương tiện nhập định Ý tam-muội, với tâm định tĩnh ấy, họ tự nhớ được vô số việc đời quá khứ, một đời, hai đời,… cho đến trăm ngàn đời, kiếp thành, kiếp hoại. Từ vô số kiếp như vậy, tự nhớ được ta sanh tại chỗ nào, tên gọi như vậy, chủng tộc như vậy, có họ như vậy, tuổi thọ như vậy, ăn uống như vậy, khổ vui như vậy. Từ nơi này tái sanh đến nơi kia, từ nơi kia tái sanh đến nơi này, với nhiều tướng trạng khác nhau, tự nhớ được những việc trong vô số kiếp về trước, ngày đêm thường nhớ nghĩ những nơi mình đã trải qua; đây là Sắc, đây là Vô sắc; đây là Tưởng, đây là Vô tưởng; đây là chẳng phải Vô tưởng, thảy đều nhớ biết một cách rõ ràng. Những pháp này vô thượng, với trí tuệ rộng khắp, thần thông quảng đại; các Sa-môn, Bà-la-môn ở thế gian không có ai có thể sánh với Như Lai về các năng lực đó thì làm sao có thể vượt hơn?

Lại nữa, Như Lai nói pháp còn có pháp cao hơn nữa, đó là Thiên nhãn trí.[23] Thiên nhãn trí nghĩa là, các Sa-môn, Bà-la-môn dùng vô số phương tiện nhập định Ý tam-muội, với tâm định tĩnh ấy, vị ấy quán thấy các chúng sanh, sự chết, sự sống, sắc đẹp, sắc xấu, sanh ở cõi lành, cõi ác, hoặc đẹp, hoặc xấu, tùy theo hành nghiệp của họ, thảy đều thấy biết một cách rõ ràng. Hoặc có chúng sanh tạo nghiệp thân làm điều ác, miệng nói điều ác, ý nghĩ điều ác, chê bai Hiền thánh, tin theo tà kiến điên đảo, sau khi mạng chung phải đọa vào ba đường ác. Hoặc có chúng sanh, thân làm việc lành, miệng nói lời lành, ý nghĩ điều lành, không chê bai Hiền thánh, chánh kiến, tín hạnh, sau khi mạng chung được sanh lên cõi trời hoặc sanh vào cõi người. Vị ấy dùng mắt trời thanh tịnh để quán sát các chúng sanh, thấy biết một cách như thật. Những pháp này vô thượng, với trí tuệ rộng khắp, thần thông quảng đại; các Sa-môn, Bà-la-môn ở thế gian không có ai có thể sánh với Như Lai về các năng lực đó thì làm sao có thể vượt hơn?

Lại nữa, Như Lai thuyết pháp, còn có pháp cao hơn nữa, đó là chứng thần thông.25 Chứng thần thông nghĩa là các Sa-môn, Bà-la-môn dùng vô số phương tiện nhập định Ý tam-muội. Với tâm định tĩnh ấy, vị ấy vận dụng vô số thần lực, có thể từ một thân biến thành nhiều thân, từ nhiều thân hóa thành một thân, vách đá không trở ngại, có thể ngồi kiết-già ở giữa hư không, giống như chim bay, vào ra lòng đất như ở trong nước, đi trên nước như đi trên đất, thân phát ra khói lửa như đống lửa cháy rực, đưa tay chạm đến mặt trời, mặt trăng, đứng cao đến trời Phạm thiên.

Nếu có các Sa-môn, Bà-la-môn nào ngợi khen thần thông đó thì nên bảo họ rằng: “Những thần thông này không phải là không có. Nhưng việc hóa hiện thần thông như vậy là sự thực hành của phàm phu thấp kém, chẳng phải là sự tu tập của bậc Hiền thánh.”

Nếu Tỳ-kheo nào đối với các sắc đẹp thế gian yêu thích mà không tham đắm, sau khi xả ly những sắc ấy, làm việc đáng làm, ấy mới xứng gọi là thần thông của bậc Hiền thánh.

Đối với các sắc không đáng ưa cũng không ghét, sau khi xả ly những sắc ấy, làm việc đáng làm, ấy mới xứng gọi là thần thông của các bậc Hiền thánh.

Lại nữa, đối với các sắc mà thế gian ưa thích, sắc mà thế gian không ưa thích, sau khi lìa bỏ cả hai, tu tập chân chánh, biết phòng hộ, chuyên niệm không quên, đó mới xứng gọi là thần thông của bậc Hiền thánh. Cũng như đức Thế Tôn, do tinh tấn dũng mãnh, có trí tuệ lớn, có tri, có giác, chứng đắc giác ngộ tối thượng, cho nên gọi là Đẳng Giác. Nay Thế Tôn không còn vui với năm dục, không ưa lối tu tập của hàng phàm phu thấp kém, cũng không tinh cần khổ hạnh để chịu các khổ não.

Nếu Thế Tôn muốn loại trừ các pháp xấu ác, có giác có quán, có hỷ lạc do ly [dục] sanh, chứng nhập Thiền thứ nhất, Ngài liền có thể trừ diệt các pháp xấu ác, có giác có quán, có hỷ lạc do ly [dục] sanh rồi chứng nhập Thiền thứ nhất. Đối với Thiền thứ hai, Thiền thứ ba và Thiền thứ tư cũng như vậy. Ngài tinh tấn, dũng mãnh, có trí tuệ lớn, có tri, có giác, chứng đắc giác ngộ tối thượng, cho nên gọi là Đẳng Giác.”

[0078c19] Phật bảo Xá-lợi-phất:

  • Nếu có ngoại đạo, dị học đến hỏi thầy rằng: “Trong các Sa-môn, Bà-la-môn đời quá khứ có ai sánh bằng Sa-môn Cù-đàm không” thì thầy sẽ trả lời thế nào? Người kia lại hỏi: “Trong các Sa-môn, Bà-la-môn đời tương lai có ai sánh bằng Sa-môn Cù-đàm không” thì thầy sẽ trả lời với họ ra sao? Người kia lại hỏi: “Trong các Sa-môn, Bà-la-môn đời hiện tại có ai sánh bằng Sa-môn Cù-đàm không” thì thầy sẽ trả lời thế nào?

Lúc đó, Xá-lợi-phất bạch Phật:

  • Thưa Thế Tôn! Giả sử có người hỏi: “Trong các Sa-môn, Bà-la-môn ở đời quá khứ có ai sánh bằng Phật không?” thì con sẽ trả lời: “Có!” Nếu họ hỏi: “Trong các Sa-môn, Bà-la-môn ở đời tương lai có ai sánh bằng Phật không?” thì con sẽ trả lời: “Có!” Nếu họ hỏi: “Trong các Sa-môn, Bà-la-môn đời hiện tại có ai sánh bằng Phật không?” thì con sẽ trả lời: “Không!” Đức Phật hỏi ngài Xá-lợi-phất:

  • Nếu Phạm chí ngoại đạo kia lại hỏi: “Vì sao nói có? Vì sao nói không?” Vậy thầy sẽ trả lời thế nào?

  • Bạch Thế Tôn! Con sẽ trả lời: “Các vị Chánh Đẳng Chánh Giác ở đời quá khứ và đời tương lai đều sánh bằng đức Như Lai. Thế nhưng đích thân con nghe Phật nói, trong đời hiện tại mà muốn có bậc Chánh Đẳng Chánh Giác xuất hiện để sánh với Như Lai thì điều này không thể xảy ra.” Bạch Thế Tôn! Theo như những điều con đã được nghe, nương theo pháp và thuận theo pháp mà trả lời như vậy, sẽ không có gì sai sót chứ?

[0079a05] Phật nói:

  • Thầy trả lời như vậy là đúng, đã nương theo pháp và thuận theo pháp, không sai điều gì cả. Vì sao như vậy? Vì có các vị Chánh Đẳng Chánh Giác ở quá khứ sánh bằng Ta. Có những vị Chánh Đẳng Chánh Giác ở đời tương lai sánh bằng Ta nhưng không thể nói rằng, có hai đức Phật cùng một lúc xuất hiện ở thế gian.

Bấy giờ, Tôn giả Uất-đà-di đứng sau đức Phật, đang cầm quạt hầu Phật. Phật bảo:

  • Này Uất-đà-di![24] Thầy hãy quán sát sự biết đủ, ít muốn của đức Thế Tôn. Dù Ta có thần lực lớn, có oai đức lớn nhưng lại biết đủ, ít muốn, không vui với các dục. Này Uất-đà-di! Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn nào khác ở trong pháp này mà tinh cần tu tập và chứng được một pháp thì vị ấy sẽ dựng cờ phướn, loan báo khắp bốn phương xa gần rằng: “Đấng Như Lai biết đủ, ít muốn. Nay hãy quán sát sự ít muốn, biết đủ của Như Lai. Như Lai có thần lực lớn, có oai đức lớn, không cần đến các dục.”

Lúc ấy, Tôn giả Uất-đà-di sửa sang y phục, bày vai bên phải, gối phải chấm đất rồi chắp tay thưa đức Phật:

  • Thật kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn! Hiếm có sự biết đủ, ít muốn như Thế Tôn, vì Ngài có thần lực lớn, có oai đức lớn mà không thọ dụng các dục. Nếu như có các Sa-môn, Bà-la-môn nào ở trong pháp này tinh cần tu tập và chứng được một pháp thôi thì vị ấy sẽ dựng cờ phướn, loan báo khắp bốn phương xa gần: “Đấng Thế Tôn hôm nay là bậc biết đủ, ít muốn.” Xá-lợi-phất! Ngài hãy nói pháp này cho các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc và ưu-bà-di nghe. Nếu các vị ấy đối với Phật, Pháp, Tăng hay với con đường tu tập mà còn khởi lên nghi ngờ thì sau khi nghe được pháp này sẽ không còn nghi ngờ gì nữa.

Bấy giờ, Phật dạy ngài Xá-lợi-phất:

  • Thầy hãy giảng thuyết pháp này nhiều lần cho các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc và ưu-bà-di. Vì sao như vậy? Vì nếu như họ còn có sự nghi ngờ về Phật, Pháp, Tăng và về con đường tu tập, sau khi nghe những điều thầy nói thì họ sẽ thông suốt.

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa:

  • Kính vâng! Bạch Thế Tôn!

Khi ấy, Xá-lợi-phất thuyết pháp này nhiều lần cho các Tỳ-kheo, Tỳ-kheoni,  ưu-bà-tắc và ưu-bà-di nghe, nhờ vậy mà các vị ấy được thanh tịnh, cho nên gọi là Kinh Thanh tịnh.[25]

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất nghe Phật thuyết pháp xong, hoan hỷ phụng hành.

 

Chú thích:

[1] Nguyên tác: Tự hoan hỷ kinh 自歡喜經 (T.01. 0001.18. 0076b23). Tham chiếu: Phật thuyết Tín Phật công đức kinh 佛說信佛功德經 (T.01. 0018. 0255a11); Tạp. 雜 (T.02. 0099.498. 0130c07); D. 28, Sampasādanīya Sutta (Kinh Tự hoan hỷ); S. 47.12 - V. 159.

[2] Nguyên tác: Na-nan-đà (那難陀), cũng viết là Na-lan-đà (那爛陀, Nāḷandā), là tên của một thị trấn gần thành Vương Xá.

[3] Ba-ba-lợi-am-bà lâm (波波利菴婆林, Pāvārikambavana), một khu rừng tại thành Na-lan-đà (Nāḷandā).

[4] Tổng tướng pháp (總相法). Tương đương Pāli của thuật ngữ này là từ dhammanvaya và được giải nghĩa tùy theo từng trường hợp. Trước hết, trong D. 28, HT. Thích Minh Châu dịch từ này là “Truyền thống về Chánh pháp”, hoặc trong M. 89, gọi là “Pháp truyền thống.” Nghĩa này cũng được xác nhận trong DPPN. Tuy nhiên, trong SĀ. 498, từ này được dịch là “Pháp chi phân tề” (法之分齊). Phân tề (分齊), Hán ngữ đại từ điển (漢語大辭典) giải thích là bày biện phân chia phẩm vật hiến cúng liệt vị tổ tông (將齋祭之物分獻於各祖宗, 謂之分齋). Trong M. 12, từ dhammanvaya được HT. Thích

Minh Châu dịch là “tùy pháp.” Trong khi đó, cụm từ này được Tỳ-kheo Bodhi dịch sang tiếng Anh là suy luận từ giáo pháp (inference from dhamma). So sánh với kinh liên quan, Kinh Trung A-hàm dịch là Pháp tĩnh (法靖). Tĩnh (靖) ở đây mang nghĩa thẩm sát, suy xét, bằng nghĩa chữ “thẩm” (審). Tương đồng với nghĩa này, Chú giải Kinh Tương ưng bộ (Sāratthappakāsinī) giải thích từ này mang nghĩa là trí hiện lượng (paccakkhato ñāṇassa). Như vậy, “Tổng tướng pháp” (總相法) ở đây gần với nghĩa là dùng trí tuệ để thẩm sát, là trí hiện lượng.

[5] Nguyên tác: Chế pháp (制法): Phương pháp, đạo lộ tu tập.

[6] Chế chư nhập (制諸入, āyatana paññatti): Sự chế định, thiết lập về (sáu) xứ. Kinh Trung A-hàm gọi là phòng hộ các căn môn (守護諸根).

[7] Loạn nhập thai (亂入胎): Vào thai mẹ mà không tự biết.

[8] Đạo (道) ở đây chỉ cho 7 giác chi.

[9] Nguyên tác: Y dục (依欲). Theo SĀ. 565; Du-già sư địa luận 瑜伽師地論 (T.30. 1579.70. 0686a19), “dục” (欲) ở đây chỉ cho ước muốn nỗ lực (欲精進).

[10] Đến đây mới kể 6 giác chi, không có trạch pháp giác chi (擇法覺支).

[11] Nguyên tác: Diệt (滅). Theo Chúng tập kinh 眾集經 (T.01. 0001.8. 0050c28), “diệt” ở đây chỉ cho “Đạo tích”, tức phân biệt rành rẽ 4 phương pháp hành trì liên hệ sự chứng ngộ nhanh hay chậm. Pāli: Paṭipadā. Hán dịch là “hành đạo” hoặc “đạo tích” (行道,道跡).

[12] Nguyên tác: Ty lậu (卑陋, hīna): Hạ liệt, thấp thỏi, hèn hạ, đáng khinh.

[13] Tham chiếu: “Tứ đạo” (四道) trong Chúng tập kinh 眾集經 (T.01. 0001.8. 0050c28): Khổ đắc chậm, khổ đắc nhanh, lạc đắc chậm và lạc đắc nhanh (苦遲得,苦速得,樂遲得,樂速得).

[14] Ngôn thanh tịnh (言清淨, bhassa samācara): Ngôn thuyết chánh hạnh hay sự chân chánh của ngôn ngữ.

[15] Kiến định (見定, Dassanasamāpatti): Trạng thái tập trung đạt được do thấy, tức do quán sát. 16 Định Ý tam-muội (定意三昧, Cetosamādhi).

[16] Nguyên tác: Thường pháp (常法, sassatavāda).

[17] Quán sát (觀察, ādesana vidhā) chỉ cho các trường hợp khác nhau về việc đọc được ý nghĩ của người khác.

[18] Dĩ tưởng quán sát (以想觀察, nimmittena ādesati): Đọc ý nghĩ của người khác bằng cách dựa vào các dấu hiệu bên ngoài.

[19] Giáo giới (教誡, anusāsana).

[20] Giới thanh tịnh (戒清淨). Tham chiếu: D. 28: Bhagavā dhammaṃ deseti purisasīla samācāre (Thế Tôn thuyết pháp liên quan đến chánh hạnh về giới pháp của con người).

[21] Giải thoát trí (解脫智, Vimutti ñaṇa).

[22] Tự thức túc mạng trí (自識宿命智, Pubba nibāsa anussati ñāṇa): Trí tuệ tự biết sanh mạng kiếp trước của mình.

[23] Thiên nhãn trí (天眼智): Trí dùng con mắt trời để quan sát thấy biết mọi sự vật. 25 Thần túc chứng (神足證, Iddhividhā).

[24] Uất-đà-di (欝陀夷, Udāyi).

[25] Nguyên tác: Dĩ tự thanh tịnh cố, cố danh Thanh tịnh kinh (以自清淨故, 故名清淨經). So với phần kết thúc kinh số 17: “Thử kinh danh vi Thanh tịnh, nhữ đương thanh tịnh trì chi” (此經名為清淨, 汝當清淨持之), 2 kinh này trùng tên.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.