Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 01 »
Kinh Trường A-Hàm
(長阿含經)
(Bản dịch của Trung tâm Dịch thuật Trí Tịnh)
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật cùng với đại chúng một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳkheo ngụ trong khu rừng của ưu-bà-tắc Miến-kỳ,[2] thuộc nước Ca-duy-la-vệ.[3]
Bấy giờ, có Sa-di tên là Châu-na[4] ở tại Ba-ba,[5] sau khi mãn hạ đã đắp y, ôm bát rồi tuần tự du hành đến chỗ Tôn giả A-nan ở trong vườn Miến-kỳ, thuộc nước Ca-duy-la-vệ, cung kính đảnh lễ sát chân Tôn giả rồi đứng sang một bên và bạch rằng:
Thưa Tôn giả! Tại thành Ba-ba có vị giáo chủ Ni-kiền-tử[6] lâm chung chưa được bao lâu mà trong hàng đệ tử của ông ta đã chia thành hai phái. Họ tranh cãi nhau, mắng nhiếc lẫn nhau, không còn nghĩ gì đến tôn ti trật tự, tìm những khuyết điểm của nhau, ganh đua kiến thức với nhau. Họ bảo: “Chỉ có ta biết được điều này, còn ngươi thì không biết, điều ta làm là chân chánh, điều ngươi làm không chân chánh, ngươi đặt điều trước ra sau để điều sau ra trước, đảo điên lẫn lộn, không có phép tắc, điều ta làm thì tốt đẹp, điều ngươi nói là sai lầm, vậy ngươi có điều gì nghi ngờ thì nên hỏi ta.” Bạch Đại đức A-nan! Bấy giờ, những người trong nước Ba-ba vốn là tín đồ của Ni-kiền-tử, khi nghe thấy những sự việc như vậy, họ liền sanh tâm chán nản.
Tôn giả A-nan liền nói với Sa-di Châu-na rằng:
Chúng ta cần phải trình việc này lên đức Thế Tôn. Vậy thầy hãy cùng ta đến chỗ đức Thế Tôn để trình bày. Nếu Thế Tôn có dạy bảo điều gì thì chúng ta nên theo đó mà hành trì.
Nghe A-nan nói xong, Sa-di Châu-na liền cùng đến chỗ đức Phật, cúi lạy sát chân Ngài rồi đứng sang một bên.
Thế rồi, Tôn giả A-nan bạch đức Phật:
Bạch Thế Tôn! Sau khi an cư kiết hạ ở nước Ba-ba, Sa-di Châu-na đắp y, ôm bát lên đường về đây, đảnh lễ sát chân con và thưa rằng: “Ở nước Ba-ba có vị giáo chủ Ni-kiền-tử mạng chung chưa bao lâu mà hàng đệ tử của ông ta đã chia thành hai phái. Họ tranh cãi, mắng chửi nhau không còn phân biệt trên dưới, đồng thời luôn tìm kiếm những khuyết điểm của nhau, ganh đua kiến thức với nhau. Họ bảo: ‘Chỉ có ta biết được điều này, còn ngươi thì không biết, điều ta làm là chân chánh, điều ngươi làm không chân chánh, ngươi đặt điều trước ra sau để điều sau ra trước, đảo điên lẫn lộn, không có phép tắc, điều ta làm thì tốt đẹp, điều ngươi nói là sai lầm, vậy ngươi có điều gì nghi ngờ thì nên hỏi ta.’ Bấy giờ, những người trong nước Ba-ba vốn là tín đồ của Ni-kiền-tử, khi nghe thấy những sự việc như vậy, họ liền sanh tâm chán nản.” [0073a07] Bấy giờ, đức Phật bảo Sa-di Châu-na:
Đúng vậy, Châu-na! Những điều phi pháp đó không đáng nghe. Đó là những điều được nói ra không phải do một vị Chánh Đẳng Chánh Giác.[7] Giống như một tòa tháp cũ kỹ thì thật khó sửa sang; những người ấy tuy có thầy nhưng đều chấp giữ tà kiến, tuy có pháp nhưng pháp đó không chân chánh, không đáng lãnh thọ vì pháp đó không có khả năng dẫn đến xuất ly. Đó là những điều được nói ra không phải do một vị Chánh Đẳng Chánh Giác. Giống như một tòa tháp cũ kỹ thì thật khó sửa sang. Trong số các đệ tử của vị ấy có người không thuận theo pháp đó, nên từ bỏ tà kiến mà thực hành chánh kiến.
Này Châu-na, nếu có người đến bảo với các đệ tử ấy rằng: “Này chư Hiền, pháp của thầy các ông là đúng, nên theo đó mà thực hành, sao lại xả bỏ?” Nếu đệ tử kia tin lời thì cả hai kẻ đều lầm lạc, thọ tội vô cùng. Vì sao như vậy? Vì những người ấy tuy có pháp nhưng không chân chánh.
Này Châu-na! Nếu vị thầy không tà kiến thì pháp đó chân chánh. Nếu khéo léo lắng nghe thì có thể được xuất ly, là lời dạy của bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Ví như tòa tháp còn mới thì việc tô vẽ rất dễ dàng. Tuy nhiên, nếu trong pháp ấy mà các đệ tử không siêng tu tập thì không thể thành tựu, từ bỏ con đường chân chánh[8] rồi rơi vào tà kiến. Nếu có người đến nói với các đệ tử đó rằng: “Này chư Hiền, pháp của thầy các ông là chân chánh, nên theo đó mà thực hành, sao lại xả bỏ mà theo tà kiến?” Nếu những đệ tử kia tin theo thì cả hai đều thấy chân chánh, hưởng vô lượng phước. Vì sao như vậy? Vì pháp đó chân chánh.
Phật bảo Châu-na:
Những người kia tuy có thầy nhưng ôm giữ tà kiến, tuy có pháp nhưng rốt cuộc không chân chánh, không đáng để lãnh thọ, không thể [dẫn đến] xuất ly, vì những điều được nói ra không phải do một vị Chánh Đẳng Chánh Giác, ví như tòa tháp đổ nát thì không thể tô vẽ. Cũng vậy, nếu các đệ tử kia thực hành theo pháp, thuận theo giáo pháp,[9] theo hạnh của thầy, [thì] khởi các tà kiến. Này Châu-na! Nếu có người đến nói với các đệ tử kia rằng: “Pháp của thầy các ông là chân chánh, điều ông làm là đúng. Nay các ông thực sự nỗ lực chịu khổ tu tập như vậy thì có thể ở trong đời này sẽ thành tựu đạo quả.” Nếu các đệ tử tin theo thì cả hai bên đều lầm lỗi, thọ tội vô cùng. Vì sao như vậy? Vì pháp đó không chân chánh.
Này Châu-na! Nếu vị thầy không có tà kiến, pháp của vị ấy chân chánh, có thể khéo léo nghe theo, có khả năng [dẫn đến] xuất ly, là lời dạy của bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Ví như tòa tháp mới xây thì dễ dàng tô vẽ, nay các đệ tử của vị ấy lại có thể thực hành theo pháp, thuận theo giáo pháp, tuần tự tu tập mà phát sanh chánh kiến. Như vậy, nếu có ai đến bảo với những đệ tử đó rằng: “Pháp của thầy các ông là chân chánh, việc làm của các ông là đúng. Nay các ông thực sự nỗ lực chịu khổ tu hành như vậy thì có thể ngay trong đời này mà thành tựu đạo quả.” Nếu các đệ tử kia tin theo thì cả hai đều thành tựu chánh kiến, được vô lượng phước. Vì sao như vậy? Vì pháp đó là chân chánh.
[0073b09] Này Châu-na, có trường hợp vị Đạo sư xuất hiện ở thế gian khiến cho đệ tử lo âu và cũng có trường hợp vị Đạo sư xuất hiện ở thế gian khiến cho đệ tử không lo âu.
Này Châu-na! Thế nào là vị Đạo sư xuất hiện ở thế gian khiến cho đệ tử lo âu?
Này Châu-na! Khi vị Đạo sư mới xuất hiện ở thế gian, thành đạo chưa bao lâu, tuy pháp của vị ấy thanh tịnh, đầy đủ Phạm hạnh, nghĩa lý chân thật vi diệu nhưng chưa được truyền bá rộng rãi thì vị Đạo sư lại diệt độ quá sớm, khiến cho các đệ tử chưa kịp nếm được pháp vị, họ sẽ buồn bã và nói: “Đạo sư mới xuất hiện ở thế gian, thành đạo chưa bao lâu, tuy pháp của Ngài đầy đủ, Phạm hạnh thanh tịnh, nghĩa lý chân thật vi diệu nhưng chưa được truyền bá rộng rãi thì Đạo sư lại diệt độ quá sớm, khiến cho đệ tử chúng con chưa kịp nếm được pháp vị.” Đó là trường hợp vị Đạo sư xuất hiện ở thế gian khiến cho hàng đệ tử lo âu.
Thế nào là vị Đạo sư xuất hiện ở thế gian khiến cho hàng đệ tử không lo âu?
Có Đạo sư mới xuất hiện ở thế gian, pháp của vị ấy thanh tịnh, đầy đủ Phạm hạnh, nghĩa lý chân thật vi diệu và được truyền bá rộng rãi rồi sau đó vị Đạo sư mới diệt độ, khiến cho các đệ tử đều nếm được pháp vị, nên sẽ không lo buồn và nói: “Đạo sư mới xuất hiện tại thế gian, thành đạo chưa bao lâu nhưng pháp của Ngài đầy đủ, Phạm hạnh thanh tịnh, nghĩa lý chân thật vi diệu và được truyền bá rộng rãi rồi sau đó Đạo sư mới diệt độ, khiến cho các đệ tử đều nếm được pháp vị.” Như vậy, này Châu-na! Đó là trường hợp vị Đạo sư xuất hiện ở thế gian khiến đệ tử không lo âu.
Phật dạy Châu-na:
– Như vậy, Phạm hạnh được thành tựu với những chi phần nào?[10]
Này Châu-na! Bậc Đạo sư xuất hiện ở thế gian, xuất gia chưa lâu, danh tiếng chưa vang xa, đó gọi là chi phần Phạm hạnh chưa đầy đủ. Châu-na! Nếu bậc Đạo sư xuất hiện ở thế gian, xuất gia đã lâu, danh tiếng đã vang xa, đó gọi là chi phần Phạm hạnh đầy đủ viên mãn.
Này Châu-na! Bậc Đạo sư xuất hiện ở thế gian, xuất gia đã lâu, danh tiếng đã vang xa nhưng hàng đệ tử chưa nhận được sự dạy dỗ, Phạm hạnh chưa đầy đủ, chưa đến chỗ an ổn, chưa đạt được mục đích của mình, chưa có thể lãnh thọ giáo pháp và chưa tuyên thuyết khắp nơi. Nếu có tà luận khởi lên thì không thể đúng như pháp mà dập tắt chúng, chưa chứng được thần thông biến hóa, đó gọi là chi phần Phạm hạnh chưa đầy đủ viên mãn.
Này Châu-na! Bậc Đạo sư xuất hiện ở thế gian, xuất gia đã lâu, danh tiếng đã vang xa, các đệ tử đã tiếp nhận sự dạy dỗ, Phạm hạnh đầy đủ, đã đến nơi an ổn, đã đạt được mục đích của mình, có thể lãnh thọ giáo pháp và tuyên thuyết khắp nơi. Nếu có tà luận khởi lên thì đúng như pháp mà dập tắt chúng, đã chứng được đầy đủ thần thông biến hóa, đó gọi là chi phần Phạm hạnh đầy đủ viên mãn.
[0073c06] Này Châu-na! Bậc Đạo sư xuất hiện ở thế gian, xuất gia đã lâu, danh tiếng đã vang xa nhưng các Tỳ-kheo-ni chưa tiếp nhận sự dạy dỗ, chưa đến chỗ an ổn, chưa đạt được mục đích của mình, chưa có thể lãnh thọ giáo pháp và chưa tuyên thuyết khắp nơi. Nếu có tà luận khởi lên thì không thể đúng như pháp mà dập tắt chúng, chưa chứng được thần thông biến hóa. Đó gọi là chi phần Phạm hạnh chưa đầy đủ viên mãn.
Này Châu-na! Bậc Đạo sư xuất hiện ở thế gian, xuất gia đã lâu, danh tiếng đã vang xa, các Tỳ-kheo-ni đã tiếp nhận sự dạy dỗ, Phạm hạnh đã đầy đủ, đã đến chỗ an ổn, đã đạt được mục đích của mình, có thể lãnh thọ giáo pháp và tuyên thuyết khắp nơi. Nếu có tà luận khởi lên thì đúng như pháp mà dập tắt chúng, đã chứng được đầy đủ thần thông biến hóa, đó gọi là chi phần Phạm hạnh đầy đủ viên mãn.
Này Châu-na! Nếu các vị ưu-bà-tắc và ưu-bà-di tu Phạm hạnh đầy đủ,... cho đến chứng được đầy đủ thần thông biến hóa, cũng giống như vậy.
Này Châu-na! Nếu bậc Đạo sư không còn ở đời, không còn danh tiếng và lợi dưỡng tổn giảm, đó gọi là chi phần Phạm hạnh chưa đầy đủ viên mãn. Nếu bậc Đạo sư còn ở đời, danh tiếng và lợi dưỡng thảy đều đầy đủ, không bị tổn giảm. Đó gọi là chi phần Phạm hạnh đầy đủ viên mãn.
Nếu bậc Đạo sư còn ở đời, danh tiếng và lợi dưỡng thảy đều đầy đủ nhưng danh tiếng và lợi dưỡng của hàng Tỳ-kheo không được đầy đủ, đó gọi là chi phần Phạm hạnh chưa đầy đủ viên mãn. Nếu bậc Đạo sư ở đời, danh tiếng và lợi dưỡng đầy đủ không bị tổn giảm, chúng Tỳ-kheo cũng đầy đủ như vậy, đó gọi là chi phần Phạm hạnh đầy đủ viên mãn. Chúng Tỳ-kheo-ni cũng giống như vậy.
Này Châu-na! Ta xuất gia đã lâu, danh tiếng đã vang xa, các Tỳ-kheo của Ta đã tiếp nhận sự dạy dỗ, đã đến nơi an ổn, đã đạt được mục đích của mình, có thể lãnh thọ giáo pháp và tuyên thuyết khắp nơi, nếu có tà luận khởi lên thì có thể đúng như pháp mà dập tắt chúng, đã thành tựu đầy đủ thần thông biến hóa; đối với các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc và ưu-bà-di cũng đều như vậy.
Này Châu-na! Ta đem Phạm hạnh truyền bá khắp nơi,... cho đến chứng được thần thông biến hóa đầy đủ.
Này Châu-na! Trong tất cả Đạo sư xuất hiện ở đời, không thấy có vị nào đạt được danh tiếng và lợi dưỡng như Ta, đức Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác.
Này Châu-na! Đối với tất cả đồ chúng hiện trong thế gian này, không thấy có đồ chúng nào có danh tiếng và lợi dưỡng như đồ chúng của Ta.
Này Châu-na! Nếu người nào muốn nói lời chân chánh thì phải nói rằng: “Thấy mà không thấy.”[11] Thế nào gọi là thấy mà không thấy? Nghĩa là tất cả Phạm hạnh thanh tịnh đầy đủ đã được tuyên bày và truyền bá rộng rãi nên gọi là thấy mà không thấy.
[0074a05] Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
Giữa đại chúng, ông Uất-đầu-lam-tử[12] đã nói như vầy: “[Có] thấy mà không thấy. Thế nào gọi là thấy mà không thấy? Như có thể thấy con dao nhưng không thể thấy được tánh sắc bén [của con dao].” Này các Tỳ-kheo, ông Uấtđầu-lam-tử khi đưa ra những lời ví dụ đó chỉ để dẫn dắt hàng phàm phu kém hiểu biết mà thôi!
Như vậy, này Châu-na! Nếu người muốn nói lời chân chánh[13] thì phải nói rằng: “Thấy mà không thấy.” Thế nào gọi là thấy mà không thấy? Thầy nên nói một cách chân chánh như sau: “Tất cả Phạm hạnh thanh tịnh đầy đủ đã được giảng bày và truyền bá rộng rãi nên gọi là thấy mà không thấy.”
Này Châu-na! Các pháp tuần tự tuy không đầy đủ nhưng có Phạm hạnh nên có thể chứng đắc, các pháp tuần tự đầy đủ nhưng phi Phạm hạnh nên không thể chứng đắc.[14] Này Châu-na! Phạm hạnh là trọng yếu trong các pháp, cũng như đề-hồ là thượng vị trong các tô lạc.
Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
Ta tự thân tác chứng đối với các pháp. Đó là: Bốn niệm xứ, bốn thần túc, bốn chánh cần,[15] bốn thiền, năm căn, năm lực, bảy giác chi, Thánh đạo tám chi. Vậy nên các thầy hãy hòa hợp, chớ có tranh cãi nhau, đã cùng học một thầy thì phải hòa hợp như sữa hòa với nước. Ở trong Chánh pháp Như Lai, hãy tự thắp sáng cho mình thì mau chóng được an lạc.
Khi được an lạc rồi, nếu có vị Tỳ-kheo đang thuyết pháp mà có người nói rằng: “Những điều vị kia nói văn cú không chính xác, nghĩa lý không đúng Chánh pháp.” Nghe như vậy rồi, Tỳ-kheo ấy không khẳng định đúng cũng không thừa nhận sai mà hãy nói với Tỳ-kheo kia rằng: “Chư Hiền! Thế nào? Văn cú của tôi như vậy, văn cú của thầy như vậy, nghĩa lý của tôi như vậy, nghĩa lý của thầy như vậy, vậy bên nào hơn, bên nào kém?” Nếu Tỳ-kheo kia đáp rằng: “Văn cú của tôi như vầy, nghĩa lý của tôi như vầy, văn cú của thầy như vậy, nghĩa lý của thầy như vậy, văn cú của thầy hơn, nghĩa lý của thầy cũng hơn.” Nếu Tỳ-kheo kia nói như vậy nhưng không khẳng định đúng cũng không thừa nhận sai, nên can gián Tỳ-kheo ấy, nếu trách mắng thì dừng lại rồi cùng nhau suy ngẫm. Cách xử trí như vậy sẽ đưa đến sự hòa hợp và không còn tranh cãi, vì cùng học một thầy như sữa hòa với nước. Ở trong Chánh pháp Như Lai, hãy tự mình thắp sáng thì mau chóng được an lạc.
Khi đã được an lạc rồi, nếu như có Tỳ-kheo đang thuyết pháp mà trong chúng có Tỳ-kheo nói rằng: “Những điều thầy nói văn cú không đúng nhưng ý nghĩa đúng.” Tỳ-kheo nghe như vậy, không khẳng định đúng cũng không thừa nhận sai mà hãy nói với Tỳ-kheo ấy rằng: “Thưa thầy, điều đó thế nào? Văn cú của tôi như vậy, văn cú của thầy như vậy, thế thì ai đúng, ai sai?” Nếu Tỳ-kheo ấy đáp: “Văn cú của tôi như vậy, văn cú của thầy như vậy, văn cú của thầy quả thật tối thắng.” Nếu Tỳ-kheo ấy nói như vậy thì cũng không nên khẳng định đúng cũng không thừa nhận sai mà nên can gián Tỳ-kheo ấy, nếu còn quở trách thì hãy dừng lại rồi cùng nhau suy ngẫm, như vậy sẽ cùng nhau hòa hợp và không còn tranh cãi nữa, vì cùng học một thầy như sữa hòa với nước. Ở trong Chánh pháp Như Lai, hãy tự mình thắp sáng thì mau chóng được an lạc.
[0074b07] Khi đã được an lạc rồi, nếu như có Tỳ-kheo đang thuyết pháp mà trong chúng có Tỳ-kheo nói rằng: “Những điều thầy nói văn cú đúng nhưng nghĩa thì không đúng.” Tỳ-kheo nghe như vậy, không khẳng định đúng cũng không thừa nhận sai mà hãy nói với Tỳ-kheo ấy rằng: “Thưa thầy, điều đó thế nào? Văn cú của tôi như vậy, văn cú của thầy như vậy, thế thì ai đúng, ai sai?” Nếu người ấy đáp: “Nghĩa lý của tôi như vậy, nghĩa lý của thầy như vậy thì nghĩa lý của thầy là tối thượng.” Nếu Tỳ-kheo kia nói như vậy thì cũng không nên khẳng định đúng cũng không thừa nhận sai, nên can gián Tỳ-kheo ấy, nếu còn quở trách thì hãy dừng lại rồi cùng nhau suy ngẫm, như vậy sẽ cùng nhau hòa hợp, không còn tranh cãi nữa, vì cùng học một thầy như sữa hòa với nước. Ở trong Chánh pháp Như Lai, hãy tự mình thắp sáng thì mau chóng được an lạc.
Khi đã được an lạc rồi, nếu gặp vị Tỳ-kheo đang thuyết pháp mà trong chúng có Tỳ-kheo nói rằng: “Những điều thầy nói văn cú đúng, nghĩa cũng đúng.” Tỳ-kheo nghe như vậy rồi, không được nói điều đó là sai mà nên khen ngợi Tỳ-kheo ấy rằng: “Thầy nói đúng lắm! Thầy nói đúng lắm!”
Do vậy, này Tỳ-kheo! Đối với mười hai thể loại kinh phải tự mình xác chứng rồi đem truyền bá rộng rãi ở đời. Mười hai thể loại kinh là: Quán kinh, Kỳ dạ kinh, Thọ ký kinh, Kệ kinh, Pháp cú kinh, Tương ưng kinh, Bổn duyên kinh,
Thiên bổn kinh, Quảng kinh, Vị tằng hữu kinh, Thí dụ kinh và Đại giáo kinh.[16]Hãy khéo léo thọ trì, đối chiếu xem xét rồi truyền bá rộng rãi!
Này các Tỳ-kheo! Về y phục, Ta cho phép được sử dụng những y phục như y phấn-tảo,[17] y do trưởng giả cúng dường và y thô xấu. Các loại y này chỉ vừa đủ để phòng ngừa nóng, lạnh, muỗi mòng và che đậy thân thể.[18]
Này các Tỳ-kheo! Về ăn uống, Ta cho phép được thọ dụng những thức ăn do khất thực hoặc do cư sĩ cúng dường. Vật thực chỉ vừa đủ nuôi thân. Nếu thân khổ não, bệnh tật bức bách thì e rằng sẽ chết. Thế nên, Ta cho phép thọ dụng thức ăn nhưng phải biết vừa đủ.
Này các Tỳ-kheo! Về chỗ ở, Ta cho phép được ở những nơi như dưới tán cây, hoặc nơi đất trống, hoặc ở phòng nhà, hoặc ở trên lầu, hoặc ở trong hang động, hoặc ở các trụ xứ khác. Những nơi này chỉ vừa đủ để che thân và phòng ngừa lạnh, nóng, gió, mưa, ngừa muỗi mòng, là những nơi thanh vắng có thể tịnh cư.
Này các Tỳ-kheo! Về thuốc thang, Ta cho phép được sử dụng những loại thuốc như trần khí dược,[19] bơ, dầu, mật và đường phèn. Những loại thuốc này chỉ sử dụng vừa đủ khi đau bệnh, nếu thân khổ não, các thứ bệnh tật bức bách thì e rằng dẫn đến cái chết. Cho nên, Ta cho phép sử dụng các loại thuốc này.
[0074c05] Phật bảo Châu-na:
– Hoặc có ngoại đạo Phạm chí đến nói như vầy: “Sa-môn Thích tử chỉ biết hưởng các niềm vui.” Nếu họ nói như vậy thì nên đáp: “Các ông chớ cho rằng Sa-môn Thích tử chỉ biết hưởng các niềm vui. Vì sao như vậy? Vì có những niềm vui bị Như Lai quở trách và cũng có những niềm vui được Như Lai ngợi khen.” Nếu ngoại đạo Phạm chí lại hỏi rằng: “Thọ hưởng những niềm vui nào mà bị đức Cù-đàm quở trách?” Nếu như họ hỏi như vậy thì các thầy hãy trả lời: “Năm loại dục[20][21] này rất đáng yêu, đáng thích, khiến cho con người phải say đắm. Năm loại dục đó là gì? Mắt thấy sắc, cảm thọ đáng yêu, đáng thích, làm say đắm lòng người; tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, cảm thọ đáng yêu, đáng thích, khiến say đắm lòng người. Này chư Hiền, bởi năm loại dục này làm duyên sanh ra hỷ lạc[22] nên Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác quở trách.
Cũng như có người cố giết hại chúng sanh và tự xem đó là niềm vui thì trường hợp này sẽ bị Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác quở trách. Lại cũng có người lén lút trộm cướp và tự xem đó là niềm vui thì trường hợp này cũng bị đức Như Lai quở trách. Lại cũng có người vi phạm Phạm hạnh và tự xem đó là niềm vui thì trường hợp này cũng bị đức Như Lai quở trách. Lại cũng có người cố ý nói dối và tự xem đó là niềm vui thì trường hợp này cũng bị đức Như Lai quở trách. Lại cũng có người buông lung phóng túng và xem đó là niềm vui thì trường hợp này cũng bị Như Lai quở trách. Lại cũng có người thực hành khổ hạnh bề ngoài, chẳng phải là pháp chánh hạnh[23] Như Lai đã dạy và tự xem đó là niềm vui thì trường hợp này cũng bị Như Lai quở trách.
Này các Tỳ-kheo, năm loại dục rất đáng chê trách, khiến chúng sanh đắm nhiễm. Những gì là năm? Sắc được thấy bởi mắt, đáng yêu, đáng thích, là thứ mà con người đắm nhiễm; tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, đáng yêu, đáng thích, là những thứ khiến chúng sanh đắm nhiễm. Đây là những niềm vui dục lạc và Sa-môn Thích tử không có những niềm vui dục lạc này.
Ví như có người cố [ý] giết hại chúng sanh và tự xem đó là niềm vui thì Samôn Thích tử không có niềm vui như vậy. Lại cũng có người trộm cướp và tự xem đó là niềm vui thì Sa-môn Thích tử không có niềm vui như vậy. Lại cũng có người vi phạm Phạm hạnh và tự xem đó là niềm vui thì Sa-môn Thích tử không có những niềm vui như vậy. Lại cũng có người [cố ý] nói lời dối trá và tự xem đó là niềm vui thì Sa-môn Thích tử không có những niềm vui như vậy. Lại cũng có người buông lung phóng túng và tự xem đó là niềm vui thì Sa-môn Thích tử không có những niềm vui như vậy. Lại cũng có người thực hành khổ hạnh bề ngoài và tự xem đó là niềm vui thì Sa-môn Thích tử không có những niềm vui như vậy.
[0075a05] Nếu ngoại đạo Phạm chí hỏi như vầy: “Niềm vui nào được Samôn Cù-đàm ca ngợi?”
Này các Tỳ-kheo! Nếu ngoại đạo hỏi như vậy thì nên trả lời thế này: “Này chư Hiền! Năm dục rất đáng yêu, đáng thích, khiến cho con người tham đắm. Đó là mắt thấy sắc,... cho đến thân nhận biết xúc chạm, đáng yêu, đáng thích, khiến con người tham đắm. Này chư Hiền, những niềm vui phát sanh do duyên với năm dục thì hãy mau chóng diệt trừ. Như có người lấy sự cố ý giết hại chúng sanh để làm niềm vui thì niềm vui như vậy phải mau chóng diệt trừ. Cũng như có người lấy sự trộm cướp để làm niềm vui thì niềm vui như vậy phải mau chóng diệt trừ. Lại cũng có người lấy sự vi phạm Phạm hạnh để làm niềm vui thì niềm vui như vậy phải mau chóng diệt trừ. Lại cũng có người lấy sự cố ý nói dối để làm niềm vui thì niềm vui như vậy phải mau chóng diệt trừ. Lại cũng có người lấy sự [buông lung] phóng túng để làm niềm vui thì niềm vui như vậy phải mau chóng diệt trừ. Lại cũng có người lấy sự thực hành khổ hạnh bề ngoài để làm niềm vui thì niềm vui như vậy phải mau chóng diệt trừ.
Cũng như có người lìa bỏ dục và các pháp bất thiện, có giác, có quán, cùng với hỷ, lạc được sanh ra do sự viễn ly, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất, niềm vui như vậy được chư Phật ngợi khen.
Lại cũng có người lìa bỏ giác và quán, trong tâm bình đẳng thanh tịnh, có hỷ, lạc do định sanh, chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, không giác không quán, niềm vui như vậy được chư Phật ngợi khen.
Lại cũng có người lìa bỏ hỷ, an trú xả, với chánh niệm và tỉnh giác, thân cảm lạc thọ, chứng đạt và an trú Thiền thứ ba, điều mà bậc Thánh gọi là lạc trú trong xả và có chánh niệm, niềm vui như vậy được chư Phật ngợi khen.
Lại cũng có người khi đã diệt trừ ưu và hỷ trước đó nên buông bỏ cả khổ và vui, chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, một trạng thái không khổ không vui, gọi là xả niệm thanh tịnh, niềm vui như vậy được chư Phật ngợi khen.
Này Châu-na! Nếu có ngoại đạo Phạm chí lại hỏi: “Trong niềm an lạc ấy, các ông mong cầu kết quả gì, công đức gì?” Thì hãy trả lời với họ: “Niềm an lạc này sẽ gặt hái được bảy phần công đức. Những gì là bảy? Một là, chứng đắc Thánh quả ngay trong đời hiện tại; hai là, giả sử chưa chứng thì ngay khi qua đời sẽ chứng đắc Thánh đạo; ba là, nếu trong khi qua đời mà cũng chưa chứng thì sẽ đoạn trừ năm hạ phần kiết sử,[24] sẽ chứng được Trung gian Bát-niết-bàn; bốn là, chứng Sanh Bát-niết-bàn; năm là, chứng Hành Bát-niết-bàn; sáu là, chứng Vô hành Bát-niết-bàn; bảy là, chứng Thượng lưu[25] A-ca-ni-trá[26] Bát-niết-bàn.
Này các Hiền giả! Niềm an lạc này có bảy công đức như vậy.
Này chư Hiền! Nếu có Tỳ-kheo còn ở nơi địa vị Hữu học mà muốn hướng thượng, mong đến chỗ an ổn nhưng chưa diệt trừ năm triền cái. Những gì là năm? Đó là tham dục, sân hận, thụy miên, trạo cử và nghi ngờ. Tỳ-kheo hữu học kia muốn cầu hướng thượng, tìm nơi an ổn nhưng chưa diệt trừ năm triền cái, không nỗ lực tu tập nơi bốn pháp niệm xứ và bảy pháp giác chi mà muốn thành tựu pháp thượng nhân, tăng thượng trí tuệ của bậc Hiền thánh, muốn biết muốn thấy thì không có trường hợp này.
Này chư Hiền! Nếu có Tỳ-kheo Hữu học muốn cầu hướng thượng, tìm chỗ an ổn, có thể diệt trừ năm triền cái là tham dục, sân hận, thụy miên, trạo cử và nghi ngờ thì phải nỗ lực, tinh cần tu tập bốn pháp niệm xứ và như thật tu hành bảy giác chi; nếu vị ấy muốn được pháp thượng nhân, tăng thượng trí tuệ Hiền thánh, muốn được biết, được thấy thì trường hợp này có thể xảy ra.
Này chư Hiền! Nếu có Tỳ-kheo là bậc A-la-hán đã sạch phiền não, việc cần làm đã làm xong, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích của mình, dứt hết các phiền não kiết sử, thành tựu chánh trí giải thoát thì vị ấy không làm chín việc. Những gì là chín? Một là không giết hại; hai là không trộm cắp; ba là không dâm dục; bốn là không nói dối; năm là không bỏ đạo; sáu là không bị dục chi phối; bảy là không bị sân chi phối; tám là không bị sợ hãi chi phối; và chín là không bị nghi ngờ do dự chi phối. Này chư Hiền! Đó là chín việc mà bậc A-la-hán đã đoạn sạch phiền não, đã làm xong điều cần làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích của mình, dứt sạch các phiền não kiết sử, đạt tới chánh trí giải thoát, xa lìa chín việc.
[0075b21] Hoặc có ngoại đạo Phạm chí nói: “Sa-môn Thích tử có pháp bất trụ”[27] thì nên trả lời với họ rằng: “Chư Hiền! Chớ nói rằng Sa-môn Thích tử có pháp bất trụ. Vì sao như vậy? Vì Sa-môn Thích tử có pháp thường trụ, không thể lay chuyển. Ví như cổng tường thành vững chắc không xê dịch, Sa-môn Thích tử cũng lại như vậy, pháp của Sa-môn Thích tử thường trụ, không thể lay chuyển.”
Hoặc có ngoại đạo Phạm chí nói như vầy: “Sa-môn Cù-đàm biết hết mọi việc trong đời quá khứ nhưng không biết được việc trong đời vị lai.” Tỳ-kheo kia và Phạm chí ngoại đạo ấy, với trí tuệ khác nhau, trí quán sát cũng khác nhau cho nên nói ra những điều sai quấy. Đối với những việc thuộc về quá khứ, Như Lai thấy biết tất cả một cách rõ ràng như thấy ở trước mắt. Đối với những việc trong đời vị lai, Như Lai phát sanh Đạo trí.[28] Việc trong đời quá khứ vốn hư dối không thật, không đáng vui thích, không có lợi ích gì nên Phật không ghi nhận. Hoặc việc đời quá khứ tuy có thật nhưng không đáng vui thích, cũng không có lợi ích thì Phật cũng không ghi nhận. Nếu những việc đời quá khứ có thật, đáng vui thích nhưng không có lợi ích gì thì Phật cũng không ghi nhận. Hoặc việc thuộc về quá khứ có thật, đáng vui thích, có được lợi ích, Như Lai biết hết, sau đó mới ghi nhận. Việc đời vị lai, hiện tại cũng như vậy.
Đối với quá khứ, vị lai và hiện tại, Như Lai chỉ nói đúng thời, nói đúng sự thật, nói có nghĩa, nói có lợi ích, nói đúng pháp, nói đúng luật, không nói lời sai quấy.
Từ đêm đầu tiên thành Vô thượng Chánh Giác cho đến đêm cuối cùng, trong khoảng thời gian đó, đức Phật có nói điều gì thì thảy đều như thật, cho nên gọi là Như Lai. Lại nữa, Như Lai nói đúng với thực tại[29] và thực tại đúng như lời Như Lai nói, cho nên gọi là Như Lai. Do những ý nghĩa gì mà gọi là Đẳng Chánh Giác? Những gì mà Phật thấy, biết, diệt tận và giác ngộ thì Phật đều đã thấy, biết và giác ngộ hoàn toàn, nên gọi là Đẳng Chánh Giác.
[0075c12] Hoặc có ngoại đạo Phạm chí lại nói: “Thế giới là thường còn, chỉ có điều này là sự thật, ngoài ra đều hư dối.” Hoặc bảo: “Thế giới là vô thường, chỉ có điều này là sự thật, ngoài ra đều hư dối.” Lại có người nói: “Thế giới có lúc thường có lúc vô thường, chỉ có điều này là sự thật, ngoài ra đều hư dối.” Hoặc có người nói: “Thế giới này chẳng phải thường chẳng phải vô thường, chỉ có điều này là sự thật, ngoài ra đều hư dối.” Hoặc nói: “Thế giới này có giới hạn, chỉ có điều này là sự thật, ngoài ra đều hư dối.” Hoặc có người nói: “Thế giới này là không có giới hạn, chỉ có điều này mới là sự thật, ngoài ra đều hư dối.” Hoặc có người cho rằng: “Thế giới này vừa có giới hạn vừa không có giới hạn, chỉ có điều này mới là sự thật, ngoài ra đều hư dối.” Hoặc có người cho rằng: “Thế giới này chẳng phải có giới hạn, chẳng phải không có giới hạn, chỉ có điều này mới là sự thật, ngoài ra đều hư dối.”
Hoặc có người chấp: “Mạng[30] tức là thân, chỉ có điều này là sự thật, ngoài ra đều hư dối.” Hoặc có người nói: “Chẳng phải mạng, chẳng phải thân, chỉ có điều này là sự thật, ngoài ra đều hư dối.” Hoặc có người nói: “Mạng khác, thân khác, chỉ có điều này mới là sự thật, ngoài ra đều là hư dối.” Hoặc có người bảo: “Chẳng phải khác mạng chẳng phải khác thân, chỉ có điều này mới là sự thật, ngoài ra đều hư dối.”
Hoặc có người chấp: “Như Lai tồn tại sau khi chết, điều này là sự thật, ngoài ra đều [là] hư dối.” Hoặc nói: “Như Lai không tồn tại sau khi chết, điều này là sự thật, ngoài ra đều hư dối.” Hoặc nói: “Như Lai vừa tồn tại vừa không tồn tại sau khi chết, điều này là sự thật, ngoài ra đều hư dối.” Hoặc nói: “Như Lai chẳng phải tồn tại, chẳng phải không tồn tại sau khi chết, điều này là sự thật, ngoài ra đều hư dối.”
Những quan điểm như vậy gọi là bổn sanh bổn kiến.[31] Nay Ta ghi nhận cho ngươi rằng: “Thế giới là thường hằng,... cho đến Như Lai không phải tồn tại, cũng không phải không tồn tại sau khi chết. Đây là thật còn ngoài ra đều hư dối.” Thuyết này gọi là bổn kiến bổn sanh, hãy ghi nhớ kỹ.
[0076a01] Lại có thuyết gọi là vị kiến vị sanh,[32] Ta đã ghi nhận. Thế nào gọi là vị kiến vị sanh được Ta ghi nhận?
Sắc là ngã, do tưởng mà tồn tại thường hằng,[33] điều này là sự thật, ngoài ra đều hư dối.
Vô sắc là ngã, do tưởng mà tồn tại thường hằng;
Cả hữu sắc và vô sắc là ngã, do tưởng mà tồn tại thường hằng;
Chẳng phải hữu sắc, chẳng phải vô sắc là ngã, do tưởng mà tồn tại thường hằng.
Ngã hữu biên, ngã vô biên; ngã gồm cả hữu biên và vô biên; ngã chẳng phải hữu biên, chẳng phải vô biên, do tưởng mà tồn tại thường hằng.
Ngã chính là lạc, do tưởng mà tồn tại thường hằng;
Ngã không phải là lạc, do tưởng mà tồn tại thường hằng;
Ngã vừa khổ vừa lạc, do tưởng mà tồn tại thường hằng;
Ngã không khổ không lạc, do tưởng mà tồn tại thường hằng;
Một tưởng là ngã, do tưởng mà tồn tại thường hằng;
Nhiều tưởng là ngã, do tưởng mà tồn tại thường hằng;
Ít tưởng là ngã, do tưởng mà tồn tại thường hằng;
Vô lượng tưởng là ngã, do tưởng mà tồn tại thường hằng.
Những quan điểm này là sự thật, ngoài ra đều là hư dối. Trên đây là những luận thuyết về tà kiến bổn kiến bổn sanh mà Ta đã ghi nhận.
Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn có lập luận như vầy, có thấy biết như vầy: “Thế giới là thường tồn, chỉ có điều này là sự thật, ngoài ra đều là hư dối,... cho đến chấp vô lượng tưởng là ngã, điều này là sự thật, ngoài ra đều [là] hư dối.”
Sa-môn hay Bà-la-môn nào có luận thuyết như vậy, kiến chấp như vậy: “Chỉ có điều này là sự thật, ngoài ra đều [là] hư dối” thì nên hỏi họ rằng: “Có thật ông chủ trương rằng thế giới này là thường tồn, điều này là sự thật, ngoài ra đều [là] hư dối chăng?” Lời nói như vậy, Ta không bao giờ chấp nhận. Vì sao như vậy? Vì trong những kiến chấp đó mỗi thứ đều có kiết sử. Ta theo lý mà suy, trong các Sa-môn, Bà-la-môn đó, không ai bằng Ta, huống hồ muốn hơn Ta? Các tà kiến như vậy chỉ có lời nói suông, không đáng cùng chúng ta bàn luận,... cho đến vô lượng tưởng là ngã cũng như vậy.
Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn nói như vầy: “Thế giới này tự tạo”, hoặc nói: “Thế giới này do cái khác tạo”, hoặc nói: “Thế giới này vừa tự tạo, vừa do cái khác tạo”, hoặc nói: “Thế giới này chẳng phải tự tạo, chẳng phải do cái khác tạo, nó ngẫu nhiên mà có.”
Sa-môn, Bà-la-môn nào cho rằng: “Thế giới này là tự tạo” thì những Samôn, Bà-la-môn ấy đều do nhân duyên là xúc, nếu lìa xúc là nhân mà có thể lập thành thuyết đó thì điều này không thể xảy ra. Vì sao như vậy? Vì do sáu nhập nương tựa nơi thân mà sanh ra xúc, do xúc mà có thọ, do thọ mà có ái, do ái mà có thủ, do thủ mà có hữu, do hữu mà có sanh, do sanh mà có già-chết-lo-buồnkhổ-não rồi kết thành một khối khổ lớn. Nếu không có sáu nhập thì không có xúc, không có xúc thì không có thọ, không có thọ thì không có ái, không có ái thì không có thủ, không có thủ thì không có hữu, không có hữu nên không có sanh, không sanh thì không có già, chết, lo, buồn, khổ, não rồi kết thành một khối khổ lớn.
Hoặc nói rằng: “Thế giới này do cái khác tạo ra”, hoặc nói rằng: “Thế giới này vừa tự tạo vừa do cái khác tạo”, hoặc nói rằng: “Thế giới này chẳng phải do tự tạo, cũng chẳng phải do cái khác tạo, nó ngẫu nhiên mà có”, cũng lại như vậy, do xúc mà có, nếu không có xúc thì không có.
[0076b05] Phật bảo các Tỳ-kheo:
Nếu muốn diệt trừ các luận thuyết tà ác này thì cần phải tu tập ba hành[34] nơi bốn pháp niệm xứ. Thế nào là Tỳ-kheo muốn diệt trừ những luận thuyết tà ác thì cần phải tu tập ba hành nơi bốn pháp niệm xứ? Này các Tỳ-kheo! Đó là quán thân trong thân, tinh cần không biếng nhác, ghi nhớ không quên, diệt trừ tham ưu ở đời. Quán thân bên ngoài thân, tinh cần không biếng nhác, ghi nhớ không quên, diệt trừ tham ưu ở đời. Quán thân cả bên trong lẫn bên ngoài, tinh cần không biếng nhác, ghi nhớ không quên, diệt trừ tham ưu ở đời. Quán thọ, tâm, pháp cũng như vậy. Đó là muốn diệt trừ tất cả những pháp ác bằng cách tu ba hành nơi bốn pháp niệm xứ.
Có tám giải thoát. Những gì là tám? Dùng sắc quán sắc là giải thoát thứ nhất; bên trong không có sắc tưởng, quán ngoại sắc là giải thoát thứ hai; tịnh giải thoát là giải thoát thứ ba; vượt tất cả sắc tưởng, diệt đối ngại tưởng, trú Không vô biên xứ là giải thoát thứ tư; xả Không vô biên xứ, trú Thức vô biên xứ là giải thoát thứ năm; xả Thức vô biên xứ, trú Vô sở hữu xứ là giải thoát thứ sáu; xả Vô sở hữu xứ, trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ là giải thoát thứ bảy và Diệt tận định là giải thoát thứ tám.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan đang cầm quạt đứng sau quạt hầu Thế Tôn, liền sửa y bày vai phải, quỳ gối phải sát đất rồi chắp tay bạch Phật rằng:
Bạch Thế Tôn, thật kỳ diệu thay! Những pháp này thanh tịnh, vi diệu bậc nhất, nên gọi tên là gì? Và chúng con phải phụng trì như thế nào?
Phật bảo A-nan:
Kinh này gọi là Thanh Tịnh, thầy hãy thanh tịnh phụng trì như vậy!
Lúc ấy, Tôn giả A-nan nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
[1] Nguyên tác: Thanh tịnh kinh 清淨經 (T.01. 0001.17. 0072c12). Tham chiếu: D. 29, Pāsādika Sutta (Kinh Thanh tịnh); A. 9.7 - IV. 369; A. 9.8 - IV. 371.
[2] Miến-kỳ (緬祇, Vedhaññā), một gia đình thuộc dòng họ Sākya.
[3] Ca-duy-la-vệ (迦維羅衛, Kapilavatthu) còn gọi Ca-tỳ-la-vệ (迦毗羅衛), Ca-tỳ-la (迦毗羅).
[4] Châu-na (周那, Cunda) là vị Sa-di học trò của Tôn giả A-nan. Không nên nhầm lẫn với cư sĩ Cunda, người cúng dường đức Phật bữa cơm cuối cùng.
[5] Ba-ba (波波, Pāvā), thủ phủ của bộ tộc Mallā.
[6] Nguyên tác: Ni-kiền-tử (尼乾子), gọi đầy đủ là Nigaṇṭha Nātaputta, do vị này là giáo chủ của giáo phái Ni-kiền-tử nên người dịch đã bổ sung hai chữ “giáo chủ” để rõ nghĩa.
[7] Nguyên tác: Tam-da-tam Phật (三耶三佛, Sammāsambuddha): Đấng Giác Ngộ Viên Mãn.
[8] Nguyên tác: Bình đẳng (平等, sama). Theo ngữ cảnh, chữ “chân chánh” (真正, sammā) đúng hơn. Rất có thể vì âm đọc của “sama” (bình đẳng) và âm “sammā” (chân chánh) gần giống nhau nên dịch nhầm.
[9] Nguyên tác: Pháp pháp thành tựu (法法成就, dhammānudhammappaṭipannaṃ). Xem chú thích 13, kinh số 3, tr. 581.
[10] Nguyên tác: Thử chi (此支). P. aṅgehi, hợp ngữ này gồm 2 thành tố, aṅga (bộ phận) và ehi (chỉ thị đại từ: này, đây).
[11] Nguyên tác: Kiến bất khả kiến (見不可見, passaṃ na passanti).
[12] Uất-đầu-lam-tử (欝頭藍子, Uddaka Rāmaputta).
[13] Nguyên tác: Chánh thuyết (正說), còn gọi “chánh luận” (正論), là lời nói chính xác, hợp lý.
[14] Nguyên tác: 彼相續法不具足而可得, 不相續法具足而不可得. Tham chiếu: D. 29:
Sabbākārasampannaṃ sabbākāraparipūraṃ anūnamanadhikaṃ svākkhātaṃ kevalaṃ paripūraṃ brahmacariyaṃ suppakāsitan (Hết thảy hành động trở nên thành tựu, không thiếu hụt, không quá dư; lời thiện thuyết chỉ đầy đủ khi hiển bày Phạm hạnh), HT. Thích Minh Châu dịch.
[15] Nguyên tác: Tứ ý đoạn (四意斷).
[16] Thập nhị bộ kinh (十二部經). Xem các chú thích từ 60 đến 71, kinh số 2, tr. 537.
[17] Nguyên tác: Trủng gian y (塚間衣): Y phục người chết bỏ ngoài bãi tha ma.
[18] Nguyên tác: Tứ thể (四體), còn gọi “tứ chi” (四肢), chỉ tổng thể của con người có đủ 4 phần là 2 chi trên và 2 chi dưới (tức là 2 tay, 2 chân).
[19] Các bản Tống, Nguyên, Minh ghi: Trần khí dược (陳棄藥). Trần khí dược, Pāli gọi là pūtimuttabhesajja, được ngài Nghĩa Tịnh dịch âm sang Hán là Bô-đê-mộc-đê-bính-sát-đỗ (晡堤木底鞞殺杜). “Bô-đê” có nghĩa là trần, “mộc-đê” có nghĩa là khí và “bính-sát-đỗ” được dịch là dược (tức là “trần khí dược”). Dược phẩm này chính là phân của con bê và nước tiểu của bò (乃是犢糞牛尿). Theo Nam Hải ký quy nội pháp truyện 南海寄歸內法傳 (T.54. 2125.3. 0225a13), nước tiểu của bê con là một phương thang trị bệnh cổ truyền, hiện đang còn được sử dụng tại Ấn Độ.
[20] Nguyên tác: Ngũ dục công đức (五欲功德), còn gọi “ngũ dục khiết tịnh” (五欲潔淨). Cụm từ này có nguyên tác Pāli: Pañcakāmaguṇa, nghĩa là 5 loại dục. Do vận dụng nghĩa chưa thích hợp nên một số bản kinh chữ Hán đã dịch thành “ngũ dục công đức” (五欲功德). Ở đây, guṇa có nghĩa đầu tiên là “công đức” (功德) nhưng cũng mang nghĩa là “chủng loại” (種類). Đơn cử như diguṇa tương đương với “nhị chủng” (二重). Do vậy, “ngũ dục công đức” (五欲功德) cần được hiểu là 5 loại dục (五種
欲). Ngài An Thế Cao đã sử dụng nghĩa này trong Phật thuyết Lậu phân bố kinh 佛說漏分布經 (T.01.
[21] .1. 0852c23). Tương tự, ngài Cưu-ma-la-thập cũng dùng nghĩa này trong Thiền pháp yếu giải 禪法要解 (T.15. 0616.1. 0286b17).
[22] Hỷ lạc (喜樂), thọ thứ 2 trong 5 thọ. Khi năm thức tiếp xúc cảnh không phân biệt mà vui thích thì gọi là “lạc”, ý thức phân biệt mà vui thích thì gọi đó là “hỷ.”
[23] Chánh hành (正行, sammāpaṭipatti): Hành nghiệp chân chánh.
[24] Ngũ hạ kiết (五下結). Xem chú thích 21, kinh số 2, tr. 524.
[25] Thượng lưu (上流) gọi đủ là Thượng lưu Bát-niết-bàn (上流般涅槃), chỉ cho cảnh giới Niết-bàn của bậc A-na-hàm (阿那含).
[26] A-ca-ni-trá (阿迦尼吒, Akaniṭṭha), tên cõi trời Sắc Cứu Cánh (色究竟天). Đây là tầng trời cao nhất trong 16 tầng trời thuộc Sắc giới (色界). Tuy cao nhất nhưng chúng sanh ở cõi trời này vẫn còn có hình thể cho nên gọi là Sắc Cứu Cánh thiên.
[27] Bất trụ pháp (不住法, aṭṭhita dhamma) là pháp tương tục không gián đoạn.
[28] Nguyên tác: Đạo trí (道智, Maggañāṇa), là một trong 10 trí của Phật. Theo Đại trí độ luận 大智度論 (T.25. 1509.028. 0259b14), chỉ có đức Phật mới thành tựu Đạo trí; hàng A-la-hán, Độc Giác chưa thành tựu trí này.
[29] Nguyên tác: Sự (事), dùng trong nghĩa “thực tiễn” (實踐).
[30] Mạng (命, jīva) chỉ cho linh hồn, một khái niệm khác về tự ngã (自我), gọi là attā.
[31] Bổn sanh bổn kiến (本生本見) còn gọi Bổn kiến bổn sanh (本見本生). Theo D. 21, là những kiến chấp liên hệ đến quá khứ (pubbantasahagatā diṭṭhinissayā).
[32] Vị kiến vị sanh (未見未生). Theo D. 21, đây là những kiến chấp liên hệ đến tương lai (aparantasahagatā diṭṭhinissayā).
[33] Nguyên tác: Hữu chung (有終): Tồn tại thường hằng. Tương đương Pāli: Arogo paraṃ maraṇā, nghĩa đen là khỏe mạnh, kiện khang sau khi chết. A-tỳ-đàm Tỳ-bà-sa luận 阿毘曇毘婆沙論 (T.28. 1546.15. 0108c06) dịch là “tử hậu vô bệnh” (死後無病). Theo Chú giải Kinh Năm và Ba (Pañcattayasuttavaṇṇanā), vô bệnh chính là thường hằng (arogoti nicco).
[34] Nguyên tác: Tam hành (三行), gồm: thân hành (身行, kāyasaṅkhāra), khẩu hành (口行, vacasaṅkhāra), ý hành (意行, manosaṅkhāra).
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.