Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 01 »
Kinh Trường A-Hàm
(長阿含經)
(Bản dịch của Trung tâm Dịch thuật Trí Tịnh)
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật cùng với đại chúng một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳkheo ngụ tại thành A-nậu-di,[2] thuộc nước Minh-ninh.[3]
Bấy giờ, đức Thế Tôn đắp y, ôm bát vào thành A-nậu-di khất thực. Khi ấy, đức Thế Tôn thầm nghĩ: “Nếu đi khất thực vào lúc này thì quá sớm, vậy Ta nên ghé thăm trú xứ[4] của Phạm chí Phòng-già-bà.[5] Tỳ-kheo cần phải đúng giờ mới đi khất thực.”
Thế rồi, đức Thế Tôn liền đến trú xứ của Phạm chí.
Lúc đó, trông thấy Phật từ xa đi đến, Phạm chí Phòng-già-bà liền đứng dậy nghinh tiếp và hỏi:
Quý hóa thay đức Cù-đàm! Đã lâu Ngài không đến! Hôm nay chắc có việc gì nên Ngài mới chiếu cố đến đây? Kính mời đức Cù-đàm hãy ngồi vào chỗ này.
Bấy giờ, đức Thế Tôn liền bước đến chỗ ngồi. Phạm chí Phòng-già-bà liền đến ngồi xuống một bên và bạch với đức Thế Tôn:
Đêm qua có Tỳ-kheo Thiện Túc[6] thuộc dòng Lệ-xa[7] đến chỗ tôi và nói: “Này Đại sư! Tôi không theo Phật tu Phạm hạnh nữa. Vì sao như vậy? Vì Phật đã bỏ rơi tôi.” Thưa Thế Tôn! Cho dù vị Tỳ-kheo ấy có đến gặp tôi và nói lỗi của Cù-đàm nhưng tôi cũng không nghe.
Phật bảo Phạm chí:
Ta biết ông không bao giờ nghe những lời nói của Thiện Túc. Trước đây, khi Ta ở thành Tỳ-xá-ly, bên ao Di Hầu,[8] trong giảng đường Tập Pháp thì Thiện Túc đến chỗ Ta và nói:
“Đức Như Lai đã bỏ rơi con, nên con không theo Như Lai tu Phạm hạnh nữa.” Khi ấy, Ta bảo:
“Vì sao thầy lại nói Như Lai đã bỏ rơi thầy, nên thầy không theo Như Lai để tu Phạm hạnh nữa?” Thiện Túc đáp:
“Vì đức Như Lai không vì con mà hiện thần thông biến hóa.” Lúc đó, Ta nói:
“Ta có mong cầu thầy ở trong pháp của Ta tịnh tu Phạm hạnh, rồi sẽ hiện thần thông biến hóa không? Và thầy có nói với Ta rằng, đức Như Lai phải vì con mà hiện thần thông biến hóa rồi con mới tu Phạm hạnh không?” Thiện Túc đáp:
“Thưa không, bạch đức Thế Tôn!” Ta bảo Thiện Túc:
“Ta cũng không mong cầu thầy ở trong pháp Ta tịnh tu Phạm hạnh, rồi Ta sẽ vì thầy mà hiện thần thông biến hóa. Hơn nữa, thầy cũng không nói là Ta hiện thần thông biến hóa rồi thầy sẽ tu Phạm hạnh. Thế nào, Thiện Túc? Theo ý thầy thì đức Như Lai có khả năng hiện thần thông hay không có khả năng ấy? Pháp của
Ta nói ra, pháp ấy có khả năng dẫn đến xuất ly, vĩnh viễn xa lìa các khổ chăng?[9]” Thiện Túc thưa:
“Bạch Thế Tôn, đúng như vậy! Đức Như Lai có khả năng thể hiện thần thông chứ không phải không có khả năng ấy và pháp của Ngài nói ra, pháp ấy có khả năng dẫn đến xuất ly, vĩnh viễn xa lìa các khổ.”
“Vậy thì, này Thiện Túc! Pháp của Ta nói ra cho người tu Phạm hạnh, có khả năng thể hiện thần thông chứ không phải là không, có khả năng dẫn đến xuất ly, vĩnh viễn xa lìa các khổ chứ không phải là không, vậy ở nơi pháp này, thầy còn mong cầu điều gì nữa?” [0066b12] Thiện Túc thưa:
“Thế Tôn không thể tùy thời dạy cho con. Hơn nữa, về bí thuật của cha con, tuy đức Thế Tôn biết tất cả nhưng lại dè sẻn không dạy cho con.10”
Ta bảo Thiện Túc:
“Ta có từng bảo thầy hãy ở trong pháp Ta tu Phạm hạnh rồi sau đó Ta sẽ dạy bí thuật của cha thầy không? Lại nữa, thầy có từng yêu cầu Ta dạy bí thuật của cha thầy, sau đó thầy mới ở chỗ Ta tịnh tu Phạm hạnh không?” “Thưa không!”
“Này Thiện Túc, nếu trước kia Ta không nói lời ấy và thầy cũng không nói như vậy thì hôm nay vì lý do gì mà thầy lại nói như thế? Thế nào, Thiện Túc! Thầy có cho rằng đức Như Lai có thể nói các bí thuật của cha thầy hay không? Hơn nữa, pháp Ta nói ra có khả năng dẫn đến xuất ly, vĩnh viễn xa lìa các khổ không?”
“Thưa vâng! Đức Như Lai có thể nói các bí thuật của cha con, chứ không phải là không và pháp của Ngài nói ra có khả năng dẫn đến xuất ly, vĩnh viễn xa lìa các khổ, chứ không phải là không.” Ta bảo Thiện Túc:
“Nếu Ta có thể nói các bí thuật của cha thầy, cũng như có thể nói pháp dẫn đến xuất ly, vĩnh viễn xa lìa các khổ, vậy thì ở trong pháp của Ta, thầy còn mong muốn điều gì nữa?”
Ta lại bảo Thiện Túc:
“Trước kia, ở trong lãnh thổ Bạt-xà,[x] thuộc thành Tỳ-xá-ly, thầy đã dùng vô số phương tiện để khen ngợi đức Như Lai, khen ngợi Chánh pháp và khen ngợi chúng Tăng. Ví như có người dùng tám cách khen ngợi để ca ngợi một cái ao trong mát, khiến cho mọi người ưa thích, đó là: Mát lạnh, nhẹ nhàng, mềm mại, trong trẻo, ngọt dịu, không bẩn, uống mãi không chán, uống vào thân thể dễ chịu. Cũng như thế, khi ở trong lãnh thổ Bạt-xà, thuộc thành Tỳ-xá-ly, thầy đã khen ngợi đức Như Lai, khen ngợi Chánh pháp và khen ngợi chúng Tăng khiến cho người ưa thích và tin tưởng. Thiện Túc nên biết! Nay thầy thoái chí thì người đời sẽ nói: ‘Tỳ-kheo Thiện Túc có hiểu biết sâu rộng, lại gần gũi đức Như Lai, cũng là đệ tử của Như Lai mà trái lại không thể trọn đời tịnh tu Phạm hạnh, lại xả giới hoàn tục, ở vào địa vị thấp hèn, hành động xấu xa.’”
Phạm chí nên biết! Khi ấy, Ta đã nói đủ điều nhưng Thiện Túc không chịu nghe, vẫn xả giới hoàn tục.
[0066c04] Này Phạm chí! Một thời, Ta ở trong giảng đường Tập Pháp, bên ao Di Hầu. Bấy giờ, có Ni-kiền-tử tên là Già-la-lâu,[xi] dừng chân tại nơi ấy, mọi người đều tôn kính, danh tiếng đồn xa, hiểu biết sâu rộng, đầy đủ lợi dưỡng.
Khi ấy, Tỳ-kheo Thiện Túc đắp y, mang bát vào thành Tỳ-xá-ly khất thực, dần dần đi đến chỗ của Ni-kiền-tử. Lúc ấy, Thiện Túc hỏi Ni-kiền-tử những nghĩa lý sâu xa nhưng ông ta không đáp được liền sanh tâm tức giận. Thế rồi, Thiện Túc suy nghĩ: “Ta làm người này tức giận, lẽ nào sẽ bị quả báo khổ não lâu dài?”
Phạm chí nên biết! Sau khi khất thực xong, Thiện Túc mang y bát đi đến chỗ Ta, đảnh lễ sát chân và ngồi xuống một bên. Lúc ấy, Thiện Túc không trình bày lại việc đó với Ta và Ta đã nói với Thiện Túc rằng:
“Thầy là kẻ vô trí, sao có thể tự xưng là Sa-môn Thích tử được!”
Thiện Túc hỏi lại Ta:
“Thưa Thế Tôn! Vì sao Ngài gọi con là kẻ vô trí và không xứng đáng nhận mình là Thích tử?”
Ta bảo Thiện Túc:
“Thầy là kẻ vô trí, vì thầy đã đi đến chỗ Ni-kiền-tử để hỏi về ý nghĩa sâu xa nhưng ông ta không đáp được liền sanh tâm tức giận, rồi thầy suy nghĩ: ‘Nay ta làm Ni-kiền-tử này bực tức, lẽ nào sẽ chịu quả báo khổ não lâu dài chăng?’ Có đúng thầy nghĩ như vậy không?” Thiện Túc bạch:
Ông ta đã là La-hán thì cớ gì lại khởi tâm sân hận và ganh tị này?
Lúc đó, Ta đáp:
Thầy là kẻ vô trí! Đã là La-hán thì sao lại có tâm sân hận và ganh tị! Chẳng lẽ Ta là La-hán lại có tâm sân hận và ganh tị ư? Hơn nữa, thầy tự cho vị ấy là La-hán nhưng thật sự ông ta chỉ có bảy pháp khổ hạnh và luôn luôn giữ gìn. Đó là trọn đời không mặc quần áo; trọn đời không uống rượu, ăn thịt, không ăn cơm và các loại bột; trọn đời không trái với Phạm hạnh. Ba cách khổ hạnh này, cộng với trọn đời không rời khỏi bốn ngôi tháp ở thành Tỳ-xá-ly để làm bảy pháp khổ hạnh, đó là tháp Ưu Viên[xii] ở phương Đông, tháp Tượng[xiii] ở phương Nam, tháp Đa Tử[xiv] ở phương Tây và tháp Thất Tụ[xv] ở phương Bắc.
Thế nhưng về sau ông ta lại phạm hết bảy điều khổ hạnh trên và đã mạng chung ở ngoài thành Tỳ-xá-ly. Giống như con chó hoang[xvi] ghẻ lở, ốm yếu rồi nằm chết ở bãi tha ma. Vị Ni-kiền-tử ấy cũng thế, ông ta tự đặt ra những cấm giới rồi lại tự mình vi phạm.
Xưa kia ông ta thệ nguyện trọn đời không mặc y phục nhưng về sau lại mặc. Xưa kia ông ta thệ nguyện trọn đời không uống rượu, ăn thịt, không ăn cơm và các loại bột nhưng về sau lại ăn tất cả. Xưa kia ông ta thệ nguyện trọn đời không trái với Phạm hạnh nhưng về sau lại phạm. Xưa kia ông ta đã nói: “Không bao giờ vượt qua bốn ngôi tháp như Ưu Viên ở phương Đông, tháp Tượng ở phương Nam, tháp Đa Tử ở phương Tây và tháp Thất Tụ ở phương Bắc”; nhưng nay ông ta đã rời khỏi chỗ đó, không còn thân cận nữa và đã làm trái với lời nguyện trên. Ông ta đã làm trái với bảy lời nguyện đó, đã ra khỏi thành Tỳ-xá-ly và mạng chung ở bãi tha ma.
Ta bảo Thiện Túc:
“Thầy là kẻ vô trí! Nếu không tin lời Ta thì thầy hãy đến đó mà xem, rồi sẽ tự biết.”
[0067a08] Phật bảo Phạm chí:
– Thế rồi, Tỳ-kheo Thiện Túc đắp y, ôm bát vào thành khất thực, khi khất thực xong, lại ra khỏi thành rồi đến bãi tha ma và thấy Ni-kiền-tử đã mạng chung tại đó. Thấy vậy, Thiện Túc đến chỗ Ta, cúi đầu đảnh lễ sát chân và ngồi xuống một bên nhưng không trình bày lại việc đó với Ta.
Phạm chí nên biết, lúc đó Ta nói với Thiện Túc:
“Thế nào, này Thiện Túc! Có đúng là Ta đã biết trước về Ni-kiền-tử đó như Ta đã nói không?”
“Quả đúng như lời Thế Tôn đã nói!”
Phạm chí nên biết! Ta đã hiện thần thông để chứng minh cho Thiện Túc thấy nhưng thầy ấy vẫn nói: “Thế Tôn không hiện thần thông cho con.”
Lại nữa, một thời Ta ngụ tại ấp Bạch Thổ, thuộc nước Minh-ninh. Bấy giờ, có vị Ni-kiền-tử tên là Cứu-la-đế[xvii] cũng đang cư ngụ tại đó, được mọi người tôn kính, danh tiếng đồn xa, được nhiều lợi dưỡng. Bấy giờ, Ta đắp y, ôm bát vào thành khất thực. Tỳ-kheo Thiện Túc đi theo sau Ta, thấy Ni-kiền-tử Cứu-la-đế cúi mình trên đống phân mà liếm bã trấu.
Phạm chí nên biết! Khi thấy Ni-kiền-tử cúi mình trên đống phân mà liếm bã trấu, Tỳ-kheo Thiện Túc liền suy nghĩ: “Các bậc A-la-hán và các vị hướng về con đường A-la-hán ở thế gian đều không ai có thể sánh bằng vị Ni-kiền-tử này, vì đạo của Ni-kiền-tử này thật là thù thắng. Vì sao như vậy? Vì vị ấy tu khổ hạnh mới có thể trừ được tâm kiêu mạn như thế, tức cúi mình trên đống phân mà liếm bã trấu.”
Này Phạm chí, lúc đó, Ta xoay sang bên phải và bảo Thiện Túc:
“Thầy là kẻ vô trí, đâu thể tự xưng là Thích tử được?” Thiện Túc thưa với Ta:
“Thưa Thế Tôn! Vì sao Ngài gọi con là kẻ vô trí, không xứng đáng tự nhận là Thích tử?”
Ta bảo Thiện Túc:
“Thầy là kẻ vô trí! Khi thấy Cứu-la-đế cúi mình trên đống phân để liếm bã trấu, thầy liền nghĩ rằng: ‘Trong các hàng A-la-hán và những bậc hướng về con đường A-la-hán ở thế gian thì Cứu-la-đế là cao cả hơn hết. Vì sao như vậy? Vì Cứu-la-đế này có thể tu khổ hạnh, trừ được kiêu mạn nên cúi mình trên đống phân mà liếm bã trấu’. Thầy có ý nghĩ như vậy đúng không?” “Thưa vâng! Con có nghĩ.” Thiện Túc vặn hỏi Ta:
“Tại sao Thế Tôn lại sanh tâm ganh tị với vị A-la-hán?”
Ta bảo:
“Ta không bao giờ sanh tâm ganh ghét đối với một vị A-la-hán thì lẽ nào nay Ta khởi tâm ganh ghét với vị A-la-hán? Nay thầy chính là kẻ vô trí nên mới cho rằng Cứu-la-đế là thật A-la-hán mà không biết rằng sau bảy ngày nữa, người này sẽ bị trúng thực mà qua đời và sẽ bị đọa vào loài quỷ Khởi Thi,[xviii] thường khổ sở vì đói khát. Hơn nữa, sau khi ông ta mạng chung, phải dùng dây cỏ lau buộc thi thể rồi vứt ngoài bãi tha ma. Nếu thầy không tin thì hãy đến đó báo trước cho ông ta biết.”
[0067b09] Bấy giờ, Thiện Túc liền đi đến chỗ Cứu-la-đế và nói:
“Sa-môn Cù-đàm bảo rằng: ‘Sau bảy ngày nữa, ông sẽ bị trúng thực rồi qua đời và đọa vào loài quỷ Khởi Thi, đồng thời sau khi chết, phải dùng dây cỏ lau buộc thi thể rồi vứt ngoài bãi tha ma.’ Thiện Túc lại dặn: ‘Ông nên giảm thiểu ăn uống, đừng để lời tiên đoán của Cù-đàm thành sự thật.’”
Phạm chí nên biết! Qua bảy ngày sau, Cứu-la-đế bị chứng bụng sình trướng rồi qua đời, liền đọa vào loài quỷ Khởi Thi, thi thể phải dùng dây cỏ lau quấn chặt rồi lôi quăng bỏ ngoài bãi tha ma.
Bấy giờ, sau khi nghe Ta nói, Thiện Túc bấm đốt ngón tay tính từng ngày, khi đến ngày thứ bảy thì Thiện Túc liền đi đến thôn của kẻ lõa hình. Đến nơi, Thiện Túc hỏi những người trong thôn rằng:
“Này chư Hiền, Cứu-la-đế nay ở đâu?”
“Đã qua đời rồi!”
“Do bệnh gì mà qua đời vậy?”
“Do sình bụng!”
“Việc mai táng thế nào?”
“Dùng dây lau bó lại rồi quăng xác ngoài bãi tha ma.”
Này Phạm chí! Nghe như vậy rồi, Thiện Túc liền đi đến bãi tha ma, khi gần đến nơi thì hai đầu gối của tử thi liền động đậy và đột nhiên thây chết ngồi bật dậy. Khi ấy, Thiện Túc đến trước tử thi và nói:
“Này Cứu-la-đế! Ông đã qua đời rồi ư?”
“Ta đã qua đời rồi!”
“Do bệnh gì mà qua đời?”
“Cù-đàm dự ký cho ta sau bảy ngày bụng sình trướng rồi qua đời. Thật đúng như vậy, hết bảy ngày bụng ta sình trướng lên rồi qua đời.” Thiện Túc lại hỏi:
“Ông sanh về đâu?”
“Cù-đàm đã dự ký ta sẽ đọa vào loài quỷ Khởi Thi sau khi qua đời và quả đúng như thế.”
“Khi ông qua đời thì việc chôn cất như thế nào?”
“Cù-đàm dự ký là dùng dây lau, bó lại rồi quăng bỏ ngoài bãi tha ma. Thật đúng như lời của Phật đã nói.”
Lúc đó tử thi nói với Thiện Túc rằng:
“Ông tuy xuất gia nhưng không thành tựu gì, vì Sa-môn Cù-đàm nói đúng sự thật mà ông không tin.”
Nói xong, tử thi lại nằm xuống như cũ.
[0067c03] Này Phạm chí! Thế rồi, Tỳ-kheo Thiện Túc đến chỗ Ta, cúi đầu đảnh lễ sát chân và ngồi xuống một bên nhưng không trình bày sự việc ấy với Ta. Ta liền bảo:
“Như Ta đã dự ký về Cứu-la-đế, có đúng hay không?” Đáp:
“Thưa đúng! Thế Tôn đã nói rất đúng.”
Này Phạm chí! Ta đã nhiều lần hiện thần thông để chứng minh cho Tỳkheo Thiện Túc biết nhưng Thiện Túc vẫn nói: “Thế Tôn không hiện thần thông cho con.”
Phật bảo Phạm chí:
– Một thời, Ta ở giảng đường bên ao Di Hầu, lúc đó có Phạm chí tên Ba-lêtử[xix] cũng đang sống ở nơi này, mọi người đều tôn kính, danh tiếng đồn xa, có nhiều lợi dưỡng. Phạm chí này tuyên bố giữa đại chúng trong thành Tỳ-xá-ly: “Sa-môn Cù-đàm tự xưng có trí tuệ, ta cũng có trí tuệ. Sa-môn Cù-đàm tự xưng có thần thông, ta cũng có thần thông. Sa-môn Cù-đàm chứng đạo siêu việt, ta cũng chứng đạo siêu việt. Ta sẽ cùng Sa-môn Cù-đàm hiện thần thông. Sa-môn hiện một, ta sẽ hiện hai; Sa-môn hiện hai, ta sẽ hiện bốn; Sa-môn hiện tám, ta sẽ hiện mười sáu; Sa-môn hiện mười sáu, ta sẽ hiện ba mươi hai; Sa-môn hiện ba mươi hai, ta sẽ hiện sáu mươi bốn. Tùy theo ông ấy hiện nhiều hay ít thì ta đều hiện gấp đôi.”
Này Phạm chí! Bấy giờ, Tỳ-kheo Thiện Túc đắp y ôm bát vào thành khất thực, trông thấy Phạm chí Ba-lê-tử ở giữa đại chúng tuyên bố: “Sa-môn Cù-đàm tự xưng có trí tuệ, ta cũng có trí tuệ. Sa-môn Cù-đàm tự xưng có thần thông, ta cũng có thần thông. Sa-môn Cù-đàm chứng đạo siêu việt, ta cũng chứng đạo siêu việt. Ta sẽ cùng Sa-môn Cù-đàm hiện thần thông. Nếu như Sa-môn hiện một, ta sẽ hiện hai; Sa-môn hiện hai, ta sẽ hiện bốn; Sa-môn hiện tám cho đến tùy theo Sa-môn hiện nhiều hay ít thì ta đều có thể hiện gấp đôi.”
Bấy giờ, khất thực xong, Tỳ-kheo Thiện Túc đến chỗ Ta, cúi đầu đảnh lễ rồi ngồi sang một bên và thưa:
“Sáng sớm nay, con đắp y, ôm bát vào thành khất thực, nghe ông Ba-lê-tử nói ở giữa đại chúng trong thành Tỳ-xá-ly rằng: ‘Sa-môn Cù-đàm có đại trí tuệ, ta cũng có đại trí tuệ. Sa-môn Cù-đàm có thần thông, ta cũng có thần thông. Nếu như Cù-đàm hiện một, ta sẽ hiện hai,... cho đến tùy theo Cù-đàm hiện nhiều hay ít thì ta đều hiện gấp đôi.’”
Tỳ-kheo Thiện Túc đem hết mọi việc đã nghe như vậy kể lại cho Ta nghe. Ta bảo với Thiện Túc:
“Nếu ở giữa đại chúng, Ba-lê-tử không từ bỏ lời nói này, không từ bỏ kiến giải này, không từ bỏ sự kiêu mạn này mà đi đến chỗ Ta thì việc ấy không bao giờ xảy ra. Nếu ông ta có ý nghĩ: ‘Ta không từ bỏ lời nói này, không từ bỏ kiến giải này và không từ bỏ sự kiêu mạn này mà đi đến chỗ Sa-môn Cù-đàm’ thì đầu ông ấy sẽ vỡ ra làm bảy mảnh. Muốn khiến cho ông ấy không bỏ lời nói này, không bỏ kiến giải này và không bỏ kiêu mạn này mà có thể đến chỗ Ta thì việc ấy không bao giờ xảy ra.” [0068a07] Thiện Túc nói:
“Thế Tôn nên giữ lời! Như Lai nên giữ lời!” Ta bảo Thiện Túc:
“Hà cớ gì mà thầy bảo: ‘Thế Tôn nên giữ lời, Như Lai nên giữ lời’?” Thiện Túc nói:
“Ông Ba-lê-tử có uy thần lớn, công đức lớn, vượt thoát đời sau, nếu ông ta đến thì chẳng phải Thế Tôn đã nói dối sao?” Ta lại hỏi Thiện Túc:
“Như Lai có thường nói hai lời không?”
“Thưa không!”
“Nếu Như Lai không nói hai lời, lý do gì thầy lại bảo Thế Tôn nên giữ lời,
Như Lai nên giữ lời?” Thiện Túc thưa:
“Thế Tôn tự biết ông Ba-lê-tử hay là do chư thiên đến nói?”
“Ta tự biết và cũng có khi do chư thiên đến nói cho biết. Như Đại tướng A-do-đà[xx] trong thành Tỳ-xá-ly, mạng chung rồi được sanh lên cõi trời Đao-lợi là một trường hợp. Tướng A-do-đà đến nói với Ta: ‘Ông Phạm chí Ba-lê-tử chẳng biết hổ thẹn, phạm giới vọng ngữ, ở thành Tỳ-xá-ly đứng giữa đại chúng nói lời chê bai rằng: ‘Đại tướng A-do-đà mạng chung rồi sẽ đọa vào loài quỷ Khởi Thi’ nhưng thật sự khi con mạng chung rồi liền được sanh lên cõi trời Đao-lợi.’ Việc ông Ba-lê-tử thì Ta tự biết và cũng do chư thiên nói cho biết.” Phật bảo kẻ mê muội Thiện Túc:
“Thầy thật là vô trí, nếu không tin lời Ta thì hãy vào thành Tỳ-xá-ly, tùy thầy muốn nói gì thì nói và khi thọ trai xong, Ta sẽ đến chỗ của Phạm chí Balê-tử.”
Phật bảo Phạm chí:
– Thế rồi, đợi đến hôm sau, Thiện Túc đắp y ôm bát tuần tự khất thực rồi vào thành Tỳ-xá-ly, nơi có đông đảo chúng Bà-la-môn, Sa-môn, Phạm chí và nói đầy đủ như vầy: “Đứng trước đại chúng, Phạm chí Ba-lê-tử đã tuyên bố lời này: ‘Sa-môn Cù-đàm có đại trí tuệ, ta cũng có đại trí tuệ. Sa-môn Cù-đàm có đại oai lực, ta cũng có đại oai lực. Sa-môn Cù-đàm có đại thần thông, ta cũng có đại thần thông. Sa-môn hiện một, ta sẽ hiện hai, cho đến tùy theo Sa-môn hiện bao nhiêu thì ta đều sẽ hiện gấp đôi.’ Do đó, hôm nay Sa-môn Cù-đàm sẽ đến chỗ của ông Ba-lê-tử, vậy chúng ta hãy mau đến đó.”
Bấy giờ, trông thấy Phạm chí Ba-lê-tử đang đi trên đường, Thiện Túc liền vội đến chỗ Ba-lê-tử rồi nói:
“Ông đã tuyên bố giữa đại chúng trong thành Tỳ-xá-ly như vầy: ‘Sa-môn Cù-đàm có đại trí tuệ, ta cũng có đại trí tuệ… cho đến Sa-môn Cù-đàm hiện bao nhiêu thần thông, ta tùy theo đó đều có thể hiện gấp đôi.’ Cù-đàm nghe lời này nên sẽ đến chỗ của ông, vậy ông hãy mau trở về.” Ông ta đáp:
“Ta sẽ về ngay! Ta sẽ về ngay!”
Nói xong, ông ta có cảm giác kinh sợ, toàn thân sởn gai ốc, chẳng dám về chỗ của mình mà đến thẳng trú xứ của Phạm chí Đạo-đầu-ba-lê,[xxi] ngồi trên giường dây,[xxii] buồn rầu mê loạn.
[0068b10] Phật bảo Phạm chí:
– Sau khi thọ trai xong, Ta cùng với nhiều chúng Lệ-xa, Sa-môn, Bà-lamôn, Phạm chí và Cư sĩ đi đến trú xứ của Ba-lê-tử rồi ngồi vào chỗ đã soạn sẵn.
Ở trong chúng ấy có Phạm chí tên là Giá-la. Bấy giờ, mọi người gọi Giá-la vào và bảo:
“Ông hãy đến trú xứ Đạo-đầu nói với Ba-lê-tử rằng: ‘Nay [có] rất nhiều chúng Lệ-xa, Sa-môn, Bà-la-môn, Phạm chí và Cư sĩ đều tập hợp nơi khu rừng của ông để cùng nhau bàn luận về việc ông từng tuyên bố giữa đại chúng: ‘Samôn Cù-đàm có đại trí tuệ, ta cũng có đại trí tuệ,... cho đến tùy theo Cù-đàm hiện ra bao nhiêu thần thông, ta đều hiện gấp đôi’, nên Sa-môn Cù-đàm đã đến trong khu rừng của ông, ông hãy trở về để bàn luận.’”
Nghe mọi người bảo xong, Giá-la liền đi đến khu rừng Đạo-đầu rồi nói với Ba-lê-tử:
“Hôm nay, có nhiều chúng Lệ-xa, Sa-môn, Bà-la-môn, Phạm chí và Cư sĩ đều nhóm họp nơi trú xứ của ông, mọi người cùng nhau bàn luận về việc ‘Phạm chí Ba-lê-tử tuyên bố giữa đại chúng: ‘Sa-môn Cù-đàm có đại trí tuệ, ta cũng có đại trí tuệ,... cho đến Sa-môn Cù-đàm hiện thần thông bao nhiêu thì tùy theo đó ta sẽ hiện gấp đôi’.’ Cù-đàm hiện ở trong khu rừng của ông, vậy ông có trở về không?”
Bấy giờ, Phạm chí Ba-lê-tử liền trả lời với Giá-la rằng:
“Ta sẽ về, sẽ về!”
Nói xong, ông ta xoay người trên giường dây, không may bị dây của giường quấn chặt vào chân, khiến ông không thể rời khỏi giường, huống hồ đi đến chỗ Thế Tôn.
Khi ấy, Giá-la nói với Ba-lê-tử:
“Ông là kẻ vô trí, dám nói lời hư ảo: ‘Ta sẽ về, sẽ về’ mà tự mình đã không thể rời khỏi giường dây thì làm sao dám đến chỗ đại chúng?”
Trách ông Ba-lê-tử xong, Giá-la liền trở về chỗ đại chúng và thưa:
“Các vị! Hôm nay, tôi thay mặt các vị đến nói với ông Ba-lê-tử, ông ấy bảo ‘ta sẽ về, sẽ về’ nhưng trong lúc xoay mình trên giường dây, không may bị [dây] giường quấn chặt vào chân, không tháo ra được. Ngay việc thoát khỏi giường dây mà ông ta còn chưa làm được thì làm sao có thể đi đến với đại chúng đây?
Bấy giờ, có người Lệ-xa tên là Đầu-ma ngồi trong đại chúng, liền đứng dậy, sửa áo bày vai bên phải, quỳ thẳng chắp tay mà bạch đại chúng:
“Đại chúng hãy đợi một lát, bây giờ tôi sẽ đến đó và dẫn Ba-lê-tử về đây.”
[0068c08] Phật nói:
– Lúc ấy, Ta bảo Lệ-xa Đầu-ma rằng: “Ông ta nói lời như thế, bảo thủ kiến chấp như thế và khởi kiêu mạn như thế mà muốn khiến ông ta đi đến chỗ Phật thì không bao giờ được. Này Đầu-ma! Giả sử ông lấy dây buộc nhiều vòng rồi cho bầy bò cùng kéo đi, đến nỗi thân thể ông ta tan nát thì rốt cuộc ông ấy cũng không thể từ bỏ lời nói như thế, kiến chấp như thế và kiêu mạn như thế mà đến chỗ Ta. Nếu không tin lời Ta thì ông hãy đến đó rồi sẽ tự biết.”
Bấy giờ, Lệ-xa Đầu-ma đi đến chỗ Ba-lê-tử và nói với ông ta rằng:
“Nhiều chúng Lệ-xa, Sa-môn, Bà-la-môn, Phạm chí và cư sĩ đang nhóm họp tại rừng của ông và cùng nhau bàn luận về việc: ‘Phạm chí Ba-lê-tử tuyên bố trước đại chúng: ‘Sa-môn Cù-đàm có đại trí tuệ, ta cũng có đại trí tuệ,... cho đến Sa-môn Cù-đàm hiện thần thông, tùy theo nhiều hay ít thì ta đều hiện gấp đôi’.’ Sa-môn Cù-đàm hiện đang ở trong khu rừng của ông, vậy ông hãy trở về. Ông từng bảo: ‘Ta sẽ về, sẽ về’ nhưng không may bị giường dây quấn chặt vào chân, khiến ông không thể rời khỏi giường, huống hồ đi đến chỗ Thế Tôn.” Nói xong, Đầu-ma trách Ba-lê-tử:
“Ông là kẻ vô trí, dám nói lời hư ảo: ‘Ta sẽ về, sẽ về’ mà tự mình còn không thể rời khỏi giường dây thì làm sao dám đến chỗ đại chúng?” Đầu-ma lại nói với Ba-lê:
“Những người có trí, nhờ ví dụ mà được hiểu. Vào quá khứ lâu xa, có một con sư tử, chúa tể của muôn loài sống trong rừng sâu. Mỗi sáng sớm khi ra khỏi hang, sư tử ngó quanh bốn hướng rồi vươn mình rống lên ba tiếng, sau đó mới rảo quanh săn mồi.
Này Ba-lê-tử! Sau khi ăn xong, sư tử chúa trở về rừng, thường có một dã can theo sau sư tử để ăn thức ăn thừa, nhờ đó mà khí lực đầy đủ, nên tự nhủ: ‘Sư tử trong rừng kia rốt cuộc là loài thú gì? Có thể thắng ta chăng? Nay ta có thể độc chiếm khu rừng này để rồi vào buổi sớm mai ta ra khỏi hang, ngó quanh bốn hướng, vươn mình rống lên ba tiếng rồi rảo quanh săn mồi.’
Sau đó, dã can liền tìm đến một khu rừng ẩn thân ở đó, vào sáng sớm ra khỏi hang, vươn mình rống lên ba tiếng, rồi sau mới dạo đi, dù muốn bắt chước tiếng rống của sư tử nhưng khi gào thét vẫn là tiếng dã can.
Này Ba-lê-tử, nay ông cũng vậy, nhờ ân đức và oai lực của Phật nên được sống còn ở thế gian, được người đời cúng dường, thế mà lại muốn hơn thua cùng đức Như Lai.”
Bấy giờ, ông Đầu-ma dùng bài kệ trách:
Dã can xưng sư tử,
Tự cho là vua thú,
Muốn rống tiếng sư tử,
Lại gào tiếng dã can.
Ở rừng vắng một mình,
Tự cho là vua thú,
Muốn rống tiếng sư tử,
Lại gào tiếng dã can.
Quỳ đất tìm hang chuột,
Đào mồ kiếm tử thi,
Muốn rống tiếng sư tử,
Lại gào tiếng dã can.
[0069a15] Đầu-ma lại nói:
“Ông cũng như thế, nhờ ân đức oai thần của Phật mà được sống còn ở đời, được người cúng dường mà nay lại muốn hơn thua cùng đức Như Lai.”
Bấy giờ, ông Đầu-ma dùng bốn ví dụ quở trách trước mặt Ba-lê-tử xong, trở về chỗ đại chúng và nói:
“Tôi đã thay lời của mọi người đến gọi ông Ba-lê-tử và ông ta trả lời với tôi rằng: “Ta sẽ về, sẽ về!” Nói xong, không may bị dây giường quấn chặt vào chân, khiến ông không thể rời khỏi giường dây, huống hồ đi đến đây với đại chúng.” Bấy giờ, Ta bảo ông Đầu-ma rằng:
“Ta đã nói trước với ông, muốn khiến người ấy đi đến chỗ Phật là điều không tưởng. Dù cho ông có lấy dây da buộc nhiều vòng, rồi cho bầy bò cùng nhau kéo đi, cho đến thân thể tan nát thì rốt cuộc Ba-lê-tử vẫn không từ bỏ lời nói như thế, kiến chấp như thế và kiêu mạn như thế mà đi đến chỗ Ta.”
Này Phạm chí! Lúc đó, Ta vì đại chúng thuyết giảng nhiều pháp khác nhau, mở bày, dạy bảo, khích lệ, khiến cho hoan hỷ.[xxiii] Ta ở trong chúng ấy, rống lên tiếng rống sư tử ba lần rồi tự mình bay lên hư không để trở về chỗ cũ.
Phật bảo Phạm chí:
– Nếu có Sa-môn hay Bà-la-môn nói rằng: “Tất cả thế gian do Phạm thiên Tự Tại tạo ra” thì Ta sẽ hỏi họ:
“Tất cả thế gian có thật do Phạm thiên Tự Tại tạo ra chăng?” Họ không trả lời được mà hỏi ngược lại Ta:
“Thưa Cù-đàm, việc này thế nào?” Ta trả lời:
“Đã có một thời kỳ, khi thế gian này vừa bị hủy diệt thì có một chúng sanh hết thọ mạng và túc nghiệp, từ cõi trời Quang Âm25 mạng chung được sanh về cõi Phạm thiên đang trống rỗng. Ở cõi ấy, họ khởi luyến ái rồi sanh tâm đắm nhiễm và mong những chúng sanh khác cùng đến sống nơi đây. Thế rồi, những chúng sanh khác sau khi mãn thọ mạng và túc nghiệp, đã sanh về cõi Phạm còn đang trống rỗng đó. Bấy giờ, chúng sanh đầu tiên tự nghĩ thế này: ‘Ta là vua Đại Phạm, tự nhiên mà có, không ai tạo ra ta, ta có thể thông đạt tận cùng các nghĩa lý, được tự tại tột cùng trong một ngàn thế giới, có thể sáng tạo và biến hóa, vi diệu tột bậc, là cha mẹ của loài người. Trước kia, ta đến đây một mình không có bạn nhưng nhờ năng lực của ta mới có chúng sanh này, ta tạo ra chúng sanh này. Những chúng sanh khác cũng thuận theo ta, tôn xưng ta là Phạm vương, bỗng nhiên mà có, có thể thông đạt tận cùng các nghĩa lý, được tự tại tột cùng trong một ngàn thế giới, có thể sáng tạo và biến hóa, vi diệu tột bậc, là cha mẹ của loài người, là vị duy nhất hiện hữu trước, sau đó mới có chúng ta, vị Đại Phạm vương này đã tạo ra chúng ta.’ Thế rồi những chúng sanh ấy sau khi mãn thọ mạng thì theo đó tái sanh vào thế gian này, dần dần lớn lên, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia học đạo. Người ấy nhập định Ý tam-muội, do nhờ tâm định nên biết được nguồn gốc mình sanh ra, nên cho rằng: ‘Vị trời Đại Phạm này bỗng nhiên mà có, không ai tạo ra, hiểu biết các nghĩa, tự tại tột cùng trong một ngàn thế giới, có thể sáng tạo và biến hóa, vi diệu tột bậc, là cha mẹ của loài người. Vị vua trời Đại Phạm ấy thường trụ bất biến, là pháp cố định. Hơn nữa, chúng ta được Phạm thiên biến hóa ra cho nên không thể thường hằng, không được tồn tại lâu dài.’”
Này Phạm chí! Vì nhân duyên ấy nên các Sa-môn, Bà-la-môn đều nói: “Phạm thiên Tự Tại tạo ra thế giới này.”
Này Phạm chí! Sự sáng tạo ra thế giới này không phải là điều mà những vị ấy có thể đạt đến được mà chỉ có Phật mới biết. Thậm chí, hơn cả sự việc này Phật cũng đều biết rõ, tuy biết nhưng không chấp trước, đồng thời Ta biết như thật về khổ, về nguyên nhân của khổ, về sự diệt tận khổ, về vị ngọt, về sự tai hại và cách thoát ly khổ, sau đó dùng pháp quán bình đẳng[xxiv] mà đạt đến giải thoát vô dư nên gọi là Như-Lai.
[0069b24] Phật bảo Phạm chí:
– Nếu có Sa-môn hay Bà-la-môn nào nói: “Ham vui, biếng nhác là khởi nguồn của chúng sanh.” Ta lại nói với họ:
“Có thật các ông cho rằng ham vui, biếng nhác là khởi nguồn của chúng sanh?”
Họ không đáp được mà hỏi lại Ta:
“Thưa Cù-đàm, việc đó thế nào?” Ta đáp:
“Như có chúng sanh ở cõi trời Quang Âm do ham vui, biếng nhác nên sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào thế giới này rồi dần dần lớn lên, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu hành, đạt được Tâm định tam-muội. Nhờ năng lực tam-muội nên biết được nguồn gốc trước đây, liền nói thế này: ‘Những chúng sanh kia do không đam mê tiêu khiển mà được thường trụ không biến đổi ở cõi trời Quang Âm. Chúng ta do đam mê tiêu khiển nên phải đến đây chịu pháp vô thường và đổi thay này.’”
Này Phạm chí! Những Sa-môn, Bà-la-môn vì nhân duyên ấy nên cho rằng ham vui là khởi nguồn của chúng sanh. Sự việc này Ta đều biết rõ và thậm chí còn biết rõ hơn thế. Tuy biết nhưng Ta không chấp trước, đồng thời Ta biết như thật về khổ, về nguyên nhân của khổ, về sự diệt tận khổ, về vị ngọt, về sự tai hại và cách thoát ly khổ, sau đó dùng pháp quán bình đẳng mà đạt đến giải thoát Vô dư, nên gọi là Như-Lai.
[0069c08] Phật bảo Phạm chí:
– Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn nói rằng: “Lòng đố kỵ[xxv] là khởi nguồn của chúng sanh.” Ta hỏi họ rằng:
“Có thật các ông nói rằng: Lòng đố kỵ là khởi nguồn của chúng sanh?” Họ không đáp được mà hỏi lại Ta: “Thưa Cù-đàm, điều này thế nào?” Ta đáp:
“Như có chúng sanh dò xét lẫn nhau, dần dần sanh tâm đố kỵ, do đó khi mạng chung, tái sanh vào thế giới này rồi dần dần lớn lên, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu hành, đạt được định Tâm tam-muội. Nhờ năng lực tammuội nên biết được nguồn gốc trước đây, liền nói thế này: ‘Những chúng sanh đó do không dò xét lẫn nhau nên không sanh tâm đố kỵ, nhờ vậy mà được thường trụ không biến đổi. Chúng ta do thường xuyên dò xét lẫn nhau nên tâm đố kỵ sanh khởi, vì vậy mà phải đến đây chịu pháp vô thường và đổi thay này.’”
Như vậy, này Phạm chí! Sa-môn, Bà-la-môn kia do nhân duyên này nên nói rằng đố kỵ là khởi nguồn của chúng sanh. Sự việc này Ta đều biết rõ và thậm chí còn biết rõ hơn thế. Tuy biết nhưng Ta không chấp trước, đồng thời Ta biết như thật về khổ, về nguyên nhân của khổ, về sự diệt tận khổ, về vị ngọt, về sự tai hại và cách thoát ly khổ, sau đó dùng pháp quán bình đẳng mà đạt đến giải thoát Vô dư, nên gọi là Như-Lai.
Phật bảo Phạm chí:
– Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn bảo rằng: “Ta từ tự nhiên mà sanh.” Ta nói với họ:
“Có thật các ông nói: Ta từ tự nhiên mà sanh không?”
Họ không đáp được mà hỏi ngược lại Ta. Khi ấy Ta bảo:
“Như có chúng sanh không có tưởng, không có tri giác. Khi chúng sinh đó vừa khởi tưởng thì liền mạng chung, tái sanh về thế gian này rồi dần lớn lên, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu hành bèn nhập định Tâm tam-muội. Nhờ năng lực tam-muội nên biết được nguồn gốc trước đây, liền nói thế này: ‘Ta vốn không có, nay bỗng nhiên mà có; thế gian này trước kia vốn không mà nay bỗng nhiên có, đây là sự thật, ngoài ra là giả dối.’”
Như vậy, này Phạm chí! Những Sa-môn, Bà-la-môn kia do nhân duyên này mà tuyên bố thuyết vô nhân sanh. Sự việc này Ta đều biết rõ và thậm chí còn biết rõ hơn thế. Tuy biết nhưng Ta không chấp trước, đồng thời Ta biết như thật về khổ, về nguyên nhân của khổ, về sự diệt tận khổ, về vị ngọt, về sự tai hại và cách thoát ly khổ, sau đó dùng pháp quán bình đẳng mà đạt đến giải thoát vô dư, nên gọi là Như-Lai.
[0070a02] Phật bảo Phạm chí:
Ta đã thuyết giảng như vậy, hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn ở sau lưng Ta mà chê bai rằng: “Sa-môn Cù-đàm tự cho rằng đệ tử của mình chứng giải thoát thanh tịnh, thành tựu tịnh hạnh. Vị ấy biết mình thanh tịnh nhưng không biết mọi vật đều thanh tịnh.” Nhưng thực ra, Ta không nói: “Đệ tử của Ta chứng giải thoát thanh tịnh, thành tựu tịnh hạnh. Vị ấy biết mình thanh tịnh nhưng không biết mọi vật đều thanh tịnh.” Trái lại, này Phạm chí! Ta nói: “Đệ tử của Ta chứng giải thoát thanh tịnh, thành tựu tịnh hạnh, vị ấy biết mình thanh tịnh và biết tất cả đều thanh tịnh.”
Khi ấy, Phạm chí bạch Phật:
Những hạng người trên sẽ không được lợi lạc, vì họ chê bai lời của Samôn Cù-đàm rằng: “Sa-môn Cù-đàm tự nói: ‘Đệ tử của Ta chứng giải thoát thanh tịnh, thành tựu tịnh hạnh. Vị ấy biết mình thanh tịnh nhưng không biết tất cả đều thanh tịnh.’ Nhưng Thế Tôn đã không nói như thế mà Ngài nói: ‘Đệ tử của Ta chứng giải thoát thanh tịnh, thành tựu tịnh hạnh, vị ấy biết mình thanh tịnh và biết tất cả đều thanh tịnh.’” Rồi lại bạch Phật:
Con cũng muốn chứng giải thoát thanh tịnh này, thành tựu tịnh hạnh và biết hết tất cả.
Phật bảo Phạm chí:
Quả thật rất khó khi ông muốn chứng đạt. Vì sao như vậy? Vì ông có sự hiểu biết sai khác, sự kham nhẫn cũng khác và việc thực hành cũng không đồng.[xxvi] Nếu dựa vào những kiến giải sai khác ấy để chứng nhập giải thoát thanh tịnh thì khó thành tựu. Nhưng nếu tâm ông vui thích với Phật pháp, luôn giữ tâm ấy vững chắc thì mãi mãi sẽ được an vui.
Bấy giờ, Phạm-chí Phòng-già-bà nghe Phật thuyết pháp xong, hoan hỷ phụng hành.
Chú thích:
[1] Nguyên tác: A-nậu-di kinh 阿㝹夷經 (T.01. 0001.15. 0066a9). Tham chiếu: D. 24, Pāthika Sutta (Kinh Ba-lê).
[2] A-nậu-di (阿㝹夷, Anupīya), một thị trấn của nước Mallā, phía Đông thành Ca-tỳ-la-vệ.
[3] Nguyên tác: Minh-ninh (冥寧, Mallā), một trong 16 quốc gia thời Phật, có 2 thành phố lớn là Pāvā và Kusinārā.
[4] Nguyên tác: Viên quán (園觀). Theo Từ điển Đinh Phúc Bảo, “viên” (園) là vườn rừng (園者園林), “quán” (觀) là ngôi nhà cao rộng (觀者高臺也), có thể hiểu đó là một trú xứ nằm giữa khu rừng.
[5] Phòng-già-bà (房伽婆, Bhaggava).
[6] Thiện Túc (善宿, Sunakkhatta). Theo DPPN, Sunakkhatta là hoàng tử của dòng họ Licchavi ở Vesāli.
[7] Lệ-xa (隸車), bộ tộc Licchavi.
[8] Di Hầu trì (獼猴池, S. Markaṭa), hồ này bên cạnh vườn nữ cư sĩ Am-la ở thành Tỳ-xá-ly thuộc Trung Ấn. Theo Đại Đường Tây Vức ký 大唐西域記 (T.51. 2087.7. 0908b17), hồ này do đàn khỉ đào để cúng Phật. Ở đây có giảng đường Trùng Các, nơi đức Phật thường giảng kinh.
[9] Tham chiếu: D. 24: “Dù Như Lai có thị hiện thần túc hay không, pháp được giảng dạy đều có khả năng dẫn đến xuất ly, diệt tận biên tế của khổ, chứ không phải không diệt tận” (HT. Thích Minh Châu dịch). 10 Tham chiếu: D. 24: “Thế Tôn không nói cho con về khởi nguyên của thế giới” (HT. Thích Minh Châu dịch).
[x] Bạt-xà (跋闍, Vajjī).
[xii] Nguyên tác: Ưu Viên tháp (憂園塔, Udena cetiya).
[xiii] Nguyên tác: Tượng tháp (象塔, Gotamaka cetiya).
[xiv] Nguyên tác: Đa Tử tháp (名多子塔, Bahuputta cetiya).
[xv] Nguyên tác: Thất Tụ tháp (七聚塔, Sattamba cetiya).
[xvi] Nguyên tác: Dã can (野干, S. śṛgāla, P. sigāla), dịch âm là Tất-già-la (悉伽羅).
[xvii] Cứu-la-đế (究羅帝, Korakkhattiya), một nhà khổ hạnh sống ở Uttarakā. Ông ta theo khổ hạnh như con chó, chỉ dùng miệng để liếm thức ăn.
[xviii] Nguyên tác: Khởi Thi (起屍, Vetāla). Trong tín niệm Ấn Độ, đây là một loại quỷ được hiện hình do năng lực của thần chú.
[xix] Ba-lê-tử (波梨子, Pāṭikaputta).
[xx] A-do-đà (阿由陀, Ajita).
[xxi] Đạo-đầu-ba-lê (道頭波梨, Tindukkhānu paribbājakā).
[xxii] Thằng sàng (繩床, pīthikā): Giường dây, một loại giường bề mặt được đan bằng dây, hiện vẫn còn ở Ấn Độ, gọi là charpoy.
[xxiii] Nguyên tác: Thị, giáo, lợi, hỷ (示, 教, 利, 喜). Xem chú thích 60, kinh số 1, tr. 511. 25 Quang Âm thiên (光音天, Ābhassara).
[xxiv] Bình đẳng quán (平等觀): Quán bình đẳng, còn gọi “không quán” (空觀).
[xxv] Nguyên tác: Thất ý (失意), là tâm không được vừa lòng. Pāli ghi là manopadosikā, nghĩa là tâm đố kỵ.
[xxvi] Nguyên tác: Kiến dị, nhẫn dị, hành dị (見異, 忍異, 行異). Tham chiếu: D. 24: Dukkaraṃ kho etaṃ, bhaggava, tayā aññadiṭṭhikena aññakhantikena aññarucikena aññatrāyogena aññatrācariyakena subhaṃ vimokkhaṃ upasampajja viharituṃ. (Này Bhaggava, thật khó cho ngươi khi ngươi theo các kiến giải sai khác, kham nhẫn các sự việc sai khác, theo dõi những mục tiêu sai khác, đeo đuổi những mục đích sai khác, được huấn luyện theo các phương pháp sai khác để có thể đạt được thanh tịnh, giải thoát), HT. Thích Minh Châu dịch.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.