Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 01 »
Kinh Trường A-Hàm
(長阿含經)
(Bản dịch của Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm)
Tôi nghe như vậy:
Một thời, đức Phật cùng đông đủ đại chúng Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị đều ngự tại lãnh thổ A-nậu-di, thuộc nước Minh-ninh.
Bấy giờ, đức Thế Tôn đắp y, mang bát vào thành A-nậu-di khất thực; khi ấy, đức Thế Tôn thầm nghĩ: “Bây giờ, nếu Ta đi khất thực thì quá sớm. Vậy Ta nên đến xem vườn của Phạm chí Phòng-già-bà, đợi các Tỳ-kheo đến, đúng giờ rồi sẽ đi khất thực.”
Khi đó, đức Thế Tôn liền đi đến khu vườn của Phạm chí nói trên.
Lúc đó, Phạm chí Phòng-già-bà thấy Phật từ xa đi đến, liền đứng dậy nghinh tiếp và chào hỏi như sau:
– Quý hóa thay đức Cù-đàm! Từ lâu Ngài không đến, nay Ngài chiếu cố đến đây chắc có chuyện gì. Kính mời Cù-đàm hãy an tọa tại chỗ ngồi này!
Bấy giờ, đức Thế Tôn bèn tiến đến chỗ ngồi và an tọa tại đấy.
Lúc ấy, Phạm chí Phòng-già-bà ngồi xuống một bên và bạch với Thế Tôn:
– Đầu hôm có Ly-xa-tử là Tỳ-kheo Thiện Túc đến chỗ tôi và nói với tôi như sau: “Này Đại sư! Tôi không ở chỗ Phật để tu Phạm hạnh nữa. Vì sao? Vì Phật đã bỏ rơi tôi.” Vị Tỳ-kheo ấy đến gặp tôi và nói lỗi của Cù-đàm, dù ông ta có nói như thế nhưng tôi cũng không nghe.
Phật bảo Phạm chí:
– Ta biết những lời nói của Thiện Túc mà ông không bao giờ nghe.
Ngày xưa, có một thời Ta ở trên nhà Tập pháp, bên ao Nhĩ Hầu, thuộc thành Tỳ-xá-ly; lúc ấy, Thiện Túc đến nơi Ta ngự và nói với Ta như sau:
“Đức Như Lai đã bỏ rơi con, con không ở chỗ Như Lai tu Phạm hạnh nữa.” Khi ấy, Ta bảo: “Ông vì lý do gì mà nói đức Như Lai đã bỏ rơi ông, ông không ở chỗ Như Lai để tu Phạm hạnh nữa?”
Thiện Túc đáp: “Vì đức Như Lai không vì con mà hiện thần thông biến hóa.” Bấy giờ, Ta nói:
“Ta có yêu cầu ông ở trong pháp Ta tu Phạm hạnh, rồi Ta sẽ hiện thần túc biến hóa không? Và ngươi có nói với Ta rằng, đức Như Lai phải vì con mà hiện thần thông biến hóa, rồi sau đó con mới tu Phạm hạnh không?”
Thiện Túc đáp:
“Bạch Thế Tôn, không!”
Ta bảo Thiện Túc:
“Ta cũng không yêu cầu ông ở trong pháp Ta tịnh tu Phạm hạnh, rồi Ta sẽ vì ông mà hiện thần túc biến hóa. Hơn nữa, ông cũng không nói là Ta hiện thần túc biến hóa rồi ông sẽ tu Phạm hạnh. Thế nào, theo ý ông có cho rằng đức Như Lai có thể hiện thần túc hay không thể hiện thần túc? Hơn nữa, pháp của Ta nói ra có thể làm cho ông được giải thoát và vĩnh viễn xa lìa các khổ không?”
Thiện Túc thưa:
“Bạch Thế Tôn, đúng như vậy, đức Như Lai có thể hiện thần túc chứ không phải là không. Và pháp của Ngài nói ra có thể làm cho người được giải thoát và xa lìa vĩnh viễn các khổ, chứ không phải là không.”
“Này Thiện Túc, nếu pháp Ta nói ra, đối với người tu Phạm hạnh có thể hiện thần túc chứ không phải là không, và đồng thời có thể làm cho người được giải thoát, xa lìa vĩnh viễn các khổ chứ không phải là không, vậy ông ở nơi pháp này còn muốn cầu điều gì?”
Thiện Túc thưa:
“Thế Tôn không thể tùy thời dạy con, hơn nữa về bí thuật của cha con, đức Thế Tôn đã biết hết nhưng lại tiếc không dạy cho con.”
Ta bảo Thiện Túc:
“Ta có từng bảo ông ở trong pháp Ta tu Phạm hạnh, rồi sau đó Ta sẽ dạy bí thuật của cha ông không? Lại nữa, ông có từng yêu cầu ta dạy bí thuật của cha ông, sau đó ông mới ở chỗ Phật tịnh tu Phạm hạnh không?”
“Thưa không!”
“Này Thiện Túc, nếu trước kia Ta không nói lời ấy, và ông cũng không nói như vậy thì nay vì lý do gì ông lại nói như thế? Thế nào Thiện Túc, ông có cho rằng đức Như Lai có thể nói các bí thuật của cha ông hay không? Hơn nữa, pháp Ta nói ra có thể làm cho ông được giải thoát và xa lìa vĩnh viễn các khổ không?”
“Vâng! Đức Như Lai có thể nói các bí thuật của cha con chứ không phải là không, và pháp của Ngài nói ra có thể làm cho người được giải thoát và xa lìa các khổ, và xa lìa hẳn các khổ chứ không phải là không.”
Ta bảo Thiện Túc:
“Nếu Ta có thể nói các bí thuật của cha ông, cũng như có thể nói pháp làm cho người được giải thoát và xa lìa các khổ, vậy thì ở trong pháp Ta, ông muốn cầu điều gì?”
Ta bảo Thiện Túc tiếp:
“Trước kia ông ở lãnh thổ Bạt-xà, thuộc thành Tỳ-xá-ly, ông dùng vô số phương tiện để khen ngợi đức Như Lai, khen ngợi Chánh pháp và khen ngợi chúng Tăng. Ví như có người dùng tám cách khen ngợi để khen ngợi ao thanh lương, khiến cho người ưa thích: Mát lạnh, nhẹ nhàng, mềm mại, trong trẻo, ngọt dịu, không bẩn, uống mãi không chán, uống vào thân thể dễ chịu. Ông cũng thế, khi ở lãnh thổ Bạt-xà, thuộc thành Tỳ-xá-ly, ông đã khen ngợi đức Như Lai, khen ngợi Chánh pháp và khen ngợi chúng Tăng khiến cho người ưa thích và tin tưởng. Thiện Túc nên biết! Nay ông thối chí thì người đời sẽ nói: ‘Tỳ-kheo Thiện Túc có nhiều trí thức, lại gần gũi đức Như Lai, đồng thời cũng là đệ tử của Như Lai mà trái lại không thể trọn đời tịnh tu Phạm hạnh, lại xả giới hoàn tục, ở vào địa vị thấp hèn, hành động xấu xa.’”
Phạm chí nên biết, Ta lúc ấy nói đủ điều nhưng Thiện Túc không chịu nghe, cứ xả giới hoàn tục.
Này Phạm chí, có một thời Ta ở trên nhà giảng pháp, bên ao Nhĩ Hầu, bấy giờ có Ni-kiền-tử tên là Già-la-lâu hiện đang cư ngụ tại đó, mọi người đều tôn kính, danh tiếng đồn xa, có nhiều tri thức, đầy đủ lợi dưỡng.
Khi ấy, Tỳ-kheo Thiện Túc đắp y, mang bát vào thành Tỳ-xá-ly khất thực, lần hồi đi đến chỗ của Ni-kiền-tử. Lúc ấy, Thiện Túc đem ý nghĩa sâu xa để hỏi vị Ni-kiền-tử nói trên, và ông ta không đáp được, bèn sanh tâm tức giận, thế rồi, Thiện Túc tự nghĩ: “Ta khuấy rối người ấy, mãi mãi sẽ không có quả báo về khổ não.”
Phạm chí nên biết, sau khi Thiện Túc khất thực rồi, mang y bát đi đến chỗ Ta, đầu mặt đảnh lễ và ngồi xuống một bên. Lúc ấy, Thiện Túc cũng đem sự kiện trên mà thuật lại với Ta, Ta nói với Thiện Túc rằng:
“Ông là kẻ vô trí! Ông đâu có thể tự xưng là Sa-môn Thích tử được.”
Thiện Túc hỏi lại Ta:
“Thưa Thế Tôn, vì lý do gì Ngài gọi con là đồ ngu và con không nên tự xưng là Thích tử?”
Ta bảo Thiện Túc:
“Ông là kẻ vô trí, vì ông đã đi đến chỗ Ni-kiền-tử để hỏi về ý nghĩa sâu xa, và ông ta không đáp được, bèn lại sanh tâm giận tức. Và khi ấy, ông tự nghĩ: ‘Nay ta khuấy rối vị Ni-kiền-tử này, sẽ mãi mãi không có quả báo về khổ não.’ Thật ông có nghĩ như vậy không?”
Thiện Túc bạch:
“Ông ta là A-la-hán thì đâu vì lý do gì mà có tâm sân hận và ganh tị?”
Lúc đó, Ta đáp:
“Ông là kẻ vô trí! Đã là A-la-hán thì vì lý do gì lại có tâm sân hận và ganh tị? Chẳng lẽ Ta là A-la-hán lại có tâm sân hận và ganh tị ư? Hơn nữa, ông tự cho vị ấy là A-la-hán nhưng trên thực tế thì ông ta có bảy pháp khổ hạnh và luôn luôn giữ gìn. Những gì là bảy? (1) Trọn đời không mặc xiêm y; (2) Trọn đời không uống rượu, ăn thịt, chẳng ăn cơm và mì khô; (3) Suốt đời không phạm Phạm hạnh. (4,5,6,7) Ở thành Tỳ-xá-ly có bốn tháp đá, đó là: Phương Đông có Ưu Viên tháp, phương Nam có Tượng tháp, phương Tây có Đa Tử tháp, phương Bắc có Thất Tụ tháp; đối với bốn tháp này, trọn đời không rời khỏi để làm bốn thứ khổ hạnh.”
Nhưng ông ta về sau lại phạm hết bảy điều khổ hạnh trên và đã thác ở ngoài thành Tỳ-xá-ly. Ví như con dã can mắc bệnh ốm yếu, lở lói và thác ở ngoài gò mả. Vị Ni-kiền-tử ấy cũng thế, ông ta đã tự tạo ra những pháp cấm, thế rồi sau lại phạm cả.
Ông ta trước đã tự thề trọn đời không mặc y phục nhưng về sau lại mặc. Ông ta đã tự thề trọn đời không uống rượu, ăn thịt, không ăn cơm và mì khô nhưng về sau lại ăn cả. Ông ta đã tự thề không phạm Phạm hạnh nhưng về sau lại phạm. Trước đó ông ta nói: Không bao giờ vượt qua bốn tháp như Đông, Ưu Viên tháp; Nam, Tượng tháp; Tây, Đa Tử tháp; Bắc, Thất Tụ tháp nhưng nay ông ta đã trái với lời thề trên, và rời khỏi không còn thân cận nữa. Ông ta đã tự trái với bảy lời thề trên, đã ra khỏi thành Tỳ-xá-ly và thác ở ngoài gò mả.
Ta bảo Thiện Túc:
“Ông là kẻ vô trí! Nếu ông không tin lời Ta thì nên đi đến đó xem là tự nhiên sẽ biết.”
Phật bảo Phạm chí:
– Có một thời, Tỳ-kheo Thiện Túc đắp y, mang bát vào thành khất thực, khi khất thực xong lại ra khỏi thành, đến nơi mồ hoang, thấy Ni-kiền-tử đã thác tại đó. Khi thấy xong, Thiện Túc đến nơi Ta ngự, đầu mặt đảnh lễ dưới chân và ngồi xuống một bên nhưng không đem sự kiện trên trình bày với Ta.
Phạm chí nên biết, bấy giờ Ta nói với Thiện Túc:
“Thế nào Thiện Túc, Ta đã dự ký về Ni-kiền-tử, sự việc có đúng như lời Ta nói không?”
“Đúng như vậy, đúng như lời Thế Tôn đã nói!”
Phạm chí nên biết, Ta đã hiện thần thông để chứng minh cho Thiện Túc nhưng mà Thiện Túc vẫn nói Thế Tôn không vì con mà hiện thần thông.
Lại nữa, có một thời Ta ngự tại ấp Bạch Thổ thuộc nước Minh-ninh, bấy giờ có một vị Ni-kiền-tử tên là Cứu-la-đế hiện đang cư ngụ tại đó, được mọi người tôn kính, danh tiếng đồn xa, được nhiều lợi dưỡng. Bấy giờ, Ta đắp y, mang bát vào thành khất thực, khi khất thực xong, Thiện Túc lúc đó đi theo sau Ta, vừa thấy Ni-kiền-tử Cứu-la-đế ở trên đống phẩn, lén liếm bã rượu.
Phạm chí nên biết khi Tỳ-kheo Thiện Túc thấy vị Ni-kiền-tử ấy ở trên đống phẩn, lén liếm bã rượu, liền có ý nghĩ sau đây: “Có hàng A-la-hán hướng và A-la-hán đạo ở thế gian, đều không bằng được vị Ni-kiền-tử này, vì đạo của vị Ni-kiền-tử này thật là thù thắng. Vì sao? Vì vị ấy tu khổ hạnh mới có thể trừ được tâm kiêu mạn như thế mà ở trên đống phẩn, lén liếm bã rượu.”
Này Phạm chí, lúc đó Ta xoay lại bên hữu và bảo Thiện Túc:
“Ông là kẻ vô trí, đâu có thể tự xưng là Thích tử được.” Thiện Túc bạch Ta: “Thưa Thế Tôn, vì lý do gì Ngài gọi con là kẻ vô trí và không nên tự xưng là Thích tử?” Ta bảo Thiện Túc: “Ông là kẻ vô trí, vì khi ông thấy Cứu-la-đế ngồi xổm trên đống phẩn, lén liếm bã rượu, ông bèn nghĩ rằng: ‘Trong các hàng A-la-hán hướng và A-la-hán đạo ở thế gian thì Cứu-la-đế là cao cả hơn hết. Vì sao? Vì hiện nay Cứu-la-đế này có thể tu khổ hạnh, trừ được kiêu mạn, như ngồi xổm trên đống phẩn, lén liếm bã rượu’, thật ông có ý nghĩ như vậy không?”
“Thật con có nghĩ như vậy!”
Thiện Túc nói tiếp: “Tại sao đức Thế Tôn đối với vị A-la-hán mà còn sanh tâm ganh tị?”
Ta bảo:
“Ông là người vô trí! Ta không bao giờ sanh tâm ganh ghét đối với một vị A-la-hán. Và làm gì có vấn đề đối với vị A-la-hán mà sanh tâm ganh ghét? Nay ông là kẻ vô trí nên cho rằng Cứu-la-đế là A-la-hán. Người này sau bảy ngày nữa sẽ mắc bệnh bụng to mà qua đời và sẽ sanh vào loài ngạ quỷ khởi thi, thường khổ sở vì đói khát. Hơn nữa, sau khi ông ta mạng chung thì được dùng dây lau và dây tơ bó lại rồi lôi vất ngoài gò mả. Nếu ông không tin thì có thể đi đến báo trước cho ông ta.”
Bấy giờ, Thiện Túc liền đi đến chỗ Cứu-la-đế và nói: “Sa-môn Cù-đàm bảo rằng: ‘Sau bảy ngày nữa, ông sẽ mắc bệnh bụng to mà qua đời và sẽ sanh vào loài ngạ quỷ khởi thi, nhất là sau khi thác, người ta dùng dây lau, dây tơ bó lại rồi lôi vất ngoài gò mả.’”
Thiện Túc nói tiếp: “Ông nên bớt ăn, chớ để lời nói của Cù-đàm đúng sự thật.”
Phạm chí nên biết, bấy giờ Cứu-la-đế đến hết bảy ngày thì bụng to và thác, liền sanh vào loài ngạ quỷ khởi thi, đồng thời khi thác xong, người ta dùng dây lau, dây tơ bó lại rồi lôi vất ngoài gò mả.
Sau khi nghe Phật nói xong, Thiện Túc co lóng tay tính từng ngày, khi đến hết ngày thứ bảy thì Thiện Túc liền đi đến thôn của kẻ lõa hình, khi đến xong, Thiện Túc hỏi những người trong thôn rằng: “Này chư Hiền, Cứu-la-đế nay ở đâu?”
“Đã chết rồi!”
“Do bệnh gì mà chết?”
“Bụng to!”
“Việc mai táng thế nào?”
“Dùng dây lau, dây tơ bó lại rồi lôi vất xác ngoài gò mả.”
Này Phạm chí, khi Thiện Túc nghe lời này, liền đi đến gò mả. Sắp đến, nhưng chưa đến thì lúc đó, chân, đầu gối của tử thi liền động đậy và bỗng nhiên ngồi nhổm dậy.
Khi ấy, Thiện Túc đến trước tử thi và nói:
“Này Cứu-la-đế! Ông đã chết rồi ư?”
“Ta đã chết rồi.”
“Do bệnh gì mà chết?”
“Cù-đàm dự ký bảy ngày bụng to và chết, ta đúng như lời dự ký của Ngài, là hết bảy ngày bụng to và chết.”
“Ông sanh về đâu?”
“Cù-đàm đã dự ký sẽ sanh vào loài ngạ quỷ khởi thi, đúng là sau khi chết, ta đã sanh vào loài ngạ quỷ khởi thi.”
“Khi ông chết thì việc chôn cất như thế nào?”
“Cù-đàm dự ký là dùng dây lau, dây tơ trắng bó lại rồi lôi vất ngoài gò mả. Thật đúng như lời của Phật, là dùng dây lau, dây tơ trắng bó lại rồi lôi vất ngoài gò mả.”
Tử thi lúc đó nói với Thiện Túc rằng:
“Ông tuy là xuất gia nhưng không được lợi lạc gì, vì Sa-môn Cù-đàm đã nói việc này như thế mà ông không tin.”
Khi nói xong lời này, tử thi nằm lại như cũ.
Này Phạm chí, bấy giờ Tỳ-kheo Thiện Túc đi đến chỗ Ta ngự, đầu mặt đảnh lễ dưới chân và ngồi xuống một bên nhưng không đem sự kiện trên trình bày với Ta. Ta nói:
“Như Ta đã dự ký về Cứu-la-đế, có thật như vậy không?”
“Thật vậy, đúng như lời Thế Tôn đã nói.”
Này Phạm chí, Ta thường vì Tỳ-kheo Thiện Túc mà hiện thần thông để chứng minh như thế nhưng Thiện Túc vẫn nói rằng: “Thế Tôn không vì con mà hiện thần thông.”
Phật bảo Phạm chí:
– Có một thời Ta ngự trên nhà giảng, bên ao Nhĩ Hầu, lúc đó có Phạm chí tên là Ba-lê-tử đang sống ở đấy, mọi người đều tôn kính, danh tiếng đồn xa, có nhiều lợi dưỡng. Phạm chí này ở giữa đại chúng, trong thành Tỳ-xá-ly nói như sau: “Sa-môn Cù-đàm tự xưng có trí tuệ, ta cũng có trí tuệ. Sa-môn Cù-đàm tự xưng có thần túc, ta cũng có thần túc. Sa-môn Cù-đàm được đạo siêu việt, ta cũng được đạo siêu việt. Ta sẽ cùng Sa-môn Cù-đàm hiện thần túc. Sa-môn hiện một, ta sẽ hiện hai; Sa-môn hiện hai, ta sẽ hiện bốn; Sa-môn hiện tám, ta sẽ hiện mười sáu; Sa-môn hiện mười sáu, ta sẽ hiện ba mươi hai; Sa-môn hiện ba mươi hai thì ta sẽ hiện sáu mươi bốn. Tùy theo Sa-môn hiện nhiều hay ít, ta đều hiện gấp đôi.”
Này Phạm chí, bấy giờ Tỳ-kheo Thiện Túc đắp y, mang bát vào thành khất thực, trông thấy Phạm chí Ba-lê ở giữa đại chúng nói như vầy: “Sa-môn Cù đàm tự xưng có trí tuệ, ta cũng có trí tuệ. Sa-môn Cù-đàm tự xưng có thần túc, ta cũng có thần túc. Sa-môn Cù-đàm được đạo siêu việt, ta cũng được đạo siêu việt. Và ta sẽ cùng Cù-đàm hiện thần túc. Như Sa-môn hiện một, ta sẽ hiện hai, Sa-môn hiện hai, ta sẽ hiện bốn, Sa-môn hiện tám cho đến tùy theo Sa-môn hiện nhiều hay ít thì ta đều có thể hiện gấp đôi.”
Bấy giờ, Tỳ-kheo Thiện Túc sau khi khất thực xong, đi đến chỗ Ta ngự, đầu mặt đảnh lễ, rồi ngồi xuống một bên và nói với Ta:
“Vào sáng sớm, con đắp y, mang bát vào thành khất thực, nghe ông Ba-lê-tử ở giữa đại chúng, trong thành Tỳ-xá-ly, nói như sau: ‘Sa-môn Cù-đàm có đại trí tuệ, ta cũng có đại trí tuệ. Sa-môn Cù-đàm có thần túc, ta cũng có thần túc. Như Cù-đàm hiện một, ta sẽ hiện hai. Cho đến tùy theo Cù-đàm hiện nhiều hay ít thì ta đều hiện gấp đôi.’”
Tỳ-kheo Thiện Túc lúc đó, đem sự kiện này trình bày đầy đủ với Ta.
Ta bảo với Thiện Túc:
“Nếu ông Ba-lê ở giữa đại chúng không bỏ lời nói này, không bỏ kiến giải này, không bỏ sự kiêu mạn này mà đi đến chỗ Ta thì hoàn toàn không có sự kiện ấy.
Nếu ông ta có ý nghĩ như sau: ‘Ta không bỏ lời nói này, kiến giải này và sự kiêu mạn này mà đi đến chỗ Sa-môn Cù-đàm thì đầu ông ấy sẽ vỡ ra làm bảy phần.’
Hơn nữa, muốn cho ông ta không bỏ lời nói này, không bỏ kiến giải này và kiêu mạn này mà có thể đến chỗ Ta thì không có sự kiện ấy.” T
hiện Túc nói:
“Thế Tôn nên giữ lời, Như Lai nên giữ lời.”
Ta bảo Thiện Túc:
“Cớ gì mà ông bảo Thế Tôn nên giữ lời, Như Lai nên giữ lời?”
“Ông Ba-lê có đại oai thần, đại công đức, thoát khỏi đời sau, sẽ không thấy được sự hư dối của Thế Tôn ư?”
Ta bảo Thiện Túc: “Như Lai có thường nói hai lời không?”
“Thưa không!”
“Nếu Như Lai không nói hai lời thì cớ gì ông lại nói Thế Tôn nên giữ lời, Như Lai nên giữ lời?”
Thiện Túc bạch:
“Thế Tôn tự biết ông Ba-lê-tử hay vì chư thiên đến nói?”
“Ta tự biết, chư thiên cũng đến nói, cho nên biết. Về trường hợp Đại tướng A-do-đà trong thành Tỳ-xá-ly này chết rồi sanh lên trời Đao-lợi, và Tướng A-do-đà đến nói với Ta như sau: ‘Ông Phạm chí Ba-lê-tử chẳng biết hổ thẹn, phạm giới vọng ngữ, ở giữa đại chúng trong thành Tỳ-xá-ly, nói lời chê bai như thế này: ‘Đại tướng A-do-đà chết rồi sẽ sanh trong loài quỷ khởi thi’ nhưng thật ra tôi chết rồi được sanh lên trời Đao-lợi.’ Về việc ông Ba-lê-tử thì Ta tự biết trước và chư thiên cũng đến nói, cho nên biết.”
“Này Thiện Túc, kẻ vô trí, ông không tin lời Ta thì vào thành Tỳ-xá-ly, tùy ông muốn nói gì thì nói, và khi thọ trai xong Ta sẽ như lời mà đến chỗ ông Phạm chí Ba-lê-tử.”
Phật bảo Phạm chí:
– Khi ấy, Thiện Túc đợi đến hôm sau, đắp y, mang bát vào thành khất thực, và hướng về những chúng Bà-la-môn, Sa-môn, Phạm chí nói đầy đủ những lời này: “Ông Phạm chí Ba-lê-tử ở trong đại chúng nói những lời như vầy: ‘Sa môn Cù-đàm có đại trí tuệ, ta cũng có đại trí tuệ. Sa-môn Cù-đàm có đại oai lực, ta cũng có đại oai lực. Sa-môn Cù-đàm có đại thần túc, ta cũng có đại thần túc. Sa-môn hiện một, ta sẽ hiện hai, cho đến tùy theo Sa-môn hiện bao nhiêu thì ta đều sẽ hiện gấp đôi.’ Thế nên, nay Sa-môn Cù-đàm muốn đến chỗ của ông Ba-lê-tử, vậy mọi người có thể đi đến đó.”
Bấy giờ, Phạm chí Ba-lê-tử đang đi trên đường, Thiện Túc trông thấy, vội đi đến chỗ ông Ba-lê-tử và nói:
“Ông ở giữa đại chúng trong thành Tỳ-xá-ly nói như thế này: ‘Sa-môn Cù đàm có đại trí tuệ, ta cũng có đại trí tuệ. Nhẫn đến Sa-môn Cù-đàm hiện bao nhiêu thần túc, tùy theo đó, ta đều có thể hiện gấp đôi.’ Cù-đàm nghe lời này rồi, nay muốn đến chỗ ông, vậy ông nên mau trở về.”
“Ta sẽ về! Ta sẽ về!”
Khi ông nói xong lời này, lại tự hoảng sợ, lông tóc đều dựng ngược, chẳng dám về chỗ của mình mà đến trong rừng của Phạm chí Đạo-đầu-ba ngồi trên giường dây, buồn rầu mê loạn.
Phật bảo Phạm chí:
– Sau khi thọ trai xong, Ta cùng với nhiều chúng Lệ-xa, Sa-môn, Bà-la môn, Phạm chí, Cư sĩ đi đến chỗ ở của ông Ba-lê-tử; Ta tiến đến chỗ ngồi và an tọa tại đấy. Ở trong chúng kia có ông Phạm chí tên là Giá-la. Bấy giờ, mọi người đều gọi Giá-la và bảo:
“Ông đến trong rừng Đạo-đầu nói với ông Ba-lê-tử rằng: ‘Nay bao nhiêu chúng Lệ-xa, Sa-môn, Bà-la-môn, Phạm chí, Cư sĩ đều tập hợp cả nơi rừng của ông, mọi người cùng nhau bàn luận như sau: ‘Ông Phạm chí Ba-lê-tử ở trong đại chúng tự nói rằng: Sa-môn Cù-đàm có đại trí tuệ, ta cũng có đại trí tuệ, cho đến tùy theo Cù-đàm hiện bao nhiêu thần túc, ta đều có thể hiện gấp đôi.’ Cho nên Sa-môn Cù-đàm đi đến trong rừng của ông, ông nên trở về xem.’”
Khi Giá-la nghe mọi người nói xong, liền đi đền rừng Đạo-đầu đó, nói với ông Ba-lê-tử rằng:
“Nhiều chúng Lệ-xa, Sa-môn, Bà-la-môn, Phạm chí, Cư sĩ đều nhóm họp nơi rừng của ông, mọi người cùng nhau bàn luận như sau: ‘Ông Phạm chí Ba lê-tử ở trong đại chúng tự nói lời này: ‘Sa-môn Cù-đàm có đại trí tuệ, ta cũng có đại trí tuệ; cho đến Sa-môn Cù-đàm hiện thần túc bao nhiêu, tùy theo đó ta sẽ hiện gấp đôi.” Cù-đàm hiện ở trong rừng của ông, vậy nay ông nên trở về.”
Bấy giờ, Phạm chí Ba-lê-tử liền trả lời với Giá-la rằng:
“Sẽ về, ta sẽ về!”
Khi nói xong lời này, ở trên giường dây xoay trở không yên; bấy giờ dường như giường dây dính chặt vào chân ông, khiến ông không thể rời khỏi giường, huống nữa là đi đến chỗ Thế Tôn.
Khi ấy, Giá-la nói với Ba-lê-tử:
“Ông chính là kẻ vô trí, chỉ có lời nói suông là ‘sẽ về, sẽ về!’ Tự mình còn không thể rời khỏi giường dây này thì làm gì có thể đi đến được chỗ của đại chúng?”
Quở trách ông Ba-lê-tử rồi, Giá-la liền trở về chỗ đại chúng và nói:
“Tôi đem những lời của mọi người nói với ông Ba-lê-tử, và ông ta nói với tôi là ‘sẽ về, sẽ về’ và liền ở trên giường dây chuyển động toàn thân nhưng giường lại dính chân, không thể rời khỏi thì làm gì có thể đi đến với đại chúng đây?”
Bấy giờ, ông Lệ-xa-đầu-ma ngồi ở trong đại chúng, liền từ tòa đứng dậy, trịch áo bày vai hữu, quỳ xuống chắp tay mà bạch đại chúng:
“Đại chúng nên đợi một lát, nay tôi sẽ đi đến đó, đem ông Ba-lê-tử về.”
Phật nói:
“Lúc ấy, Ta bảo Lệ-xa-đầu-ma rằng: ‘Ông ta nói lời như thế, bảo thủ kiến chấp như thế, khởi kiêu mạn như thế mà muốn khiến ông ta đi đến chỗ Phật thì không có sự kiện này.’
Này Đầu-ma, dù ông lấy dây buộc nhiều vòng, cho bầy trâu chung kéo, làm cho thân ông ta tan nát nhưng ông ấy cũng nhất định không thể bỏ lời nói như thế, kiến chấp như thế, kiêu mạn như thế để đi đến chỗ Ta, nếu không tin lời Ta thì ông nên đến đó và sẽ tự biết.”
Bấy giờ, ông Lệ-xa-đầu-ma đi đến chỗ ông Ba-lê-tử và nói với Ba-lê-tử rằng: “Nhiều chúng Lệ-xa, Sa-môn, Bà-la-môn, Phạm chí, Cư sĩ đều nhóm họp tại rừng của ông, mọi người đều bàn luận với nhau như sau: ‘Ông Phạm chí Ba-lê-tử ở trong đại chúng tự nói thế này: ‘Sa-môn Cù-đàm có đại trí tuệ, ta cũng có đại trí tuệ; cho đến Sa-môn Cù-đàm hiện thần túc, tùy theo nhiều hay ít, ta đều hiện gấp đôi.” Sa-môn Cù-đàm hiện đang ở trong rừng của ông, vậy ông nên trở về.”
Lúc ấy, ông Ba-lê-tử liền đáp:
“Sẽ về, sẽ về!”
Khi nói xong lời này, ông ở trên giường dây, toàn thân chuyển động, lúc đó giường dây lại dính vào thân, khiến ông không thể rời khỏi giường dây, huống nữa là đi đến chỗ Thế Tôn.
Bấy giờ, Đầu-ma nói với Ba-lê-tử rằng:
“Ông chính là kẻ vô trí, chỉ có lời nói suông, như nói là ‘sẽ về, sẽ về’ mà chính mình không thể rời khỏi giường dây này thì làm gì có thể đi đến được chỗ đại chúng ư?”
Đầu-ma lại nói với Ba-lê:
“Những người có trí, nhờ thí dụ mà hiểu. Về quá khứ lâu xa, có một con sư tử là vua của loài thú sống ở trong rừng sâu, con sư tử này vào sáng sớm, đầu tiên khi ra khỏi hang là ngó quanh bốn hướng, kêu to ba tiếng, sau đó mới đi dạo và lựa thịt mà ăn.
Này Ba-lê-tử, sư tử vua của loài thú ấy, khi ăn xong trở về rừng, thường có một dã can theo sau sư tử để ăn đồ thừa, nhờ đó khí lực đầy đủ và tự nói: ‘Sư tử trong rừng trên là thứ gì mà có thể hơn ta được. Nay ta có thể đi săn mồi riêng tại một khu rừng.’ Vào sáng sớm, dã can ra khỏi hang, ngó quanh bốn hướng, kêu to ba tiếng, rồi đi dạo và lựa thịt mà ăn.
Sau đó, dã can liền tìm đến một khu rừng và ở riêng tại đó, vào sáng sớm, ra khỏi hang, kêu to ba tiếng, rồi sau mới đi dạo, dù muốn bắt chước tiếng kêu của sư tử nhưng vẫn kêu tiếng dã can. Này Ba-lê-tử, nay ông cũng vậy, nhờ ân đức và oai lực của Phật nên được sống còn ở thế gian, được người đời cúng dường, thế mà nay lại muốn cạnh tranh cùng đức Như Lai.”
Bấy giờ, ông Đầu-ma dùng bài kệ để trách như sau:
Dã can xưng sư tử,
Tự cho là vua thú,
Muốn rống tiếng sư tử,
Lại ra tiếng dã can.
Ở rừng vắng một mình,
Tự cho là vua thú,
Lại ra tiếng dã can.
Quỳ đất tìm hang chuột,
Moi mồ kiếm tử thi,
Muốn rống tiếng sư tử,
Lại ra tiếng dã can.
Đầu-ma bảo tiếp:
“Ông cũng như thế, nhờ ân đức và oai thần của Phật mà được sống còn ở đời, được người cúng dường mà nay lại cạnh tranh cùng đức Như Lai.”
Bấy giờ, ông Đầu-ma dùng bốn thứ thí dụ quở trách Ba-lê-tử rồi lại trở về chỗ đại chúng và nói:
“Tôi đem lời nói của mọi người gọi ông Ba-lê-tử, và ông ta nói với tôi rằng: ‘Sẽ về, sẽ về!’”
Ông ta liền ở trên giường dây chuyển động toàn thân nhưng giường dây dính vào chân, không thể rời khỏi được. Ông ta không thể tự rời khỏi giường dây thì làm gì có thể đến được với đại chúng đây?
Bấy giờ, Thế Tôn bảo ông Đầu-ma rằng:
“Ta trước nói với ông, muốn khiến cho ông Ba-lê-tử đi đến chỗ Phật thì không có sự kiện này. Dù cho ông có lấy dây da buộc nhiều vòng, cho bầy trâu cùng nhau kéo, cho đến thân thể tan nát, Ba-lê-tử cũng không chịu bỏ lời nói như thế, kiến chấp và kiêu mạn như thế để đi đến chỗ Ta.”
Này Phạm chí! Bấy giờ Ta liền cùng với đại chúng trên, nói các thứ pháp, chỉ dạy những điều lợi ích an vui. Ở trong chúng ấy, Ta rống lên tiếng sư tử, rồi thân bay lên hư không, lại trở về chỗ cũ.
Phật bảo Phạm chí:
– Hoặc có Sa-môn hay Bà-la-môn nói rằng: “Tất cả thế gian do Phạm Tự Tại thiên tạo ra”, Ta hỏi họ rằng: “Tất cả thế gian thật do Phạm Tự Tại thiên tạo ra chăng?”
Họ không thể đáp và họ hỏi lại Ta:
“Thưa Cù-đàm, việc này thế nào?”
Ta đáp với họ rằng:
“Hoặc có thế gian, đầu tiên khi hư hoại, có chúng sanh khác thọ mạng và hành nghiệp hết từ cõi Quang Âm thiên qua đời, thác sanh về xứ Không phạm. Ở tại đấy họ bèn khởi ái, sanh tâm đắm nhiễm, lại muốn khiến những chúng sanh khác đến sống nơi đây. Thế rồi những chúng sanh khác thọ mạng và hành nghiệp hết, lại sanh về cõi Không Phạm. Bấy giờ, chúng sanh trên tự nghĩ như vầy: ‘Nay ta là Đại Phạm vương tự nhiên mà có, không ai tạo ra ta, ta có thể thấu suốt được mục đích của các nghĩa, ở nơi ngàn thế giới rất được tự tại, có thể tạo ra, có thể hóa ra, vi diệu thứ nhất, là cha mẹ của con người. Ta trước kia đến đây một mình không có bạn, vì do sức ta nên có chúng sanh này, ta tạo ra chúng sanh này. Những chúng sanh khác cũng lại thuận theo ta, gọi ta là Phạm Vương và tự nhiên có, thấu suốt các nghĩa, ở nơi ngàn thế giới rất được tự tại, có thể tạo ra, có thể hóa ra, vi diệu thứ nhất, là cha mẹ của con người, trước chỉ có một vị, sau đó mới có chúng ta, vị Đại Phạm vương này biến hóa và tạo ra chúng ta.’
Thế rồi những chúng sanh ấy, tùy theo thọ mạng mà qua đời và thác sanh trở lại thế gian này, dần dần lớn lên, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu hành, bèn nhập định Ý tam-muội. Do tâm nhập định nên biết được nơi sanh quán đời trước, và họ nói: ‘Vị Đại Phạm thiên này bỗng nhiên có, không có tác giả (không ai tạo ra), hiểu biết các nghĩa, ở nơi ngàn thế giới vô cùng tự tại, ngài có thể hóa ra, có thể tạo ra, vi diệu bậc nhất, là cha mẹ của con người. Vị Đại Phạm Thiên vương ấy, thường trụ bất biến, là pháp cố định; hơn nữa, chúng ta được Phạm thiên hóa ra là vô thường nên không được tồn tại lâu dài.’”
Này Phạm chí, như vậy, Sa-môn, Bà-la-môn vì nhân duyên ấy nên đều nói: “Phạm Tự Tại thiên tạo ra thế giới này.”
Này Phạm chí, sự tạo ra thế giới này không phải là chỗ Sa-môn biết được, chỉ có Phật mới biết. Và hơn cả sự kiện này, Phật cũng biết hết. Tuy biết nhưng mà không chấp trước; ngay cả khổ, nguyên nhân sanh khổ, sự diệt trừ khổ, sự lôi cuốn, sự tai hại và sự thoát ly chúng, cũng đều biết đúng như thật, do một khi đã quán bình đẳng thì không còn một sự giải thoát nào khác nên gọi là Như Lai.
Phật bảo Phạm chí:
– Như có Bà-la-môn nào nói như sau: “Cười giỡn, biếng nhác là khởi điểm của chúng sanh.” Ta lại nói với họ: “Vì sao các ông cho rằng cười giỡn, biếng nhác thật là khởi điểm của chúng sanh?” Họ không đáp được và hỏi lại Ta: “Thưa Cù-đàm, điều này thế nào?” Ta đáp: “Hoặc có chúng sanh ở cõi Quang Âm thiên, cười giỡn biếng nhác, sau khi thác sanh trở lại thế gian này, dần dần lớn lên, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu hành, nhập định Ý tam-muội. Nhờ năng lực tam-muội nên biết được nơi sanh quán đời trước, và nói thế này: ‘Những chúng sanh khác do không cười giỡn và không vui đùa nên thường ở cõi Quang Âm thiên, thường trụ bất biến. Trái lại, chúng ta vì thường thường cười giỡn và vui đùa nên bị sự vô thường này, là pháp biến dịch.’”
Này Phạm chí, như vậy Sa-môn, Bà-la-môn vì nhân duyên ấy nên nói cười giỡn và vui đùa là khởi điểm của chúng sanh. Như thế, Phật đều biết hết, và hơn cả sự kiện này Phật cũng biết hết; dù biết nhưng không chấp trước, ngay cả khổ, nguyên nhân sanh khởi khổ, sự diệt trừ khổ, sự lôi cuốn, sự tai hại, và sự thoát ly chúng đều biết đúng như thật, cho nên gọi là Như Lai.
Phật bảo Phạm chí:
– Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn nói thất ý là khởi điểm của chúng sanh, Ta nói với họ: “Có phải các ông nói thất ý là khởi điểm của chúng sanh không?” Họ không đáp được và hỏi lại Ta: “Thưa Cù-đàm điều này thế nào?” Ta đáp: “Hoặc có chúng sanh lần lượt trông nhau, và tự mình thất ý, do đó mạng chung nên thác sanh trở lại thế gian này, dần dần lớn lên, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu hành, vào định Ý tam-muội, nhờ sức tam-muội nên biết được nơi sanh quán đời trước, và nói thế này: ‘Như những chúng sanh ấy, do vì không lần lượt trông nhau nên không thất ý, do đó được thường trụ bất biến; trái lại, chúng ta khi ở Quang Âm thiên vì thường thường trông nhau nên tự mình thất ý và bị sự vô thường này là pháp biến dịch.’”
Phạm chí, như vậy Sa-môn, Bà-la-môn trên vì nhân duyên này nên nói thất ý là khởi điểm của chúng sanh; như đây, chỉ có Phật mới biết, và hơn cả việc này Phật cũng biết hết; dù đã biết hết nhưng không chấp trước, ngay cả khổ, nguyên nhân sanh khổ, sự diệt trừ khổ, sự lôi cuốn, sự tai hại và sự thoát ly chúng cũng đều biết đúng như thật; một khi đã quán bình đẳng thì không còn sự giải thoát nào khác, cho nên gọi là Như Lai.
Phật bảo Phạm chí:
– Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn nói: “Ta từ vô nhân sanh”, Ta nói với họ: “Thật có phải các ông nói từ vô nhân sanh không?” Họ liền không đáp được, hỏi ngược lại Ta. Khi ấy Ta bảo: “Hoặc có chúng sanh không tưởng, không có tri giác, hoặc có chúng sanh vừa khởi tưởng là mạng chung, từ đó thác sanh trở lại thế gian này, dần dần lớn lên, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu hành, nhập định Ý tam-muội, nhờ sức tam-muội nên biết được nơi sanh quán đời trước, và nói như vầy: ‘Ta trước đây không có, nay bỗng nhiên có, thế gian này trước thì không, nay thì có, chỉ đây là thật, ngoài ra là giả dối.’”
Này Phạm chí, như vậy, Sa-môn, Bà-la-môn vì nhân duyên ấy nên nói từ vô nhân sanh, chỉ có Phật mới biết được điều này, và hơn cả sự kiện này Phật cũng biết hết; dù biết nhưng không chấp trước, ngay cả khổ, nhân sanh khởi, sự diệt trừ, sự lôi cuốn, sự tai hại và sự thoát ly chúng, cũng đều biết đúng như thật; một khi đã quán bình đẳng thì không còn sự giải thoát nào khác nên gọi là Như Lai.
Phật bảo Phạm chí như thế này:
– Hoặc có Sa-môn, Bà-la-môn ở nơi thanh vắng chê bai Ta rằng: “Sa-môn Cù-đàm tự nói đệ tử của Sa-môn Cù-đàm khi vào được tịnh giải thoát, thành tựu tịnh hạnh, vị đệ tử ấy tự biết mình thanh tịnh nhưng không biết mọi vật đều thanh tịnh.” Nhưng thực ra, Ta không nói là khi đệ tử Ta vào được tịnh giải thoát, thành tựu tịnh hạnh, vị ấy tự biết mình thanh tịnh nhưng không biết mọi vật đều thanh tịnh. Trái lại, này Phạm chí, Ta nói như sau: “Khi đệ tử Ta vào được tịnh giải thoát, thành tựu tịnh hạnh, vị ấy tự biết mình thanh tịnh và biết tất cả đều thanh tịnh.”
Khi ấy, Phạm chí bạch Phật rằng:
– Những hạng người trên sẽ không được lợi lạc, vì họ chê bai Sa-môn Cù đàm, như nói: “Sa-môn Cù-đàm tự nói đệ tử của Sa-môn vào được tịnh giải thoát, thành tựu tịnh hạnh, vị ấy tự biết mình thanh tịnh nhưng không biết tất cả đều thanh tịnh.” Nhưng thật ra, Thế Tôn không nói như thế. Trái lại, Thế Tôn nói: “Đệ tử Ta khi vào được tịnh giải thoát, thành tựu tịnh hạnh, vị ấy tự biết mình thanh tịnh và biết tất cả đều thanh tịnh.”
Lại bạch Phật:
– Con nay cũng sẽ vào tịnh giải thoát này và thành tựu tịnh hạnh, đồng thời tất cả đều thanh tịnh.
Phật bảo Phạm chí:
– Ông muốn vào được tịnh giải thoát đó thì thật là khó. Vì sao? Vì ông đã có kiến giải khác, sự kham nhẫn khác, sự thực hành khác mà muốn dựa vào những kiến giải sai khác ấy để vào được tịnh giải thoát thì khó có thể được. Nhưng chỉ cần khiến cho tâm ưa thích Phật của ông không dứt hẳn, sẽ mãi mãi được an vui.
Bấy giờ, Phạm chí Phòng-già-bà nghe Phật nói pháp xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.