Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 01 »
Kinh Trường A-Hàm
(長阿含經)
(Bản dịch của Trung tâm Dịch thuật Trí Tịnh)
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật ở nước Ma-kiệt-đà,2 phía Bắc thôn Am-bà-la, ngụ trong động Nhân-đà-sa-la,3 thuộc núi Tỳ-đà.4
Bấy giờ, Thích-đề-hoàn-nhân5 phát khởi thiện tâm vi diệu nên muốn đến bái kiến Phật: “Nay ta sẽ đến nơi đức Thế Tôn cư ngụ.”
Khi ấy, chư thiên Đao-lợi nghe Thích-đề-hoàn-nhân phát khởi thiện tâm vi diệu và muốn đến nơi Phật ngụ liền đến chỗ Đế-thích và thưa:
– Lành thay! Đế-thích! Ngài phát khởi thiện tâm vi diệu, muốn đến chỗ Như Lai, chúng tôi rất vui nếu được hầu ngài để cùng đến nơi Thế Tôn cư ngụ.
Lúc đó, Thích-đề-hoàn-nhân liền bảo thần tấu nhạc Bàn-già-dực6 rằng:
– Nay ta muốn đến nơi Thế Tôn ngụ, ông hãy đi cùng ta. Chư thiên Đao-lợi đây sẽ cùng ta đến nơi Phật ngụ.
– Thưa vâng!
Thế rồi, đứng giữa thiên chúng, ở trước mặt Đế-thích, Bàn-già-dực liền cầm đàn lưu ly rồi tấu nhạc cúng dường.
Bấy giờ, trong khoảng thời gian bằng lực sĩ co duỗi cánh tay, Đế-thích, chư thiên Đao-lợi và Bàn-già-dực bỗng nhiên ẩn mất khỏi pháp đường, đến phía Bắc nước Ma-kiệt-đà, trong núi Tỳ-đà.
Bấy giờ, đức Thế Tôn nhập Hỏa diệm tam-muội khiến cho núi Tỳ-đà rực sáng một màu lửa, dân chúng trong nước trông thấy, cùng nói với nhau: “Núi Tỳ-đà này rực sáng một màu lửa, chắc là do năng lực của Như Lai hoặc của chư thiên.”
Lúc đó, Thích-đề-hoàn-nhân bảo Bàn-già-dực:
– Đức Như Lai là bậc Chí Chân, rất khó được gặp. Nay Ngài giáng thế và đang ở nơi vắng vẻ, nhàn tịnh, tĩnh mịch không tiếng động, làm bạn với muông thú, nơi này thường có chư thiên và đại quỷ thần theo hầu đức Thế Tôn. Ông hãy đến trước gảy đàn lưu ly để cúng dường đức Thế Tôn, còn ta và chư thiên sẽ đến sau.
Bàn-già-dực đáp:
– Thưa vâng!
Thế rồi, vâng theo lời dạy, Bàn-già-dực cầm đàn lưu ly đi trước đến chỗ Phật.
Khi cách Phật không xa, ông gảy đàn lưu ly và hát lên bài kệ rằng:
Bạt-đà ơi!
Ta kính lễ cha nàng,
Cha nàng rất đoan nghiêm,
Sanh ra nàng cát tường,
Lòng ta rất yêu thích.
Vốn vì một chút duyên,
Mà tình thương hiện khởi,
Dần dần được lớn mạnh,
Như cúng bậc Ứng Cúng.7
Thích tử tu Tứ thiền,
Thường thích ở chỗ vắng,
Chánh tâm, cầu bất tử,
Chuyên lòng, ta cũng thế.
Thích-ca8 phát đạo tâm,
Mong được thành Chánh giác,
Nay ta cầu tố nữ,
Do muốn được gặp nàng.
Lòng ta đã say đắm,
Ưa thích không thể xa,
Muốn bỏ, không thể bỏ,
Như voi bị giữ chặt.
Như nóng gặp gió mát,
Như khát gặp suối trong,
Như người đạt Niết-bàn,
Như nước dập tắt lửa,
Như bệnh gặp thuốc hay,
Như đói được ăn ngon,
No đủ sanh khoái lạc.
Như pháp với La-hán,
Như voi bị móc câu
Mà lòng không tuân phục,
Rong chạy khó cản ngăn,
Buông lung không dừng nghỉ.
Như hồ nước mát trong,
Dập dềnh hoa mặt nước,
Nóng nực voi tắm hồ,
Toàn thân được mát lạnh.
Ta bố thí trước sau,
Cúng dường các La-hán,
Phước báu tạo trong đời,
Mong cùng nàng chung sống.
Nàng chết ta cũng chết,
Không nàng, sống ích gì,
Dù thân này phải chết,
Sống không thể thiếu nàng.
Chủ chư thiên Đao-lợi,
Đế-thích, chứng nguyện này,
Với sính lễ đủ đầy,
Mong ngài suy xét kỹ.
[0063a16] Bấy giờ, đức Thế Tôn xuất định và bảo Bàn-già-dực rằng:
– Hay thay, hay thay! Ông có thể dùng âm thanh thanh tịnh, hòa điệu với tiếng đàn lưu ly để khen ngợi đức Như Lai. Tiếng đàn và giọng hát của ông không quá trầm quá bổng, hòa quyện nỗi buồn thương da diết, làm cảm động lòng người. Hơn nữa, trong tiếng đàn hòa tấu của ông đong đầy cảm xúc, chuyển tải sự trói buộc của tham dục, đồng thời ngợi khen về Phạm hạnh, về Sa-môn và về Niết-bàn.
Lúc ấy, Bàn-già-dực bạch Phật:
– Thưa Thế Tôn! Con nhớ thuở xưa khi Phật mới thành đạo bên gốc cây A-du-ba-đà Ni-câu-luật,9 bên sông Ni-liên-thiền,10 thuộc xứ Uất-tỳ-la;11 khi đó, có con trai của thiên đại tướng là Thi-hán-đà12 cùng vị ngọc nữ con của thần đánh nhạc đang ở chung một chỗ và chỉ nói về dục lạc. Thấy tâm trạng của họ như thế, con liền làm bài tụng nói về sự trói buộc của dục, đồng thời khen ngợi về Phạm hạnh, về Sa-môn và về Niết-bàn. Nghe xong bài kệ đó, thiên nữ nhướng mắt cười rồi nói với con: “Này Bàn-già-dực, ta chưa từng thấy đức Như Lai nhưng ta đã từng ở trong pháp đường của trời Đao-lợi nghe những chư thiên ấy tán thán đức Như Lai có phước đức như thế, có năng lực như thế. Ông thường giữ vững lòng tin và thân cận đức Như Lai, nay ta muốn làm thiện tri thức với ông.” Bạch Thế Tôn! Sau lần nói chuyện hôm đó đến nay con không còn trò chuyện với nàng nữa.
[0063b02] Khi ấy, Thích-đề-hoàn-nhân suy nghĩ như vầy: “Bàn-già-dực đã làm vui lòng đức Như Lai rồi, ta hãy nghĩ đến người ấy!” Rồi Thiên Đế-thích liền nghĩ đến Bàn-già-dực. Lúc đó, Bàn-già-dực lại khởi niệm như vầy: “Nay Thiên Đế-thích đang nghĩ đến ta.” Lập tức ông cầm đàn lưu ly đến chỗ Đế-thích. Đế-thích bảo: “Ông hãy thay ta và chư thiên Đao-lợi đến thăm hỏi đức Thế Tôn xem Ngài có được mạnh khỏe không? Đi đứng có an lành không?”
Lúc đó, vâng lệnh Đế-thích, Bàn-già-dực liền đến chỗ Thế Tôn ngụ, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật, rồi đứng sang một bên và thưa:
– Bạch Thế Tôn, Thích-đề-hoàn-nhân và chư thiên Đao-lợi sai con đến kính thăm hỏi đức Thế Tôn có được mạnh khỏe không? Đi đứng có an lành không?
Thế Tôn đáp:
– Ta mong cho ông cũng như Đế-thích và chư thiên Đao-lợi được sống lâu, an vui, không có tai họa. Vì sao như vậy? Vì chư thiên, loài người, a-tu-la và những chúng sanh khác đều ham sống lâu, đều thích an vui và không muốn tai họa.
Bấy giờ, Đế-thích suy nghĩ: “Chúng ta hãy đến đảnh lễ và bái kiến đức Thế Tôn.” Nghĩ thế rồi, Đế-thích cùng chư thiên Đao-lợi đi đến chỗ Phật ngụ, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật rồi đứng sang một bên. Đế-thích bạch Phật:
– Bạch Thế Tôn! Không biết nay chúng con có được phép ngồi gần Ngài hay không?
Phật bảo Đế-thích:
– Thiên chúng của ông quá đông, nên chỉ có ông được ngồi gần Ta thôi.
Lúc đó, hang động Nhân-đà-sa-la nơi Thế Tôn ngụ bỗng nhiên rộng rãi, không bị ngăn ngại. Nhờ vậy, Đế-thích cùng chư thiên Đao-lợi và Bàn-già-dực đều đảnh lễ sát chân Phật rồi ngồi sang một bên.
Đế-thích bạch Phật rằng:
– Một thời, Phật ngự tại nhà Bà-la-môn, thuộc nước Xá-vệ. Lúc ấy, đức Thế Tôn đang nhập Hỏa diệm tam-muội, còn con bận chút việc nên lên xe báu ngàn căm đến chỗ Tỳ-lâu-lặc Thiên vương. Khi đi ngang qua hư không, con thấy có một thiên nữ chắp tay đứng trước đức Thế Tôn, nhân đó con liền nói với nàng ấy rằng: “Sau khi đức Thế Tôn xuất định, nàng hãy thay ta thăm hỏi đức Thế Tôn có được khỏe mạnh không, đi đứng có an lành không.” Nhưng rốt cuộc không biết nàng ấy có hiểu được ý của con không và Thế Tôn có còn nhớ sự việc ấy không?
Phật đáp:
– Ta vẫn nhớ! Thiên nữ ấy có đến và đã thay ông thăm hỏi Ta. Đồng thời, khi vừa xuất định Ta vẫn còn nghe tiếng xe của ông.
Đế-thích bạch Phật:
– Thuở xưa, vì có duyên sự nên con và chư thiên Đao-lợi tập hợp tại pháp đường, lúc ấy có những thiên chúng kỳ cựu nói thế này: “Nếu đức Như Lai xuất hiện ở thế gian thì thiên chúng được tăng thêm, chúng a-tu-la sẽ giảm bớt.” Nay con đích thân thấy đức Như Lai, con tự biết rõ và tự xác chứng: “Đức Như Lai, bậc Chí Chân xuất hiện ở thế gian thì thiên chúng được tăng thêm, chúng a-tu-la sẽ giảm bớt.”
Khi ấy, có nữ cư sĩ họ Thích tên là Cù-di13 theo Thế Tôn tịnh tu Phạm hạnh, sau khi thân hoại mạng chung được sanh về cõi trời Đao-lợi, làm con của con. Chư thiên Đao-lợi đều khen ngợi rằng: “Đại thiên tử Cù-di có công đức lớn, có oai lực lớn.” Lại có ba vị Tỳ-kheo khác cũng theo Thế Tôn tịnh tu Phạm hạnh, sau khi thân hoại mạng chung, lại sanh trong hàng các vị thần tấu nhạc thấp kém, hàng ngày đến phụng sự cho con. Cù-di trông thấy họ, liền làm bài kệ để quấy nhiễu:
Ông là đệ tử Phật,
Thuở xưa, ta tại gia,
Cúng dường y, vật thực,
Lễ bái cung kính ông.
Các ông hạng người nào?
Thọ nhận lời Phật dạy,
Giáo pháp đức Tịnh Nhãn,
Mà lại không suy tầm.
Ta đã kính lễ ông,
Từ Phật nghe Thượng pháp,
Được sanh Đao-lợi thiên,
Làm con của Đế-thích.
Sao các ông không thấy,
Những công đức ta làm,
Xưa ta là thân nữ,
Nay con trời Đế-thích.
Ông và ta ngày xưa,
Cùng tu một Phạm hạnh,
Nay ông ở thấp hèn,
Bị chúng tôi sai sử.
Do làm việc xấu ác,
Nên phải thọ quả này,
Phải sống chỗ thấp hèn,
Bị chúng tôi sai sử.
Sanh vào nơi bất tịnh,
Bị người khác quấy rối,
Nghe xong nên nhàm chán,
Chỗ chẳng đáng luyến lưu.
Từ nay nên tinh tấn,
Không bị người sai khiến,
Hai người nên tinh tấn,
Suy tư pháp Như Lai.
Hãy từ bỏ luyến ái,
Xem dục là bất tịnh,
Dục trói, không chân thật,
Dối gạt cả thế gian.
Như voi thoát kiềm tỏa,
Vượt khỏi Đao-lợi thiên,
Đế-thích, Đao-lợi thiên,
Họp ở Thiện Pháp đường,
Họ có sức mạnh mẽ,
Vượt khỏi Đao-lợi thiên,
Đế-thích khen: “Hy hữu!”
Chư thiên cũng đều thấy.
Đây là con họ Thích,
Quán dục là trói buộc,
Vượt khỏi Đao-lợi thiên,
Cù-di nói lời này.
Nước Ma-kiệt có Phật,
Tôn hiệu là Thích-ca,
Con Ngài đã thất niệm,
Về sau được phục hồi.
Một người trong ba người,
Làm vị thần tấu nhạc,
Hai người thấy đạo đế,
Vượt khỏi Đao-lợi thiên.
Pháp Thế Tôn nói ra,
Đệ tử không hoài nghi,
Đều cùng nhau nghe pháp,
Hai người hơn một người.
Việc thù thắng viên thành,
Đã sanh Quang Âm thiên,
Ta thấy việc đó xong,
Liền đến nơi Phật ngự.
Đế-thích bạch Phật:
– Kính xin Thế Tôn bỏ chút thời gian giúp con giải quyết một mối nghi!
Phật bảo:
– Tùy ý ông hỏi, Ta sẽ lần lượt giải thích cho!
Bấy giờ, Đế-thích bạch Phật:
– Chư thiên, loài người, càn-thát-bà, a-tu-la và những chúng sanh khác, tất cả cùng tương ưng với trói buộc gì để rồi đi đến hận thù, dùng dao gậy gây chiến lẫn nhau?
Phật dạy:
– Sở dĩ sanh ra oán kết là đều do lòng tham dục, ganh ghét, nên mới khiến cho chư thiên, loài người, a-tu-la và các chúng sanh khác gây chiến lẫn nhau bằng dao gậy.
Đế-thích lại thưa:
– Thưa Thế Tôn, thật đúng như thế! Oán kết được sanh ra từ lòng bỏn xẻn và sự ganh ghét, nên khiến cho chư thiên, loài người và a-tu-la cùng chúng sanh khác gây chiến với nhau bằng dao gậy như vậy. Nay con nghe lời Phật dạy nên lưới nghi đó đã dứt sạch. Nhưng còn một điều con không hiểu là sự tham muốn và lòng ganh ghét do đâu phát khởi? Do nhân duyên gì? Cái gì làm đầu mối? Từ đâu mà có? Từ đâu mà không?
Phật dạy:
– Tham muốn và ganh ghét được phát sanh đều do thương và ghét. Thương ghét làm nhân duyên, thương ghét làm đầu mối, từ đây mà có, từ đây mà không.
Đế-thích lại thưa:
– Thưa Thế Tôn, thật đúng như vậy! Lòng bỏn xẻn và sự ganh ghét đều do thương ghét mà sanh ra. Thương ghét làm nhân duyên, làm đầu mối, từ đây mà có, từ đây mà không. Nay con nghe Phật nói pháp nên mê lầm nghi ngờ đó đều dứt hết nhưng còn một điều con không hiểu là thương ghét do đâu mà sanh? Do nhân duyên gì? Cái gì làm đầu mối? Từ đâu mà có? Từ đâu mà không?
[0064b01] Phật bảo Đế-thích:
– Do tham dục nên khởi sanh thương ghét. Tham dục làm nhân duyên, làm đầu mối, từ đây mà có. Không có tham dục thì không còn thương ghét.
Thế rồi, Đế-thích bạch Phật:
– Thưa Thế Tôn, thật đúng như thế! Sự phát sanh thương ghét đều do tham dục, tham dục làm nhân duyên, làm đầu mối, từ đây mà có, từ đây mà không, nếu không có tham dục thì không còn thương ghét. Nay con nghe Phật nói pháp nên mê lầm nghi ngờ đó đều đã dứt hết nhưng còn một điều con không biết là tham dục từ đâu sanh? Do nhân duyên gì? Cái gì làm đầu mối? Từ đâu mà có, từ đâu mà không?
Phật bảo Đế-thích:
– Tham dục do tưởng sanh, do tưởng duyên tưởng, nên tưởng làm đầu mối, từ đây mà có, từ đây mà không. Nếu không có tưởng thì không có ái.
– Thưa Thế Tôn, thật đúng như vậy! Tham dục do tưởng sanh, do tưởng duyên tưởng, nên tưởng làm đầu mối, từ đây mà có và cũng từ đây mà không. Nay con nghe Phật nói pháp nên không còn nghi ngờ gì cả. Nhưng có một điều con không hiểu là tưởng do đâu sanh? Do nhân duyên gì? Cái gì làm đầu mối? Từ đâu mà có và từ đâu mà không?
Phật dạy:
– Sự phát sanh của tưởng là do hý luận,14 nhân hý luận, duyên hý luận, hý luận làm đầu mối, từ đây mà có và từ đây mà không; không có hý luận thì không có tưởng, nếu không có tưởng thì không có tham dục, nếu không có tham dục thì không có thương ghét; nếu không có thương ghét thì không có tham lam và ganh ghét; nếu không có tham lam và ganh ghét thì tất cả chúng sanh không giết hại lẫn nhau. Này Đế-thích, do hý luận làm gốc rễ, do hý luận làm nhân duyên, do hý luận làm đầu mối. Từ hý luận mà có tưởng, từ tưởng mà có dục, từ dục mà có thương ghét, từ thương ghét mà có tham lam và ganh ghét, do có tham lam và ganh ghét nên khiến cho chúng sanh tàn hại lẫn nhau.
Đế-thích lại thưa:
– Thưa Thế Tôn, thật đúng như vậy. Do hý luận mà có tưởng, nhân hý luận, duyên hý luận, hý luận làm đầu mối, từ đó mà có tưởng. Do hý luận mà có, không hý luận thì không có. Nếu không có hý luận làm gốc rễ thì không có tưởng, không có tưởng thì không có dục, không có dục thì không có thương ghét, không có thương ghét thì không có tham lam, ganh ghét; không có tham lam, ganh ghét thì hết thảy chúng sanh không tàn hại lẫn nhau. Chỉ do hý luận mà có tưởng, nhân hý luận, duyên hý luận, hý luận làm đầu mối, từ hý luận có tưởng, từ tưởng có dục, từ dục có thương ghét, từ thương ghét có tham lam, ganh ghét; từ tham lam, ganh ghét mà hết thảy chúng sanh tàn hại lẫn nhau. Nay con nghe Phật nói pháp, sự mê lầm đã diệt trừ, không còn nghi ngờ gì nữa.
Đế-thích lại hỏi:
– Có phải tất cả Sa-môn và Bà-la-môn đều có cùng mục đích diệt trừ hý luận?
Hay không cùng mục đích diệt trừ hý luận?
[0064c01] Phật bảo Đế-thích:
– Tất cả Sa-môn và Bà-la-môn đều không cùng mục đích diệt trừ hý luận. Vì sao? Này Đế-thích, vì ở thế gian có nhiều căn cơ và mỗi chúng sanh dựa trên căn cơ của mình, ôm giữ chấp chặt, không thể rời bỏ, đồng thời họ cho đây là thật, ngoài ra đều là hư dối. Thế nên Đế-thích! Tất cả Sa-môn, Bà-la-môn đều không cùng mục đích diệt trừ hý luận.
Đế-thích lại thưa:
– Thưa Thế Tôn, thật đúng như vậy! Ở thế gian có nhiều căn cơ chúng sanh và mỗi chúng sanh dựa trên căn cơ của mình, ôm giữ chấp chặt, không thể rời bỏ, đồng thời họ cho đó là thật, ngoài ra đều là hư dối. Thế nên, tất cả Sa-môn, Bà-la-môn đều không cùng mục đích diệt trừ hý luận. Nay con nghe Phật dạy, những sự nghi ngờ đều dứt sạch cả.
Đế-thích lại bạch Phật:
– Có bao nhiêu cách diệt trừ hý luận?
Phật dạy Đế-thích:
– Hý luận có ba: Một là miệng, hai là tưởng và ba là mong cầu. Lời nói thuộc nghiệp của miệng, đôi khi hại mình, hại người và hại cả hai. Sau khi xả bỏ những lời nói ấy rồi thì chỉ nói những gì không gây tổn hại cho mình, không gây tổn hại cho người và không hại cả hai. Tỳ-kheo biết nói đúng thời, nói đúng như những điều được nói, chuyên niệm không tán loạn. Tưởng cũng có tự hại, hại người và hại cả hai. Sau khi xả bỏ những tưởng này rồi thì chỉ tưởng những gì không hại mình, không hại người và không hại cả hai. Tỳ-kheo biết tưởng đúng lúc, chỉ tưởng những gì đáng tưởng, chuyên niệm không tán loạn. Đế-thích! Mong cầu cũng có hại mình, hại người và hại cả hai. Sau khi xả bỏ sự mong cầu ấy, chỉ mong cầu những gì không có hại mình, không hại người và không hại cả hai. Tỳ-kheo biết mong cầu đúng lúc, chỉ mong cầu những gì đáng mong cầu, chuyên niệm không tán loạn.
Lúc bấy giờ, Đế-thích thưa:
– Lòng con không còn nghi ngờ về những điều đó khi nghe Phật dạy. Thưa Thế Tôn! Có bao nhiêu tên gọi về xả tâm của bậc Hiền thánh?
Phật dạy:
– Xả tâm có ba: Một là hỷ thân, hai là ưu thân và ba là xả thân. Đế-thích! Hỷ thân cũng có hại mình, hại người và hại cả hai. Sau khi xả bỏ hỷ ấy, chỉ thực hiện hỷ thân đúng như thật, không hại mình, hại người và hại cả hai. Tỳ-kheo biết đúng thời, chuyên niệm không quên, liền được gọi là thọ giới Cụ túc.
Đế-thích! Ưu thân cũng có hại mình, hại người và hại cả hai. Sau khi xả bỏ sự ưu ấy, chỉ thực hiện ưu đúng như thật, không có hại mình, hại người và hại cả hai. Tỳ-kheo biết đúng thời, chuyên niệm không quên, liền được gọi là thọ giới Cụ túc.
Đế-thích! Xả thân cũng có hại mình, hại người và hại cả hai. Sau khi xả bỏ xả thân ấy, như điều được xả, không có hại mình, hại người và hại cả hai. Tỳ-kheo biết đúng thời, chuyên niệm không quên, liền được gọi là thọ giới Cụ túc.
[0065a03] Bấy giờ, Đế-thích bạch Phật:
– Lòng con không còn hồ nghi về những điều đó khi nghe Phật dạy. Thưa Thế Tôn! Theo luật nghi của Hiền thánh, thế nào gọi là các căn đầy đủ?
Phật dạy:
– Mắt thấy sắc, Ta nói có hai: Đáng thân cận và không đáng thân cận. Cho đến tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý duyên pháp trần cũng đều như vậy.
Khi đó, Đế-thích bạch Phật:
– Thưa Thế Tôn, đức Như Lai chỉ nói sơ lược, chưa phân biệt sâu rộng. Theo sự hiểu biết đầy đủ của con thì như thế này: “Mắt thấy sắc, ta nói có hai, đáng thân cận và không đáng thân cận; cho đến tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý duyên pháp trần cũng đều như vậy.” Bạch Thế Tôn, nếu mắt thấy sắc mà pháp thiện giảm bớt, pháp bất thiện tăng thêm thì đối với mắt thấy sắc như thế, con nói không đáng thân cận; cho đến tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý duyên pháp trần mà pháp thiện tổn giảm, pháp bất thiện tăng thêm thì con nói không đáng thân cận. Bạch Thế Tôn, nếu mắt thấy sắc mà pháp thiện tăng trưởng, pháp bất thiện tổn giảm thì mắt thấy sắc như thế, con nói là đáng thân cận; cho đến tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý duyên pháp trần mà pháp thiện tăng trưởng, pháp bất thiện tổn giảm thì con nói là đáng thân cận.
Phật khen Đế-thích:
– Hay thay, hay thay! Đó gọi là các căn đầy đủ, theo luật nghi của Hiền thánh.
Đế-thích lại thưa:
– Lòng con không còn hồ nghi về những điều đó khi nghe Phật dạy. Thưa Thế Tôn! Thế nào gọi là sự rốt ráo của Tỳ-kheo, rốt ráo Phạm hạnh, rốt ráo an ổn hay là rốt ráo Niết-bàn?
Phật dạy:
– Sự khổ là do ái, nếu thân chấm dứt được15 thì gọi là rốt ráo, rốt ráo Phạm hạnh, rốt ráo an ổn và rốt ráo Niết-bàn.
Đế-thích thưa:
– Con từ lâu ôm ấp lưới nghi, nay đã được đức Như Lai tháo gỡ mối nghi đó rồi.
Phật hỏi Đế-thích:
– Ngày xưa, ông đã từng đến chỗ của Sa-môn, Bà-la-môn để hỏi về nghĩa này chưa?
Đế-thích đáp :
– Thưa Thế Tôn! Con còn nhớ thuở xưa, đã từng đến nơi [các] Sa-môn, Bà-la-môn để hỏi về nghĩa này rồi. Trước đó, con đã từng tập hợp chư thiên tại giảng đường rồi cùng chư thiên đàm luận về việc đức Như Lai đang xuất hiện ở thế gian hay là chưa xuất hiện ở thế gian? Lúc đó, chúng con cũng suy tìm nhưng không thấy đức Như Lai thị hiện ở đời. Cho nên chúng con đều quay về cung hưởng vui năm thứ dục.
Bạch Thế Tôn, về sau con lại thấy các đại thiên thần mặc tình vui với năm thứ dục, rồi lần lượt mạng chung. Bạch Thế Tôn, khi đó con rất sợ hãi, đến nỗi toàn thân sởn gai ốc. Lúc ấy, con thấy các Sa-môn, Bà-la-môn ở nơi thanh vắng, bỏ nhà lìa tục, con liền đến hỏi: “Thế nào gọi là cứu cánh?” Khi con hỏi về ý nghĩa ấy thì họ không đáp được. Họ đã không biết mà còn hỏi ngược lại con: “Ông là ai?” Con liền đáp: “Tôi là Thích-đề-hoàn-nhân.” Họ lại hỏi: “Ông là Thích gì?” Con đáp: “Tôi là Thiên Đế-thích, vì trong lòng có mối nghi nên đến thưa hỏi.”
Khi đó, con và họ, cứ theo sự hiểu biết của mình mà nói về ý nghĩa chữ Thích. Họ nghe con nói xong, lại xin làm đệ tử của con. Nay con là Phật tử được quả vị Tu-đà-hoàn, không còn đọa vào cõi khác, chỉ còn sanh lại cõi này bảy lần thì nhất định sẽ thành tựu đạo quả. Cúi xin đức Thế Tôn hãy thọ ký cho con sẽ được quả Tư-đà-hàm!
Thưa xong, Đế-thích làm bài tụng:
Do tưởng nhiễm ô ấy,
Nên con sanh hồ nghi,
Mãi cùng với chư thiên,
Tìm kiếm đức Như Lai.
Thấy những bậc xuất gia
Thường ở nơi thanh vắng,
Cho là Phật, Thế Tôn
Nên đến cúi đầu thưa,
Nay tôi muốn đến hỏi
Thế nào là cứu cánh?
Hỏi, họ đáp không được,
Đường về nẻo Đạo tích.16
Đấng Vô Thượng hôm nay,
Từ lâu con tìm cầu,
Đã quán sát, hành trì,
Tâm đã chánh tư duy.
Bậc Thánh luôn liễu tri,
Sở hành của tâm con,
Ngày đêm siêng tu tập,
Xin Ngài hãy thọ ký.
Kính lễ đức Thế Tôn,
Đấng siêu việt ba cõi,
Bậc dứt gai ân ái,
Đảnh lễ Tuệ Quang Tôn.
Phật hỏi Đế-thích:
– Ông còn nhớ khi được hỷ lạc và niệm lạc không?
Đế-thích đáp:
– Bạch Thế Tôn, đúng như vậy, con còn nhớ lúc được hỷ lạc và niệm lạc. Thưa Thế Tôn! Thuở xưa con từng đánh nhau với a-tu-la, lúc đó con thắng, a-tu-la thua. Lúc trở về, con được hỷ lạc và niệm lạc, đồng thời ghi nhớ mãi hỷ lạc và niệm lạc ấy. Tuy nhiên, đấy chỉ là hỷ lạc và niệm lạc dao gậy, ác độc và nhơ uế, vì hỷ lạc về đấu tranh, cãi vã. Nay con ở nơi Phật ngự được hỷ lạc và niệm lạc là niềm vui không có dao gậy và sự tranh tụng.
Phật hỏi Đế-thích:
– Nay ông được hỷ lạc và niệm lạc thì ở trong hai pháp đó muốn cầu quả đức gì?
[0065c01] Đế-thích thưa:
– Trong hỷ lạc và niệm lạc, nay con muốn cầu năm công đức. Những gì là năm?
Liền nói kệ rằng :
Nếu đến lúc mạng chung,
Phải xả bỏ tuổi trời,
Trong thai không lo buồn,
Khiến lòng con vui vẻ.
Phật độ người chưa độ,
Hay nói đạo chánh chân,
Trong pháp Phật ba đời
Con thường tu Phạm hạnh.
Ở trong thân trí tuệ
Tâm tự thấy chơn đế,
Thấy được xu hướng xưa,
Ở đây giải thoát mãi.
Con phải siêng tu hành,
Tu tập chân thật trí,
Dù không chứng được đạo,
Công đức cũng hơn trời.
Bao nhiêu thần diệu thiên,
Và A-ca-ni-trá,17
Cho đến thân sau cùng,
Sẽ sanh về cõi ấy.
Nay con ở cõi này,
Thọ thân trời thanh tịnh
Và được tăng tuổi thọ,
Tịnh Nhãn, con tự biết.
Nói kệ xong, Đế-thích bạch Phật:
– Trong hỷ lạc và niệm lạc đó, con muốn được năm công đức như thế.
Khi ấy, Đế-thích nói với chư thiên Đao-lợi: “Xưa, các ông ở trước đứa bé Phạm thiên trên cõi trời Đao-lợi, cung kính lễ bái. Nay ở trước Phật, các ông lại cung kính như vậy thì không tốt lắm sao?” Khi Đế-thích nói chưa dứt lời, đứa bé Phạm thiên bỗng nhiên xuất hiện giữa hư không, đứng trên thiên chúng hướng về Đế-thích và nói bài kệ:
Thiên vương hạnh thanh tịnh,
Nhiều lợi ích chúng sanh,
Ma-kiệt, Đế-thích chủ,
Hay hỏi nghĩa Như Lai!
Đứa bé Phạm thiên nói bài kệ này xong liền biến mất. Lúc đó, Đế-thích liền rời khỏi tòa đến đảnh lễ sát chân Thế Tôn, nhiễu quanh ba vòng rồi lui ra. Chư thiên Đao-lợi, Bàn-già-dực cũng đảnh lễ sát chân Phật rồi lui ra.
Khi ấy, Đế-thích đi trước quay lại nói với Bàn-già-dực: “Hay thay, hay thay! Ông đã đến trước, gảy đàn làm vui lòng đức Thế Tôn. Sau đó, ta và chư thiên mới đến. Nay ta sẽ cất nhắc ông vào chức vị của cha ông là bậc tối thượng trong hàng càn-thát-bà, đồng thời sẽ gả nàng Bạt-đà, con gái của vua Càn-thát-bà làm vợ ông.”
Khi đức Thế Tôn nói pháp này, có tám mươi bốn ngàn chư thiên rũ sạch trần cấu, được pháp nhãn thanh tịnh.
Sau khi nghe Phật dạy xong, Đế-thích, chư thiên Đao-lợi và Bàn-già-dực đều hoan hỷ phụng hành.18
Chú thích
1 Nguyên tác: Thích-đề-hoàn-nhân vấn kinh 釋提桓因問經 (T.01. 0001.14. 0062b28). Tham chiếu: Phật thuyết Đế-thích sở vấn kinh 佛說帝釋所問經 (T.01. 0015. 0246b03); Thích vấn kinh 釋問經 (T.01. 0026.134. 0632c27); D. 21, Sakkapañha Sutta (Kinh Đế-thích sở vấn).
2 Ma-kiệt quốc (摩竭國, Magadhā). Xem chú thích 5, kinh số 2, tr. 517.
3 Nhân-đà-sa-la quật (因陀娑羅窟, Indasālaguhā), hang động ở núi Tỳ-đà, thuộc phía Đông thành Vương Xá.
4 Tỳ-đà sơn (毘陀山, Vediya).
5 Thích-đề-hoàn-nhân (釋提桓因, Sakka devānam indra) còn gọi Đế-thích (帝釋), Thiên đế (天帝), là chủ của cõi trời Ba Mươi Ba (三十三天), tức cõi trời Đao-lợi (忉利天).
6 Bàn-già-dực (般遮翼, Pañcasikha) còn gọi Bát-già-tuần (般遮旬), Bát-già-vu-tuần (般遮于旬), là một vị nhạc thần càn-thát-bà (乾闥婆, gandhabba).
7 Nguyên tác: La-hán (羅漢). Theo Đại trí độ luận 大智度論 (T.25. 1509.3. 0082b28), trong 3 nghĩa của bậc A-la-hán có một nghĩa Ứng Cúng (應供). Theo ngữ cảnh, vị nhạc thần ví rằng, tình cảm của ông với nàng con gái hoàn toàn tự nhiên và xứng đáng, như bậc Ứng Cúng xứng đáng nhận sự cúng dường.
8 Nguyên tác: Năng Nhân (能仁), được dịch từ chữ Thích-ca (釋迦, Sākya). Tham chiếu: Tu hành bản khởi kinh 修行本起經 (T.03. 0184.01. 0462b18); Phạm võng kinh ký 梵網經記 (T.38. 0682.1. 0245c14). Xem thêm D. 3: “Này Ambaṭṭha, Vua Okkāka liền cảm hứng thốt lời tụng hân hoan: ‘Các hoàng tử thật là những Sākya (cứng như lõi cây sồi), các hoàng tử thật là những Sākya xuất chúng.’ Này Ambaṭṭha, từ đó trở đi, các hoàng tử được gọi là Sākya, và Vua Okkāka là Vua tổ của dòng họ Thích-ca” (HT. Thích Minh Châu dịch).
9 A-du-ba-đà Ni-câu-luật (阿遊波陀尼俱律, Ajapāla Nigrodha).
10 Ni-liên-thiền (尼連禪, Nairañjana) còn gọi Ni-liên-thiền-na (尼連禪那), tên của một con sông. Lúc Bồ-tát sắp thành đạo, Ngài xuống sông này tắm rửa rồi đến bên gốc cây Bồ-đề nhập định.
11 Uất-tỳ-la (鬱鞞羅, Uruvelā).
12 Thi-hán-đà (尸漢陀, Sikhaddhi).
13 Nguyên tác: Cù-di Thích-nữ (瞿夷釋女, Gopikā).
14 Nguyên tác: Điệu hý (調戲): Lý luận vô bổ. Còn gọi “hý luận.” Điệu (調) ở đây mang nghĩa là ngôn từ (指言辭). Hý (戲) là đùa giỡn. Tham chiếu: D. 21: “Tầm lấy các loại vọng tưởng hý luận làm nhân duyên” (HT. Thích Minh Châu dịch).
15 Nguyên tác: Vị ái sở khổ, thân đắc diệt giả (為愛所苦, 身得滅者). Tham chiếu: MĀ. 134: Khát ái diệt tận thì tâm được giải thoát hoàn toàn (愛盡正善心解脫, taṇhāsaṅkhayavimuttiṃ).
16 Đạo tích (道迹) cũng gọi là bậc Kiến đạo, là thành quả đầu tiên trong 4 quả Thanh văn, tức chứng Sơ quả Tu-đà-hoàn.
17 A-ca-ni-trá (阿迦尼吒, Akaniṭṭhā): Trời Sắc Cứu Cánh. Tham chiếu: Nhất thiết kinh âm nghĩa 一切經音義 (T.54. 2128.6. 0443a16).
18 Bản Hán, hết quyển 10.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.