Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 01 »
Kinh Trường A-Hàm
(長阿含經)
(Bản dịch của Trung tâm Dịch thuật Trí Tịnh)
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật cùng với đại chúng một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo ngụ tại xứ Kiếp-ma-sa,2 thuộc nước Câu-lưu-sa.3
[0060b01] Bấy giờ, Tôn giả A-nan ở nơi thanh vắng rồi suy nghĩ như vầy: “Thật kỳ diệu thay, giáo pháp về mười hai nhân duyên siêu việt trí tuệ4 mà đức Thế Tôn đã dạy thật sâu xa, thật khó hiểu nhưng theo tư duy quán sát của ta thì thấy như đang ở trước mắt, đâu có gì sâu xa?”
Thế rồi, A-nan rời khỏi tịnh thất đến chỗ đức Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ sát chân Phật rồi ngồi sang một bên và bạch rằng:
– Bạch đức Thế Tôn! Vừa rồi khi ở trong tịnh thất, con đã tự nghĩ thầm: “Thật kỳ diệu thay, giáo pháp về mười hai nhân duyên siêu việt trí tuệ mà đức Thế Tôn đã dạy thật sâu xa, thật khó hiểu nhưng theo tư duy quán sát của con thì thấy như đang ở trước mắt, đâu có gì sâu xa?”
Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo A-nan:
– A-nan, thầy hãy thôi đi! Chớ nói như thế. Giáo pháp về mười hai nhân duyên siêu việt trí tuệ, rất sâu xa, khó hiểu. Này A-nan! Pháp mười hai nhân duyên này thật khó thấy, khó hiểu, cho đến hàng chư thiên, Ma vương, Phạm thiên, Sa-môn, Bà-la-môn, những người chưa thấy pháp nhân duyên này mà muốn tư duy, quán sát, phân biệt nghĩa lý thì đều mịt mờ, không thể thấy được.
Này A-nan, nay Ta nói với thầy: “Già chết đều có duyên.” Nếu có người hỏi: “Cái gì làm duyên cho già chết?” Nên đáp: “Sanh làm duyên cho già chết.” Nếu lại hỏi: “Cái gì làm duyên cho sanh?” Nên đáp: “Hữu làm duyên cho sanh.” Nếu hỏi: “Cái gì làm duyên cho hữu?” Nên đáp: “Thủ làm duyên cho hữu.” Nếu lại hỏi: “Cái gì làm duyên cho thủ?” Nên đáp: “Ái làm duyên cho thủ.” Nếu lại hỏi: “Cái gì làm duyên cho ái?” Nên đáp: “Thọ làm duyên cho ái.” Nếu lại hỏi: “Cái gì làm duyên cho thọ?” Nên đáp: “Xúc làm duyên cho thọ.” Nếu lại hỏi: “Cái gì làm duyên cho xúc?” Nên đáp: “Lục nhập làm duyên cho xúc.” Nếu lại hỏi: “Cái gì làm duyên cho lục nhập?” Nên đáp: “Danh sắc làm duyên cho lục nhập.” Nếu lại hỏi: “Cái gì làm duyên cho danh sắc?” Nên đáp: “Thức làm duyên cho danh sắc.” Nếu lại hỏi: “Cái gì làm duyên cho thức?” Nên đáp: “Hành làm duyên cho thức.” Nếu lại hỏi: “Cái gì làm duyên cho hành?” Nên đáp: “Vô minh làm duyên cho hành.”
Này A-nan! Như vậy, do vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên già chết, lo, buồn, khổ, não rồi kết thành một khối khổ lớn. Đó là nhân duyên của khối khổ lớn này.
Phật bảo A-nan:
– Do sanh mà có già chết, nghĩa này là thế nào? Giả sử tất cả chúng sanh không có sanh thì liệu có già chết không?
[0060c02] A-nan đáp:
– Thưa, không!
– Thế nên, A-nan, do nhân duyên này biết được già chết do sanh, duyên sanh có già chết, nghĩa của Ta nói chính là như thế. Này A-nan, duyên hữu mà có sanh, nghĩa này là thế nào? Giả sử tất cả chúng sanh không có dục hữu, sắc hữu và vô sắc hữu thì liệu có sanh không?
A-nan đáp:
– Thưa, không!
– Thế nên, A-nan, Ta nhờ nhân duyên này nên biết sanh do hữu, duyên hữu mà có sanh, nghĩa của Ta nói chính là như thế. Này A-nan! Duyên thủ mà có hữu, nghĩa này là thế nào? Giả sử tất cả chúng sanh không có dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ và ngã thủ thì liệu có hữu không?
A-nan đáp:
– Thưa, không!
– Này A-nan! Ta nhờ nhân duyên này nên biết hữu do thủ, duyên thủ có hữu, nghĩa của Ta nói chính là như thế. Này A-nan, duyên ái mà có thủ, nghĩa này là thế nào? Giả sử tất cả chúng sanh không có dục ái, hữu ái và vô hữu ái thì liệu có thủ không?
– Thưa, không!
– Thế nên, A-nan, Ta nhờ nhân duyên này nên biết thủ do ái, duyên ái có thủ, nghĩa của Ta nói chính là như thế. Này A-nan, duyên thọ mà có ái, nghĩa này là thế nào? Giả sử tất cả chúng sanh không có lạc thọ, khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ thì liệu có ái không?
– Thưa, không!
– Thế nên, A-nan, Ta nhờ nhân duyên này nên biết ái do thọ, duyên thọ mà có ái, nghĩa của Ta nói chính là như thế. A-nan nên biết, do tham ái mà có tìm cầu, do tìm cầu mà có lợi dưỡng, do lợi dưỡng mà có thọ dụng, do thọ dụng mà có tham muốn, do tham muốn mà có đắm trước, do đắm trước mà có ganh ghét, do ganh ghét mà có chấp thủ, do chấp thủ mà có phòng hộ. Này A-nan, do có sự phòng hộ mới có dao gậy, tranh giành, kiện tụng, tạo ra vô số điều ác. Nghĩa của Ta nói chính là như thế. Này A-nan! Nghĩa này là thế nào? Giả sử tất cả chúng sanh nếu không có phòng hộ thì liệu có dao gậy, tranh giành, kiện tụng rồi tạo ra vô số điều ác không?
– Thưa, không!
– Thế nên A-nan, Ta nhờ nhân duyên này nên biết dao gậy, tranh tụng là do phòng hộ phát sanh, do phòng hộ mà có dao gậy, tranh tụng. A-nan, nghĩa của Ta nói chính là như thế. Này A-nan, do chấp thủ mà có phòng hộ, nghĩa này là thế nào? Giả sử tất cả chúng sanh không có chấp thủ thì liệu có tâm phòng hộ không?
– Thưa, không!
– Thế nên, A-nan, Ta nhờ nhân duyên này nên biết phòng hộ là do chấp thủ, do chấp thủ mà có phòng hộ, nghĩa của Ta nói chính là như thế. Này A-nan! Do ganh ghét mà có chấp thủ, nghĩa này là thế nào? Giả sử tất cả chúng sanh không có tâm ganh ghét thì liệu có tâm chấp thủ không?
[0061a03] A-nan đáp:
– Thưa, không!
– Này A-nan! Ta nhờ nhân duyên này nên biết thủ do ganh ghét, nhân ganh ghét mà có chấp thủ, nghĩa của Ta nói chính là như thế. Này A-nan! Do đắm trước mà có ganh ghét, nghĩa này là thế nào? Giả sử tất cả chúng sanh không đắm trước thì liệu có ganh ghét không?
– Thưa, không!
– Này A-nan! Ta nhờ nhân duyên này nên biết ganh ghét là do đắm trước, nhân đắm trước mà có ganh ghét, nghĩa của Ta nói chính là như thế. Này A-nan! Do tham muốn mà có đắm trước, nghĩa này là thế nào? Giả sử tất cả chúng sanh không có tham muốn thì liệu có đắm trước không?
– Thưa, không!
– Này A-nan! Ta nhờ nhân duyên này nên biết đắm trước do tham muốn, do tham muốn mà có đắm trước, nghĩa của Ta nói chính là như thế. Này A-nan, do thọ dụng mà có tham muốn, nghĩa này là thế nào? Giả sử tất cả chúng sanh không thọ dụng thì liệu có tham muốn không?
– Thưa, không!
– Này A-nan! Ta nhờ nhân duyên này nên biết tham muốn là do thọ dụng, do thọ dụng mà có tham muốn, nghĩa của Ta nói chính là như thế. Lại nữa, này A-nan, do được lợi mà có thọ dụng, nghĩa này là thế nào? Giả sử tất cả chúng sanh không có được lợi thì liệu có thọ dụng không?
– Thưa, không!
– Này A-nan, Ta nhờ nhân duyên này nên biết thọ dụng do được lợi, do được lợi mà có thọ dụng, nghĩa của Ta nói chính là như thế. Lại nữa, này A-nan! Do tìm cầu mà có được lợi, nghĩa này là thế nào? Giả sử tất cả chúng sanh không có tìm cầu thì liệu có được lợi không?
– Thưa, không!
– Này A-nan, Ta nhờ nhân duyên này nên biết được lợi là do tìm cầu, do tìm cầu mà được lợi, nghĩa của Ta nói chính là như thế. Này A-nan! Do tham ái mà có tìm cầu, nghĩa này là thế nào? Giả sử tất cả chúng sanh nếu không có tham ái thì liệu có tìm cầu không?
– Thưa, không!
– Thế nên A-nan, Ta nhờ nhân duyên này nên biết tìm cầu là do tham ái, do tham ái mà có tìm cầu, nghĩa của Ta nói chính là như thế. Này A-nan! Do tham ái mà có tìm cầu, cho đến có thủ hộ, thọ cũng như vậy, do thọ mà có tìm cầu, cho đến có thủ hộ cũng như thế.
Phật bảo A-nan:
– Do xúc mà có thọ là nghĩa thế nào? A-nan! Giả sử không có nhãn căn, không có sắc trần, không có nhãn thức thì liệu có xúc không?
A-nan đáp:
– Thưa, không!
– Giả sử không có nhĩ căn, không có thanh trần và không có nhĩ thức; không có tỷ căn, không có hương trần và không có tỷ thức; không có thiệt căn, không có vị trần và không có thiệt thức; không có thân căn, không có xúc trần và không có thân thức; không có ý căn, không có pháp trần và không có ý thức thì liệu có xúc không?
– Thưa, không!
– Này A-nan! Giả sử tất cả chúng sanh không có xúc thì liệu có thọ không?
[0061b01] A-nan đáp:
– Thưa, không!
– Thế nên, A-nan, Ta nhờ nhân duyên này nên biết thọ do xúc, do xúc mà có thọ, nghĩa của Ta nói chính là như thế. Này A-nan, do danh sắc mà có xúc, nghĩa này là thế nào? Giả sử tất cả chúng sanh không có danh sắc thì liệu có xúc không?
– Thưa, không!
– A-nan, giả sử tất cả chúng sanh không có hình sắc và tướng mạo thì liệu có xúc không?
– Thưa, không!
– Này A-nan! Nếu không có danh sắc thì liệu có xúc không?
– Thưa, không!
– Thế nên A-nan, Ta nhờ nhân duyên này nên biết xúc do danh sắc, duyên danh sắc mà có xúc, nghĩa của Ta nói chính là như thế. Này A-nan, do thức mà có danh sắc, nghĩa này là thế nào? Giả sử thức không nhập thai mẹ thì liệu có danh sắc không?
A-nan đáp:
– Thưa, không!
– Nếu thức nhập thai rồi nhưng không sanh ra thì liệu có danh sắc không?
– Thưa, không!
– Nếu thức xuất sanh với thai mà đứa trẻ ấy qua đời thì liệu danh sắc có tăng trưởng không?
– Thưa, không!
– Này A-nan! Nếu không có thức thì có danh sắc không?
– Thưa, không!
– Thế nên A-nan, Ta nhờ nhân duyên này nên biết danh sắc do thức, duyên thức mà có danh sắc, nghĩa Ta nói chính là như thế. Này A-nan! Do danh sắc mà có thức, nghĩa này là thế nào? Giả sử thức không trú nơi danh sắc, tức là thức không có chỗ trú, nếu thức không có chỗ trú thì liệu có sanh, già, bệnh, chết, lo, buồn, khổ, não không?
A-nan đáp:
– Thưa, không!
– Này A-nan! Nếu không có danh sắc thì có thức không?
– Thưa, không!
– Thế nên A-nan, Ta nhờ nhân duyên này nên biết thức do danh sắc, duyên danh sắc mà có thức, nghĩa của Ta nói chính là như thế. Này A-nan, thế nên, danh sắc làm duyên cho thức, thức làm duyên cho danh sắc; danh sắc làm duyên cho lục nhập, lục nhập làm duyên cho xúc; xúc làm duyên cho thọ, thọ làm duyên cho ái; ái làm duyên cho thủ, thủ làm duyên cho hữu; hữu làm duyên cho sanh, sanh làm duyên cho già, chết, lo, buồn, khổ, não rồi kết thành một khối khổ lớn.
Này A-nan! Trong giới hạn ấy là ngôn ngữ, trong giới hạn ấy là sự thích ứng, trong giới hạn ấy là hạn lượng, trong giới hạn ấy là sự diễn thuyết rộng rãi, trong giới hạn ấy là trí tuệ quán sát, trong giới hạn ấy là chúng sanh.
Này A-nan! Những Tỳ-kheo nào quán sát chân chánh giáo pháp này đúng như thật thì được Tâm vô lậu giải thoát.5 Này A-nan, những Tỳ-kheo đó xứng đáng được gọi là bậc Tuệ giải thoát.6 Đối với những Tỳ-kheo đã được giải thoát như vậy thì Như Lai mạng chung, vị ấy cũng biết; Như Lai không mạng chung, vị ấy cũng biết; Như Lai vừa mạng chung, vừa không mạng chung, vị ấy cũng biết; Như Lai không mạng chung, cũng không phải không mạng chung, vị ấy cũng biết. Tại sao như vậy? Này A-nan, vì trong giới hạn ấy là ngôn ngữ, trong giới hạn ấy là sự thích ứng, trong giới hạn ấy là hạn lượng, trong giới hạn ấy là sự diễn thuyết rộng rãi, trong giới hạn ấy là trí tuệ quán sát, trong giới hạn ấy là chúng sanh. Sau khi đã hiểu biết tận cùng rồi thì vị Tỳ-kheo với Tâm vô lậu giải thoát không biết, không thấy tri kiến như vậy.7
Này A-nan, đối với sự chấp ngã, cho đến giới hạn nào thì được gọi là ngã kiến? Danh sắc và thọ đều được chấp là ngã. Có người nói: “Thọ chẳng phải là ngã, ngã là thọ.” Hoặc có người nói: “Thọ chẳng phải là ngã, ngã chẳng phải thọ nhưng thọ pháp là ngã.” Hoặc có người nói: “Thọ chẳng phải là ngã, ngã chẳng phải là thọ, thọ pháp chẳng phải là ngã nhưng chỉ có thọ là ngã.”
[0061c06] Này A-nan, đối với người thấy có ngã, cho rằng “thọ là ngã” thì hãy nói với người đó rằng: “Đức Như Lai nói: ‘Có ba thọ là lạc thọ, khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ. Trong lúc có lạc thọ thì không có khổ thọ, không có bất khổ bất lạc thọ. Trong lúc có khổ thọ thì không có lạc thọ, không có bất khổ bất lạc thọ. Trong lúc cảm thấy bất khổ bất lạc thọ thì không có khổ thọ hay lạc thọ.’”
Tại sao thế? Này A-nan! Vì có xúc chạm cảnh vui làm duyên mới sanh ra lạc thọ. Nếu như sự xúc chạm cảnh vui đó diệt thì thọ cũng diệt. Này A-nan! Vì có sự xúc chạm cảnh khổ làm duyên nên sanh ra khổ thọ, nếu như sự xúc chạm cảnh khổ diệt thì thọ cũng diệt. Này A-nan! Vì sự xúc chạm cảnh không khổ không vui làm duyên nên sanh ra bất khổ bất lạc thọ, nếu sự xúc chạm cảnh không khổ không vui diệt thì thọ cũng diệt.
Này A-nan! Ví như hai khúc cây cọ vào nhau thì sẽ phát ra lửa, nếu hai khúc cây để ở hai nơi khác nhau thì sẽ không có lửa. Trường hợp này cũng vậy, vì do xúc chạm cảnh vui làm duyên nên sanh ra lạc thọ, nếu sự xúc chạm cảnh vui diệt thì thọ cũng diệt. Do sự xúc chạm cảnh khổ làm duyên nên sanh ra khổ thọ, nếu sự xúc chạm cảnh khổ diệt thì thọ cũng diệt. Do sự xúc chạm cảnh không khổ không lạc làm duyên nên sanh ra bất khổ bất lạc thọ, nếu sự xúc chạm cảnh không khổ không vui diệt thì thọ cũng diệt.
Này A-nan, ba loại thọ này là pháp hữu vi, vô thường, do nhân duyên mà sanh nên là pháp tan rã, là pháp diệt tận, là pháp hư hoại. Vì pháp ấy chẳng phải từ ngã mà có và ngã cũng chẳng phải từ pháp ấy mà có. Cho nên, hãy vận dụng chánh trí mà quán chiếu các pháp đúng như thực thể của nó. A-nan, người thấy có ngã, rồi cho rằng “thọ là ngã” thì người ấy thật sai lầm.
Này A-nan, với những ai thấy có ngã, nói rằng: “Thọ chẳng phải là ngã, ngã là thọ” thì nên nói với họ rằng: “Đức Như Lai nói: ‘Có ba loại thọ là lạc thọ, khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ. Nếu lạc thọ là ngã, khi lạc thọ diệt mất thì sẽ có hai ngã, điều này thật sai lầm. Nếu khổ thọ là ngã, khi khổ thọ diệt mất thì sẽ có hai ngã, điều này thật sai lầm. Nếu bất khổ bất lạc thọ là ngã, khi bất khổ bất lạc thọ diệt mất thì sẽ có hai ngã, điều này thật sai lầm.”’ A-nan, với những ai thấy có ngã, cho rằng “thọ không phải là ngã, ngã là thọ” thì người ấy thật sai lầm.
Này A-nan, với những ai chấp ngã, họ lập luận rằng: “Thọ chẳng phải là ngã, ngã chẳng phải là thọ, thọ pháp là ngã” thì hãy nói với họ: “Tất cả không có thọ, tại sao ngươi lại nói có thọ pháp? Chính ngươi là thọ pháp chăng?” Người ấy đáp: “Không phải.” Thế nên, A-nan, những ai chấp ngã, lập luận rằng: “Thọ chẳng phải là ngã, ngã chẳng phải là thọ, thọ pháp là ngã” thì người ấy thật sai lầm.
[0062a04] Này A-nan, với những ai chấp có ngã, nói rằng: “Thọ chẳng phải là ngã, ngã chẳng phải là thọ, thọ pháp chẳng phải là ngã, chỉ có thọ là ngã”,8 thì nên hỏi họ: “Tất cả không có thọ, tại sao ngươi lại nói có thọ? Chính ngươi là thọ ư?” Đáp: “Không!” Thế nên, A-nan, với những ai chấp có ngã, nói rằng: “Thọ chẳng phải là ngã, ngã chẳng phải là thọ, thọ pháp chẳng phải là ngã, chỉ có thọ là ngã” thì người ấy thật sai lầm. A-nan, trong giới hạn ấy là ngôn ngữ, trong giới hạn ấy là sự thích ứng, trong giới hạn ấy là hạn lượng, trong giới hạn ấy là sự diễn thuyết rộng rãi, trong giới hạn ấy là trí tuệ quán sát, trong giới hạn ấy là chúng sanh. A-nan! Những Tỳ-kheo nào quán sát chân chánh giáo pháp này đúng như thật thì được Tâm vô lậu giải thoát. Này A-nan, những Tỳ-kheo đó xứng đáng được gọi là bậc Tuệ giải thoát. Tỳ-kheo với tâm giải thoát như vậy, nếu có ngã cũng biết, không có ngã cũng biết, vừa có ngã vừa không có ngã cũng biết, chẳng có ngã chẳng phải không có ngã cũng biết. Vì sao như vậy? Này A-nan, vì trong giới hạn ấy là ngôn ngữ, trong giới hạn ấy là sự thích ứng, trong giới hạn ấy là hạn lượng, trong giới hạn ấy là sự diễn thuyết rộng rãi, trong giới hạn ấy là trí tuệ quán sát, trong giới hạn ấy là chúng sanh. Sau khi đã hiểu biết tận cùng rồi thì vị Tỳ-kheo với Tâm vô lậu giải thoát không biết, không thấy tri kiến như vậy.
Phật bảo A-nan:
– Những người chấp ngã, cho đến giới hạn nào thì được xác định? Những người chấp ngã họ sẽ lý luận: “Một phần ít sắc là ngã”; hoặc nói: “Nhiều phần sắc là ngã”; hoặc nói: “Một phần ít vô sắc là ngã”; hoặc nói: “Nhiều phần vô sắc là ngã.” A-nan! Những người chấp một phần ít sắc là ngã, xác định rằng “một phần ít sắc là ngã, quan điểm của ta là đúng, còn lại đều sai.” Những người chấp nhiều phần sắc là ngã, xác định rằng “nhiều phần sắc là ngã, quan điểm của ta là đúng, còn lại đều sai.” Những người chủ trương một phần ít vô sắc là ngã, xác định rằng “một phần ít vô sắc là ngã, quan điểm của ta là đúng, còn lại đều sai.” Những người nói nhiều phần vô sắc là ngã, xác định rằng “nhiều phần vô sắc là ngã, quan điểm của ta là đúng, còn lại đều sai.”
Phật bảo A-nan:
– Có bảy chỗ thức trú và hai nơi thể nhập9 mà các Sa-môn và Bà-la-môn đều cho rằng đây là nơi an ổn, là nơi cứu vớt, là chỗ hộ trì, là nhà cửa, là ngọn đèn, là ánh sáng, là nơi quy thú, là không hư vọng, là không phiền não. Những gì là bảy?
Có thế giới mà chúng sanh ở trong đó có bao nhiêu thân thì có bấy nhiêu tưởng, đó là cõi trời và cõi người. Đây là trú xứ thứ nhất của thức, là nơi mà các Sa-môn và Bà-la-môn cho rằng: “Đây là nơi an ổn, là nơi cứu vớt, là chỗ hộ trì, là nhà cửa, là ngọn đèn, là ánh sáng, là nơi quy thú, là không hư vọng, là không phiền não.” Này A-nan, nếu Tỳ-kheo nào biết chỗ thức trú thứ nhất này, biết sự tập khởi, biết sự diệt tận, biết vị ngọt, biết sự tai hại, biết sự xuất ly, biết một cách như thật, thì này A-nan, Tỳ-kheo ấy sẽ nói với tri kiến như thật: “Điều ấy chẳng phải là ta, ta chẳng phải là điều ấy.”
Có thế giới mà chúng sanh ở trong đó có nhiều thân nhưng chỉ có một tưởng, đó là cõi trời Phạm Quang Âm.
Có thế giới mà chúng sanh ở trong đó chỉ có một loại thân nhưng lại có nhiều tưởng, đó là cõi trời Quang Âm.
Có thế giới mà chúng sanh ở trong đó chỉ có một thân và một tưởng, đó là cõi trời Biến Tịnh.
Có chúng sanh ở cõi Không Vô Biên Xứ.
Có chúng sanh ở cõi Thức Vô Biên Xứ.
Có chúng sanh ở cõi Bất Dụng Xứ.10
Đó là bảy chỗ thức trú mà các Sa-môn và Bà-la-môn thường cho đây là nơi an ổn, là nơi cứu vớt, là chỗ hộ trì, là nhà cửa, là ngọn đèn, là ánh sáng, là nơi quy thú, là không hư vọng, là không phiền não. Này A-nan, nếu Tỳ-kheo nào biết rõ bảy chỗ thức trú này, biết sự tập khởi, biết sự diệt tận, biết vị ngọt, biết sự tai hại, biết sự xuất ly, biết một cách như thật thì này A-nan, Tỳ-kheo ấy sẽ nói với tri kiến như thật: “Điều ấy chẳng phải là ta, ta chẳng phải là điều ấy.”
[0062b13] Thế nào là hai nơi thể nhập? Là thể nhập cõi Vô Tưởng11 và cõi Phi Tưởng Phi Vô Tưởng.12 Này A-nan, đối với hai chỗ nhập định này, các Sa-môn và Bà-la-môn cho là nơi an ổn, là nơi cứu vớt, là chỗ hộ trì, là nhà cửa, là ngọn đèn, là ánh sáng, là nơi quy thú, là không hư vọng, là không phiền não. Này A-nan, nếu Tỳ-kheo nào biết hai chỗ thể nhập, biết sự tập khởi, biết sự diệt tận, biết vị ngọt, biết sự tai hại, biết sự xuất ly, biết đúng như thật thì này A-nan, Tỳ-kheo ấy sẽ nói với tri kiến như thật: “Điều ấy chẳng phải là ta, ta chẳng phải là điều ấy.”
Này A-nan, lại có tám giải thoát. Thế nào là tám? Một là, có sắc, quán sắc; hai là, bên trong không có sắc tưởng, quán ngoại sắc; ba là, tịnh giải thoát; bốn là, vượt qua sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng, không niệm tưởng tạp loạn, trú vào Không vô biên xứ; năm là, vượt khỏi Không vô biên xứ, trú vào Thức vô biên xứ; sáu là, vượt khỏi Thức vô biên xứ, trú vào Bất dụng xứ; bảy là, vượt khỏi Bất dụng xứ, trú vào Hữu tưởng vô tưởng xứ và tám là Diệt tận định.
Này A-nan! Nếu Tỳ-kheo nào đối với tám giải thoát này mà thông suốt thuận nghịch, ra vào tự tại thì vị Tỳ-kheo ấy được tâm giải thoát và tuệ giải thoát.13
Bấy giờ, Tôn giả A-nan nghe Phật dạy xong, hoan hỷ phụng hành.
Chú thích
1 Nguyên tác: Đại duyên phương tiện kinh 大緣方便經 (T.01. 0001.13. 0060a28). Tham chiếu: Phật thuyết Nhân bổn dục sanh kinh 佛說人本欲生經 (T.01. 0014. 0241c23); Phật thuyết Đại sanh nghĩa kinh 佛說大生義經 (T.01. 0052. 0844b09); Đại nhân kinh 大因經 (T.01. 0026.97. 0578b07); D. 15, Mahānidāna Sutta (Kinh Đại duyên).
2 Kiếp-ma-sa (劫摩沙, Kammāsadam hay Kammāsadamma) cũng gọi Kiếm-ma-sắt-đàm (釰摩瑟曇), một thị trấn (nigama) của nước Câu-lưu-sa (拘流沙). Ngoài bản kinh này ra, cũng tại thị trấn này, đức Phật đã giảng nhiều bài kinh quan trọng khác như D. 22, Mahāsatipaṭṭhāna Sutta (Kinh Đại niệm xứ); M. 106, Āneñjasappāya Sutta (Kinh Bấ t động lợi ích).
3 Câu-lưu-sa (拘流沙, Kurūsu) cũng gọi là Kuru, một trong 16 nước lớn thời Phật.
4 Nguyên tác: Quang (光, Ātapa) và Minh (明, Āloka). Theo Thập địa kinh luận 十地經論 (T.26. 1552.5. 0155a10), 2 yếu tố này chỉ cho trí tuệ siêu việt của Như Lai.
5 Nguyên tác: Chư Tỳ-kheo ư thử pháp trung như thật chánh quán, vô lậu tâm giải thoát (諸比丘於此法中如實正觀,無漏心解脫). Tham chiếu: Nhân bổn dục sanh kinh 人本欲生經 (T.01. 0014.1. 0245c29): “Như vậy, này A-nan! Như có người nhờ sự hiểu biết của trí tuệ chân thực, nương vào trí tuệ đó nên tâm được giải thoát, do vậy được gọi là bậc đã giải thoát” (如是,如有從諦慧見,從是意已解,已得解脫,是名為,阿難).
6 Tuệ giải thoát (慧解脫, Paññāvimutta), nhờ dùng trí tuệ đoạn dứt vô minh phiền não mà được giải thoát.
7 Nguyên tác: Tỳ-kheo bất tri, bất kiến như thị tri kiến (比丘不知,不見如是知見), tức không còn có quan điểm về Như Lai tồn tại hay không tồn tại…
8 Nguyên tác: Ái (愛). Các bản Tống, Nguyên, Minh đều ghi là “thọ” (受).
9 Nguyên tác: Nhập xứ (入處, āyatana): Cảnh giới, khu vực, nền tảng, cảm quan, vị trí.
10 Bất dụng xứ (不用處) còn gọi là định Bất dụng xứ, một trong 4 định cõi Vô sắc. Định Bất dụng xứ cũng gọi là Vô sở hữu xứ.
11 Vô Tưởng nhập (無想入). MĀ. 97 gọi là Vô Tưởng thiên (無想天, Asaññasattāyatana).
12 Phi Tưởng Phi Vô Tưởng nhập (非想非無想入). MĀ. 97 gọi là Phi Hữu Tưởng Phi Vô Tưởng Xứ (非有想非無想處, Nevasaññānāsaññayatana). Đây là cảnh giới cao nhất trong cõi Vô sắc nhưng Tỳ-kheo cũng không dính mắc.
13 Nguyên tác: Câu giải thoát (俱解脫), giải thoát cả 2 phần, tức là Tâm giải thoát và Tuệ giải thoát.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.