Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 01 »
Kinh Trường A-Hàm
(長阿含經)
(Bản dịch của Trung tâm Dịch thuật Trí Tịnh)
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật cùng với đại chúng một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo ngụ tại vườn Cấp Cô Độc, trong rừng Kỳ-đà, thuộc nước Xá-vệ.
Bấy giờ, đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Nay Ta sẽ giảng nói cho các thầy về những pháp sâu xa, phần đầu, phần giữa và phần cuối thảy đều chân chánh, văn và nghĩa rõ ràng, đầy đủ Phạm hạnh, đó là pháp tăng nhất. Các thầy hãy lắng nghe, hãy khéo suy nghĩ và ghi nhớ kỹ, Ta sẽ giảng nói cho các thầy.
[0057c01] Các Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy lắng nghe.
Phật bảo [các] Tỳ-kheo:
– Pháp tăng nhất là, có một pháp đưa đến nhiều thành tựu, có một pháp cần phải tu tập, có một pháp cần phải thấu hiểu, có một pháp cần phải diệt trừ, có một pháp cần phải tác chứng.
Thế nào là một pháp đưa đến nhiều thành tựu? Đó là không từ bỏ thiện pháp.
Thế nào là một pháp cần phải tu tập? Đó là thường tự niệm thân.
Thế nào là một pháp cần phải thấu hiểu? Đó là xúc hữu lậu.
Thế nào là một pháp cần phải diệt trừ? Đó là ngã mạn.
Thế nào là một pháp cần phải tác chứng? Đó là tâm vô ngại giải thoát.
Phật dạy các Tỳ-kheo:
– Lại có hai pháp đưa đến nhiều thành tựu, có hai pháp cần phải tu tập, có hai pháp cần phải thấu hiểu, có hai pháp cần phải diệt trừ, có hai pháp cần phải tác chứng.
Thế nào là hai pháp đưa đến nhiều thành tựu? Đó là biết tự thẹn và biết xấu hổ.
Thế nào là hai pháp cần phải tu tập? Đó là chỉ và quán.
Thế nào là hai pháp cần phải thấu hiểu? Đó là danh và sắc.
Thế nào là hai pháp cần phải diệt trừ? Đó là vô minh và hữu ái.
Thế nào là hai pháp cần phải tác chứng? Đó là Minh và Giải thoát.
Phật dạy các Tỳ-kheo:
– Lại có ba pháp đưa đến nhiều thành tựu, có ba pháp cần phải tu tập, có ba pháp cần phải thấu hiểu, có ba pháp cần phải diệt trừ và có ba pháp cần phải tác chứng.
Thế nào là ba pháp đưa đến nhiều thành tựu? Đó là gần gũi bạn lành, thường xuyên nghe pháp, thực hành theo pháp và thuận theo giáo pháp.2
Thế nào là ba pháp cần phải tu tập? Đó là ba loại tam-muội: Không, Vô tướng và Vô tác tam-muội.
Thế nào là ba pháp cần phải thấu hiểu? Đó là ba loại thọ: Cảm thọ khổ, cảm thọ vui và cảm thọ không khổ không vui.
Thế nào là ba pháp cần phải diệt trừ? Đó là ba loại ái: Dục ái, hữu ái và vô hữu ái.
Thế nào là ba pháp cần phải tác chứng? Đó là ba minh: Túc mạng trí, Thiên nhãn trí và Lậu tận trí minh.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Lại có bốn pháp đưa đến nhiều thành tựu, có bốn pháp cần phải tu tập, có bốn pháp cần phải thấu hiểu, có bốn pháp cần phải diệt trừ và có bốn pháp cần phải tác chứng.
Thế nào là bốn pháp đưa đến nhiều thành tựu? Một là, sống ở chốn văn minh; hai là, gần gũi bạn lành; ba là, tự mình cẩn thận; bốn là, có gốc rễ thiện đã gieo trồng từ đời trước.
Thế nào là bốn pháp cần phải tu tập? Đó là bốn pháp niệm xứ: Một là, Tỳ-kheo quán thân trong thân, siêng năng không biếng nhác, ghi nhớ không quên, xả bỏ tham ưu ở đời; quán thân ngoài thân, siêng năng không biếng nhác, ghi nhớ không quên, xả bỏ tham ưu ở đời; quán thân trong và ngoài thân, siêng năng không biếng nhác, ghi nhớ không quên, xả bỏ tham ưu ở đời; hai là, quán thọ; ba là, quán tâm; bốn là, quán pháp cũng giống như vậy.
Thế nào là bốn pháp cần phải thấu hiểu? Đó là bốn cách ăn: Đoàn thực, xúc thực, niệm thực và thức thực.
Thế nào là bốn pháp cần phải diệt trừ? Đó là bốn thứ chấp trước: Dục thủ, ngã thủ, giới thủ và kiến thủ.
Thế nào là bốn pháp cần phải tác chứng? Đó là bốn quả vị Sa-môn: Quả vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán.
Lại có năm pháp đưa đến nhiều thành tựu, có năm pháp cần phải tu tập, có năm pháp cần phải thấu hiểu, có năm pháp cần phải diệt trừ, có năm pháp cần phải tác chứng.
Năm pháp nào đưa đến nhiều thành tựu? Đó là năm điều không thể tước đoạt: Một là tin Phật, Như Lai là đấng Chí Chân, đầy đủ mười hiệu; hai là thân không tật bệnh, thường luôn an ổn; ba là ngay thẳng, không có dua nịnh, thẳng tiến trên con đường dẫn đến Niết-bàn của Như Lai; bốn là chuyên tâm không loạn, tụng đọc không quên; năm là khéo quán sát sự sinh diệt của các pháp, thực hành theo hạnh của Hiền thánh để đoạn sạch các gốc khổ.
Thế nào là năm pháp cần phải tu tập? Đó là năm căn: Tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn và tuệ căn.
Thế nào là năm pháp cần phải thấu hiểu? Đó là năm thủ uẩn:3 Sắc, thọ, tưởng, hành và thức thủ uẩn.
Thế nào là năm pháp cần phải diệt trừ? Đó là năm thứ ngăn che: Tham dục, sân hận, hôn trầm, trạo cử và nghi.
Thế nào là năm pháp cần phải tác chứng? Đó là năm tụ vô học: Giới vô học, định vô học, tuệ vô học, giải thoát vô học và giải thoát tri kiến vô học.
[0058a09] Lại có sáu pháp đưa đến nhiều thành tựu, có sáu pháp cần phải tu tập, có sáu pháp cần phải thấu hiểu, có sáu pháp cần phải diệt trừ, có sáu pháp cần phải tác chứng.
Thế nào là sáu pháp đưa đến nhiều thành tựu? Đó là sáu pháp trọng. Nếu có Tỳ-kheo nào tu tập sáu pháp trọng, đáng kính, đáng trọng, khiến hội chúng được hòa hợp, không có sự tranh cãi, dẫn đến hợp nhất, không bị tạp loạn. Sáu pháp ấy là gì? Một là, ngay đây, vị Tỳ-kheo thân thường hành từ và tu Phạm hạnh, sống với tâm nhân ái, đây gọi là pháp trọng, đáng kính, đáng trọng, khiến hội chúng được hòa hợp, không có sự tranh cãi, dẫn đến hợp nhất, không bị tạp loạn. Hai là, lại nữa, vị Tỳ-kheo khẩu thường hành từ. Ba là, ý thường hành từ. Bốn là, được phẩm vật lợi dưỡng đúng pháp và thức ăn ở trong bát đều đem chia cho mọi người, không ôm lòng tham tiếc riêng tư. Năm là, lại nữa, vị Tỳ-kheo giữ gìn giới hạnh của bậc Thánh, không hề hủy phạm, không bị nhiễm ô, được người trí khen ngợi là giới hạnh đầy đủ. Sáu là, lại nữa, vị Tỳ-kheo thành tựu pháp xuất yếu của Hiền thánh, chân chánh diệt tận khổ, được chánh kiến và các Phạm hạnh, đây gọi là pháp trọng, đáng kính, đáng trọng, khiến chúng hòa hợp, không có sự tranh cãi, dẫn đến hợp nhất, không bị tạp loạn.
Thế nào là sáu pháp cần phải tu tập? Đó là sáu niệm, tức niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí và niệm thiên.
Thế nào là sáu pháp cần phải thấu hiểu? Đó là sáu xứ bên trong, tức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
Thế nào là sáu pháp cần phải diệt trừ? Đó là sáu ái, tức ái sắc, thanh, hương, vị, xúc và ái pháp.
Thế nào là sáu pháp cần phải chứng ngộ? Đó là sáu thứ thần thông, tức Thần túc thông, Thiên nhĩ thông, Tha tâm thông, Túc mạng thông, Thiên nhãn thông và Lậu tận thông.
Lại có bảy pháp đưa đến nhiều thành tựu, có bảy pháp cần phải tu tập, có bảy pháp cần phải thấu hiểu, có bảy pháp cần phải diệt trừ, có bảy pháp cần phải tác chứng.
Thế nào là bảy pháp đưa đến nhiều thành tựu? Đó là bảy thứ tài sản: Tín tâm, trì giới, tự thẹn, xấu hổ, nghe nhiều, bố thí và trí tuệ.
Thế nào là bảy pháp cần phải tu tập? Đó là bảy giác chi: Ngay đây vị Tỳ-kheo tu niệm giác chi, nương nơi vô dục, nương nơi tịch diệt, nương nơi viễn ly; tu trạch pháp, tu tinh tấn, tu hỷ, tu khinh an, tu định, tu xả cũng đều nương nơi vô dục, nương nơi tịch diệt và nương nơi viễn ly.
[0058b03] Thế nào là bảy pháp cần phải thấu hiểu? Đó là bảy chỗ thức trú: Như có loại chúng sanh có bao nhiêu thân thì có bấy nhiêu tưởng, như cõi trời và cõi người, đây là chỗ thức trú thứ nhất. Hoặc có loại chúng sanh có nhiều loại thân nhưng chỉ có một tưởng, như lúc mới sanh lên cõi trời Phạm Quang Âm, đây là chỗ thức trú thứ hai. Hoặc có loại chúng sanh chỉ có một thân nhưng có nhiều tưởng, như cõi trời Quang Âm, đây là chỗ thức trú thứ ba. Hoặc có chúng sanh chỉ có một thân và một tưởng, như cõi trời Biến Tịnh, đây là chỗ thức trú thứ tư. Hoặc có chúng sanh ở Không Xứ, đây là chỗ thức trú thứ năm. Hoặc có chúng sanh ở Thức Xứ, đây là chỗ thức trú thứ sáu. Hoặc có chúng sanh ở Vô Sở Hữu Xứ,4 đây là chỗ thức trú thứ bảy.
Thế nào là bảy pháp cần phải diệt trừ? Đó là bảy sự sai khiến,5 tức là sự sai khiến của tham dục, của ái nhiễm, của thấy biết, của kiêu mạn, của sân hận, của vô minh và của nghi ngờ.
Thế nào là bảy pháp cần phải chứng ngộ? Đó là bảy năng lực dứt hết các lậu hoặc: Một là, ngay đây, vị Tỳ-kheo đã dứt sạch phiền não, đối với tất cả sự khổ, sự tập khởi của khổ, sự diệt trừ, vị ngọt, sự tai hại và sự thoát khỏi của khổ, đều thấy như thật và biết như thật. Hai là, xem dục như hầm lửa, như đao kiếm, biết dục, thấy dục như vậy rồi, không tham đắm nơi dục, tâm không trụ nơi dục. Ba là, Tỳ-kheo dứt sạch phiền não khéo quán xét, thấy biết như thật rồi thì mọi tham lam, mê hoặc, các pháp ác bất thiện ở thế gian sẽ không phát khởi, không phát sanh trở lại nữa. Bốn là, tu tập bốn niệm xứ, thực hành tu tập thuần thục. Năm là, tu tập năm căn, năm lực. Sáu là, tu tập bảy giác chi. Bảy là, tu tập tám chi Thánh đạo của bậc Hiền thánh, thực hành tu tập thuần thục.
Lại có tám pháp đưa đến nhiều thành tựu, có tám pháp cần phải tu tập, có tám pháp cần phải thấu hiểu, có tám pháp cần phải diệt trừ, có tám pháp cần phải tác chứng.
Thế nào là tám pháp đưa đến nhiều thành tựu? Đó là tám nhân duyên khiến người chưa thành tựu Phạm hạnh nhưng có thể thành tựu trí tuệ, người thành tựu Phạm hạnh rồi thì trí tuệ tăng trưởng. Tám nhân duyên ấy là gì?
Một là, ngay đây, vị Tỳ-kheo nương tựa nơi đức Thế Tôn, hoặc nương tựa nơi Sư trưởng, hoặc nương tựa nơi người Phạm hạnh trí tuệ, rồi sanh tâm tự thẹn với mình, xấu hổ với người, có tâm ái kính, đó là nhân duyên thứ nhất khiến người chưa thành tựu Phạm hạnh nhưng có thể thành tựu trí tuệ, người thành tựu Phạm hạnh rồi thì trí tuệ tăng trưởng. Hai là, lại nữa, vị Tỳ-kheo nương tựa Thế Tôn, tùy lúc thưa hỏi: “Pháp này thế nào? Có ý nghĩa gì và dẫn đến đâu?” Bấy giờ, vị Tôn trưởng liền khai diễn những ý nghĩa sâu xa cho các vị ấy. Ba là, khi đã nghe pháp rồi thì thân tâm được an lạc và tịch tịnh. Bốn là, được an lạc và tịch tịnh rồi thì không còn đàm luận những việc vô ích, trái đạo. Các vị ấy khi đi vào trong chúng, hoặc tự thuyết pháp, hoặc mời người khác thuyết pháp đều không rời sự yên lặng của Thánh hiền. Năm là, nghe nhiều hiểu rộng, ghi nhớ không quên, đối với các pháp sâu xa, phần đầu, phần giữa và phần cuối đều thiện, văn và nghĩa chân thật, Phạm hạnh đầy đủ. Sau khi nghe thì ghi nhớ trong lòng, thấy hiểu không lay chuyển. Sáu là, tu tập siêng năng, diệt ác, tăng thiện, gắng sức giữ gìn, không bỏ học pháp đã thọ. Bảy là, dùng trí tuệ để quán sát các pháp sanh diệt, là nơi quy thú của các bậc Hiền thánh, có thể đoạn trừ tận cùng khổ não. Tám là, quán tướng sinh và tướng diệt của năm thủ uẩn: Đây là sắc, đây là sự tập khởi của sắc, đây là sự đoạn tận sắc; đây là thọ, tưởng, hành, thức; đây là sự tập khởi của thọ, tưởng, hành, thức và sự đoạn tận của thọ, tưởng, hành, thức. Đó là nhân duyên tuy chưa được Phạm hạnh nhưng có thể thành tựu trí tuệ, thành tựu Phạm hạnh rồi thì trí tuệ càng tăng trưởng.
[0058c07] Thế nào là tám pháp cần phải tu tập? Đó là tám con đường của Hiền thánh, gồm: chánh kiến, chánh tư duy,6 chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.
Thế nào là tám pháp cần phải thấu hiểu? Đó là tám pháp thế gian: Lợi ích, suy tổn, chê bai, khen ngợi, tán thán, gièm pha, khổ não, an vui.
Thế nào là tám pháp cần phải diệt trừ? Đó là tám tà pháp: Tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm và tà định.
Thế nào là tám pháp cần phải chứng ngộ? Đó là tám pháp giải thoát: Sắc quán là sắc, pháp giải thoát thứ nhất. Bên trong không có sắc tưởng, quán sắc bên ngoài, là giải thoát thứ hai. Tịnh giải thoát, là giải thoát thứ ba. Vượt qua sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng, không niệm tưởng nào khác, trú vào Không vô biên xứ, là giải thoát thứ tư. Vượt khỏi Không vô biên xứ, trú vào Thức vô biên xứ, là giải thoát thứ năm. Vượt khỏi Thức vô biên xứ, trú vào Vô sở hữu xứ, là giải thoát thứ sáu. Vượt khỏi Vô sở hữu xứ, trú vào Hữu tưởng vô tưởng xứ,7 là pháp giải thoát thứ bảy. Vượt Hữu tưởng vô tưởng xứ, trú Diệt tận định, đó là pháp giải thoát thứ tám.
Lại có chín pháp đưa đến nhiều thành tựu, chín pháp cần phải tu tập, chín pháp cần phải thấu hiểu, chín pháp cần phải diệt trừ, chín pháp cần phải tác chứng.
Thế nào là chín pháp đưa đến nhiều thành tựu? Đó là chín pháp thanh tịnh hoàn toàn: Thanh tịnh hoàn toàn do giới, thanh tịnh hoàn toàn do tâm định, thanh tịnh hoàn toàn do thấy biết chân lý, thanh tịnh hoàn toàn do đoạn trừ sự hoài nghi, thanh tịnh hoàn toàn do thấy biết chánh đạo và phi đạo, thanh tịnh hoàn toàn do thấy biết về phương pháp hành trì, thanh tịnh hoàn toàn do nhận thức toàn diện về đường lối hành trì, thanh tịnh hoàn toàn do dứt sạch lậu hoặc và thanh tịnh hoàn toàn do giải thoát.
Thế nào là chín pháp cần phải tu tập? Đó là chín nguồn gốc của hỷ: Vui mừng, yêu thích, phấn chấn, hân hoan, định, biết đúng như thật, trừ xả, vô dục và giải thoát.
Thế nào là chín pháp cần phải thấu hiểu? Đó là chín nơi chúng sanh cư trú: Hoặc có chúng sanh có bao nhiêu thân thì có bấy nhiêu tưởng, như cõi trời và cõi người, đó là nơi cư trú thứ nhất của chúng sanh. Hoặc có chúng sanh gồm nhiều thân nhưng chỉ có một tưởng, như trời Phạm Quang Âm khi mới sanh lên cõi ấy, đó là nơi cư trú thứ hai của chúng sanh. Hoặc có chúng sanh chỉ có một thân nhưng có nhiều tưởng, như trời Quang Âm, đó là nơi cư trú thứ ba của chúng sanh. Hoặc có chúng sanh chỉ có một thân và một tưởng, như trời Biến Tịnh, đó là nơi cư trú thứ tư của chúng sanh. Hoặc có chúng sanh không có tưởng và không có giác tri, tức là trời Vô Tưởng, đó là nơi cư trú thứ năm của chúng sanh. Lại có chúng sanh ở Không Vô Biên Xứ; đó là nơi cư trú thứ sáu của chúng sanh. Lại có chúng sanh ở Thức Vô Biên Xứ, đó là nơi cư trú thứ bảy của chúng sanh. Lại có chúng sanh ở Vô Sở Hữu Xứ, đó là nơi cư trú thứ tám của chúng sanh. Lại có chúng sanh ở Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, đó là nơi cư trú thứ chín của chúng sanh.
[0059a04] Thế nào là chín pháp cần phải diệt trừ? Đó là chín pháp khởi nguồn từ ái: Do ái mà có tìm cầu, do tìm cầu mà có lợi dưỡng, do lợi dưỡng mà có thọ dụng, do thọ dụng mà có tham muốn, do tham muốn mà có chấp trước, do chấp trước mà có ganh ghét, do ganh ghét mà có chấp thủ, do chấp thủ mà có phòng hộ.
Thế nào là chín pháp cần phải chứng ngộ? Đó là chín pháp diệt trừ: Nếu vào Thiền thứ nhất thì gai nhọn âm thanh bị diệt trừ; vào Thiền thứ hai thì gai nhọn giác và quán bị diệt trừ; vào Thiền thứ ba thì gai nhọn hỷ bị diệt trừ; vào Thiền thứ tư thì gai nhọn là hơi thở ra vào bị diệt trừ; vào Không vô biên xứ thì gai nhọn là sắc tưởng bị diệt trừ; vào Thức vô biên xứ thì gai nhọn là không tưởng bị diệt trừ; vào Vô sở hữu xứ thì gai nhọn là thức tưởng bị diệt trừ; vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ thì gai nhọn là vô sở hữu tưởng bị diệt trừ; vào Diệt tận định thì gai nhọn là tưởng và thọ bị diệt trừ.
Lại có mười pháp đưa đến nhiều thành tựu, mười pháp cần phải tu tập, mười pháp cần phải hiểu, mười pháp cần phải diệt trừ, mười pháp cần phải tác chứng.
Thế nào là mười pháp đưa đến nhiều thành tựu? Đó là mười cứu pháp. Một là, vị Tỳ-kheo đầy đủ hai trăm năm mươi giới và các oai nghi, thấy chút lỗi nhỏ đã sanh tâm lo sợ lớn, bình đẳng học giới, tâm không tà vạy. Hai là, được gặp thiện tri thức. Ba là, lời nói ngay thẳng, được nhiều người nghe theo. Bốn là, ưa cầu pháp lành, bố thí chẳng tiếc. Năm là, những người Phạm hạnh có cần điều gì liền đến trợ giúp, không nề hà mệt nhọc, thường làm những điều khó làm, đồng thời cũng dạy người khác cùng làm. Sáu là, nghe nhiều, nghe rồi ghi nhớ, không hề quên mất. Bảy là, siêng năng diệt các pháp ác, làm cho pháp lành được tăng trưởng. Tám là, luôn chuyên niệm, không sanh các tưởng khác, ghi nhớ những hạnh lành căn bản như thấy ở trước mặt. Chín là, có đầy đủ trí tuệ quán sát sự sanh diệt của các pháp, dùng luật nghi của bậc Hiền thánh để đoạn trừ gốc khổ. Mười là, thích ở nơi thanh vắng, chuyên niệm tư duy, trong khi thiền định không có sự loạn động.
Thế nào là mười pháp cần phải tu? Đó là mười hạnh chân chánh, tức chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, chánh giải thoát và chánh trí.
Thế nào là mười pháp cần phải thấu hiểu? Đó là mười sắc nhập, tức nhãn nhập, nhĩ nhập, tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập, sắc nhập, thanh nhập, hương nhập, vị nhập và xúc nhập.
Thế nào là mười pháp cần phải diệt trừ? Đó là mười tà hạnh, tức tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định, tà giải thoát và tà trí.
Thế nào là mười pháp cần phải chứng ngộ? Đó là mười pháp vô học, tức vô học chánh kiến, vô học chánh tư duy, vô học chánh ngữ, vô học chánh nghiệp, vô học chánh mạng, vô học chánh tinh tấn, vô học chánh niệm, vô học chánh định, vô học chánh giải thoát và vô học chánh trí.
Này các Tỳ-kheo, đây gọi là pháp tăng nhất, nay Ta đã giảng nói cho các thầy pháp này. Ta là Như Lai, những gì cần làm Ta đã làm đầy đủ, từ mẫn ân cần dạy dỗ các thầy, cho nên các thầy phải siêng năng gắng sức hành trì.
Này các Tỳ-kheo, các thầy nên ở chỗ thanh vắng, bên gốc cây hay nơi đất trống, siêng năng tọa thiền, chớ tự mình buông lung. Hôm nay không gắng siêng năng, ngày sau hối hận vô ích. Đây là lời dạy của Ta, các thầy phải siêng năng thọ trì.
Các Tỳ-kheo nghe đức Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.8
Chú thích
1 Nguyên tác: Tăng nhất kinh 增一經 (T.01. 0001.11. 0057b25). Tham chiếu: Thập thượng kinh 十上經 (T.01. 0001.10. 0052c18); Trường A-hàm thập báo pháp kinh 長阿含十報法經 (T.01. 0013. 0233b23); D. 34, Dasuttara Sutta (Kinh Thập thượng). Kinh này phần lớn giống với Kinh Thập thượng, số 10 ở trên nhưng cô đọng hơn và do chính đức Phật thuyết. Các danh từ pháp số trong kinh này phần lớn đều trùng lặp với kinh số 10 nên lược bỏ một phần chú thích.
2 Nguyên tác: Pháp pháp thành tựu (法法成就, dhammānudhammappaṭipannaṃ). Xem chú thích 13, kinh số 3, tr. 581.
3 Nguyên tác: Thọ ấm (受陰).
4 Nguyên tác: Bất dụng xứ (不用處).
5 Sử (使). Xem chú thích 33, kinh số 10, tr. 672.
6 Nguyên tác: Chánh chí (正志).
7 Nguyên tác: Hữu tưởng vô tưởng xứ (有想無想處), tức Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
8 Bản Hán, hết quyển 9.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.