Viện Nghiên Cứu Phật Học

 

9. KINH CHÚNG TẬP1


Tôi nghe như vầy:

Một thời, đức Phật cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo du hóa trong xứ Mạt-la,2 rồi đi dần đến vườn Am-bà3 của ông Xà-đầu,4 thuộc thành Ba-bà.5

Hôm ấy, vào ngày rằm trăng tròn, đức Thế Tôn ngồi nơi khoảng đất trống cùng với đại chúng vây quanh. Sau khi thuyết pháp đến khuya,6 đức Thế Tôn bảo ngài Xá-lợi-phất:7

– Hôm nay, các Tỳ-kheo từ bốn phương vân tập về đây, tất cả đều siêng năng, từ bỏ sự ngủ nghỉ. Ta vì đau lưng nên tạm nghỉ ngơi, vậy thầy hãy thuyết pháp cho chúng Tỳ-kheo!

– Thưa vâng! Con xin làm theo lời đức Thế Tôn dạy!

Bấy giờ, đức Thế Tôn xếp y Tăng-già-lê làm bốn rồi nằm nghiêng về bên phải, hai chân xếp chồng lên nhau như dáng nằm của sư tử.

Bấy giờ, Xá-lợi-phất bảo các Tỳ-kheo:

– Hôm nay, tại thành Ba-bà này, có vị Ni-kiền-tử8 vừa mới qua đời. Chúng đệ tử của ông ta chia thành hai phái, tìm mặt hơn mặt kém của nhau rồi cùng tranh cãi, mắng nhiếc, thị phi với nhau rằng: “Ta biết pháp này, ngươi không biết pháp này. Ngươi ở nơi tà kiến, ta ở nơi Chánh pháp. Ngươi nói năng sai lầm, lẫn lộn, không có thứ tự.” Họ tự khen những lý luận của mình, cho đó là chân chánh, rằng: “Những điều ta nói là hơn, những điều ngươi nói là kém, nay ta làm chủ cuộc thảo luận này, vậy ngươi cần biết điều gì thì nên hỏi ta.”

Này các Tỳ-kheo! Lúc ấy, những người dân trong nước lâu nay phụng thờ Ni-kiền-tử đều chán ghét việc tranh cãi này. Tất cả đều do pháp của họ không chân chánh và đã không chân chánh thì làm sao giải thoát được. Ví như ngôi tháp đã mục nát thì không thể sửa sang được nữa. Đó không phải là lời dạy của bậc Đẳng Chánh Giác.9

Này các Tỳ-kheo, chỉ có pháp của đức Thích-ca Vô Thượng Tôn mới thật là chân chánh, mới có khả năng dẫn đến xuất ly. Ví như ngôi tháp mới thì rất dễ trang hoàng, đây là lời dạy của bậc Đẳng Chánh Giác.

Này các Tỳ-kheo, hôm nay chúng ta phải kết tập giáo pháp và giới luật10 để phòng sự tranh cãi, khiến cho Phạm hạnh được tồn tại lâu dài, để số đông được lợi ích và trời, người được an vui.

Này các Tỳ-kheo, đức Như Lai nói một pháp chân thực,11 tất cả chúng sanh đều nhờ thức ăn mà tồn tại.12

Đức Như Lai lại nói một pháp, tất cả chúng sanh đều nhờ vào các hành13 mà an trụ.

Đó là một pháp do chính đức Như Lai nói, chúng ta phải cùng nhau kết tập để phòng sự tranh cãi, khiến cho Phạm hạnh được tồn tại lâu dài, để số đông được lợi ích và trời, người được an vui.

Này các Tỳ-kheo, đức Như Lai dạy:

“Có hai pháp chân thực, một là danh, hai là sắc.

Lại có hai pháp là si và ái.

Lại có hai pháp là hữu kiến và vô kiến.14

Lại có hai pháp là không biết tự thẹn và không biết xấu hổ.

Lại có hai pháp là biết tự thẹn và biết xấu hổ.

Lại có hai pháp, Tận trí15 và Vô sanh trí.16

Lại có hai pháp, hai nhân, hai duyên sanh ra ái dục, đó là dung sắc tươi đẹp và không có tư duy.

Lại có hai pháp, hai nhân, hai duyên sanh ra sân hận, đó là oán ghét và không có tư duy.

Lại có hai pháp, hai nhân, hai duyên phát sanh tà kiến, đó là nghe từ người khác và tà tư duy.

Lại có hai pháp, hai nhân, hai duyên sanh ra chánh kiến, đó là nghe từ người khác và chánh tư duy.

Lại có hai pháp, hai nhân, hai duyên, đó là hữu học giải thoát và vô học giải thoát.

Lại có hai pháp, hai nhân, hai duyên, đó là hữu vi giới và vô vi giới.”

Này các Tỳ-kheo, đây là pháp do chính đức Như Lai nói, chúng ta phải cùng nhau kết tập để phòng sự tranh cãi, khiến cho Phạm hạnh được tồn tại lâu dài, để số đông được lợi ích và trời, người được an vui.

[0050a07] Này các Tỳ-kheo, đức Như Lai dạy:

“Có ba pháp chân thực, đó là ba gốc rễ bất thiện: Tham dục, sân hận và ngu si.

Lại có ba pháp, đó là ba gốc rễ thiện: Không tham, không sân và không si.

Lại có ba pháp, đó là ba nghiệp bất thiện: Nghiệp bất thiện của thân, nghiệp bất thiện của miệng và nghiệp bất thiện của ý.

Lại có ba pháp, đó là ba hành vi bất thiện: Hành vi bất thiện của thân, hành vi bất thiện của miệng và hành vi bất thiện của ý.

Lại có ba pháp, đó là ba nghiệp ác:17 Nghiệp ác của thân, nghiệp ác của miệng và nghiệp ác của ý.

Lại có ba pháp, đó là ba nghiệp thiện: Nghiệp thiện của thân, nghiệp thiện của miệng và nghiệp thiện của ý.

Lại có ba pháp, đó là ba tưởng bất thiện: Tưởng dục, tưởng sân và tưởng hại.

Lại có ba pháp, đó là ba tưởng thiện: Không có tưởng dục, không có tưởng sân và không có tưởng hại.

Lại có ba pháp, đó là ba tư duy bất thiện: Tư duy dục, tư duy sân và tư duy hại.

Lại có ba pháp, đó là ba tư duy thiện: Không có tư duy dục, không có tư duy sân và không có tư duy hại.

Lại có ba pháp, đó là ba phước nghiệp: Phước nghiệp bố thí, phước nghiệp bình đẳng và phước nghiệp tư duy.18

Lại có ba pháp, đó là ba thọ: Cảm thọ vui, cảm thọ khổ và cảm thọ không vui không khổ.

Lại có ba pháp, đó là ba ái: Dục ái, hữu ái và vô hữu ái.19

Lại có ba pháp, đó là ba hữu lậu: Dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu.20

Lại có ba pháp, đó là ba thứ lửa: Lửa dục, lửa sân và lửa si.

Lại có ba pháp, đó là ba sự tìm cầu: Sự tìm cầu về dục, sự tìm cầu về hữu và sự tìm cầu về Phạm hạnh.

Lại có ba pháp, đó là ba sự tăng thịnh: Tăng thịnh do năng lực tự thân, tăng thịnh do nhờ sức mạnh thế gian và tăng thịnh do nhờ sức mạnh Chánh pháp.

Lại có ba pháp, đó là ba giới: Dục giới, sân giới và hại giới.21

Lại có ba pháp, đó là ba giới: Xuất ly giới, vô sân giới và vô hại giới.

Lại có ba pháp, đó là ba giới: Sắc giới, Vô sắc giới và tận giới.

Lại có ba pháp, đó là ba tụ: Tụ giới, tụ định và tụ tuệ.

Lại có ba pháp, đó là ba giới: Tăng thịnh giới, tăng thịnh định và tăng thịnh tuệ.

[0050b01] Lại có ba pháp, đó là ba loại tam-muội: Không tam-muội, Vô nguyện tam-muội và Vô tướng tam-muội.

Lại có ba pháp, đó là ba tướng: Tướng vắng lặng,22 tướng tinh cần và tướng xả.

Lại có ba pháp nói về ba loại minh:23 Tự thức túc mạng trí minh,24 Thiên nhãn trí minh25 và Lậu tận trí minh.26

Lại có ba pháp, đó là ba sự biến hóa: Một là thần thông biến hóa, hai là biết tâm của người khác rồi tùy theo đó mà thuyết pháp và ba là răn dạy.

Lại có ba pháp, đó là ba thứ căn bản do dục sanh: Một, do dục hiện tại sanh vào cõi trời, cõi người; hai, do hóa dục sanh về trời Hóa Tự Tại; ba, do tha hóa dục sanh về cõi trời Tha Hóa Tự Tại.

Lại có ba pháp, đó là ba trường hợp do lạc sanh: Một, có chúng sanh tự nhiên thành tựu biện tài, sanh tâm hoan hỷ, như ở cõi trời Phạm Quang Âm khi mới sanh lên cõi ấy; hai, có chúng sanh lấy niệm làm niềm an lạc, rồi tự nói: “Lành thay!”, như ở cõi trời Quang Âm; ba, được sự an vui do sự vắng lặng,27 như ở cõi trời Biến Tịnh.

Lại có ba pháp, đó là ba thứ khổ: Hành khổ, khổ khổ và biến dịch khổ.

Lại có ba pháp, đó là ba căn: Vị tri dục tri căn, tri căn và tri dĩ căn.28

Lại có ba pháp, đó là ba trú xứ: Trú xứ của Hiền thánh, trú xứ chư thiên và trú xứ của Phạm thiên.

Lại có ba pháp, đó là ba trường hợp cử tội: Cử tội do thấy, cử tội do nghe và cử tội do nghi.

Lại có ba pháp, đó là ba luận thuyết: Trong quá khứ có việc như thế, có luận thuyết như thế; vị lai có việc như thế, có luận thuyết như thế; hiện tại có việc như thế, có luận thuyết như thế.

Lại có ba pháp, đó là ba tụ: Chánh định tụ,29 tà định tụ30 và bất định tụ.31

Lại có ba pháp, đó là ba thứ ưu phiền: Ưu phiền về thân, ưu phiền về miệng và ưu phiền về ý.

Lại có ba pháp, đó là ba loại Trưởng lão: Trưởng lão tuổi cao, Trưởng lão thấy pháp và Trưởng lão thế tục.32

Lại có ba pháp, đó là ba loại mắt: Mắt thịt, mắt trời và mắt tuệ.”

Này các Tỳ-kheo, đây là pháp chân thực do chính đức Như Lai nói, chúng ta phải cùng nhau kết tập để phòng sự tranh cãi, khiến cho Phạm hạnh được tồn tại lâu dài, để số đông được lợi ích và trời, người được an vui.

Này các Tỳ-kheo, đức Như Lai nói:

“Có bốn pháp chân thực, tức là bốn nghiệp ác do miệng: Nói dối, nói hai chiều, nói độc ác và nói thêu dệt.

Lại có bốn pháp, tức là bốn nghiệp thiện do miệng: Nói sự thật, nói dịu dàng, không nói thêu dệt và không nói hai chiều.

Lại có bốn pháp, tức là bốn cách nói không như Hiền thánh: Không thấy nói thấy, không nghe nói nghe, không hiểu nói hiểu và không biết nói biết.

Lại có bốn pháp, đó là bốn cách nói như Hiền thánh: Thấy nói thấy, nghe nói nghe, hiểu nói hiểu và biết nói biết.

Lại có bốn pháp, đó là bốn cách ăn: Đoàn thực, xúc thực, niệm thực và thức thực.33

Lại có bốn pháp, đó là bốn thọ: Một, hiện tại tạo khổ hạnh, về sau thọ khổ báo; hai, hiện tại tạo khổ hạnh, về sau thọ lạc báo; ba, hiện tại tạo lạc hạnh, về sau thọ khổ báo; bốn, hiện tại tạo lạc hạnh, về sau thọ lạc báo.

Lại có bốn pháp, đó là bốn thứ chấp trước:34 Dục thủ,35 ngã thủ,36 giới thủ37 và kiến thủ.38

Lại có bốn pháp, đó là bốn sự trói buộc: Thân bị trói buộc do tham dục, thân bị trói buộc do sân hận, thân bị trói buộc do trộm cướp và thân bị trói buộc do ngã kiến.

[0050c07] Lại có bốn pháp, đó là bốn gai nhọn: Gai nhọn tham dục, gai nhọn sân hận, gai nhọn thấy biết và gai nhọn kiêu mạn.

Lại có bốn pháp, đó là bốn hình thức sanh: Sanh từ trứng, sanh từ thai, sanh từ chỗ ẩm thấp và sanh từ sự biến hóa.

Lại có bốn pháp, đó là bốn niệm xứ: Một là ở đây, vị Tỳ-kheo quán thân trong nội thân, tinh cần không biếng nhác, chuyên niệm, tỉnh giác, diệt trừ tham ưu ở đời. Quán thân trong ngoại thân, tinh cần không biếng nhác, chuyên niệm, tỉnh giác, diệt trừ tham ưu ở đời. Quán thân trong nội ngoại thân, tinh cần không biếng nhác, chuyên niệm, tỉnh giác, diệt trừ tham ưu ở đời. Hai là quán thọ, ba là quán tâm và bốn là quán pháp, cũng như thế.

Lại có bốn pháp, đó là bốn chánh cần: Một là với điều ác chưa sanh, Tỳ-kheo tìm cách khiến chúng không sanh; hai là với điều ác đã sanh thì tìm cách trừ diệt chúng; ba là với điều thiện chưa sanh thì tìm cách làm chúng phát sanh; bốn là với điều thiện đã sanh thì tìm cách tư duy để chúng càng tăng trưởng.

Lại có bốn pháp, đó là bốn thần túc: Ở đây, vị Tỳ-kheo tư duy về dục định diệt hành thành tựu, tinh tấn định, ý định và tư duy định cũng như vậy.

Lại có bốn pháp, đó là bốn bậc thiền định: Tỳ-kheo lìa bỏ dục và các pháp bất thiện, có giác, có quán, cùng với hỷ, lạc được sanh ra do sự viễn ly, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất; Tỳ-kheo lìa bỏ giác và quán, trong tâm bình đẳng thanh tịnh, có hỷ, lạc do định sanh, chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, không giác không quán; Tỳ-kheo lìa bỏ hỷ, an trú xả, với chánh niệm và tỉnh giác, thân cảm lạc thọ, chứng đạt và an trú Thiền thứ ba, điều mà bậc Thánh gọi là lạc trú trong xả và có chánh niệm; Tỳ-kheo khi đã diệt trừ ưu và hỷ trước đó nên buông bỏ cả khổ và vui, chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, một trạng thái không khổ không vui, gọi là xả niệm thanh tịnh.

Lại có bốn pháp, đưa đến cộng trú với Phạm thiên. Đó là từ, bi, hỷ và xả.

Lại có bốn pháp, đó là bốn định Vô sắc:39 Một là, ở đây, vị Tỳ-kheo vượt hết tất cả sắc tưởng, diệt tận tưởng sân hận từ trước,40 không có nghĩ tưởng nào khác, tư duy về vô lượng Không xứ, chứng nhập và an trú Không vô biên xứ. Hai là xả Không vô biên xứ, nhập Thức vô biên xứ. Ba là xả Thức vô biên xứ, nhập Vô sở hữu xứ. Bốn là xả Vô sở hữu xứ, nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Lại có bốn pháp, đó là bốn pháp đầy đủ: Không tham, không sân, chánh niệm và chánh định.

Lại có bốn pháp, đó là bốn Thánh chủng:41 Một là, ở đây, vị Tỳ-kheo biết đủ về y phục, được loại tốt thì không mừng, được loại xấu cũng không buồn, đồng thời không đắm nhiễm, biết điều cấm kỵ, biết con đường giải thoát, ở trong pháp này siêng năng, không lười biếng, thành tựu được pháp này, không thiếu sót, không tổn giảm, đồng thời cũng có thể dạy cho người khác thành tựu pháp này, đó là pháp biết đủ thứ nhất để an trụ trong dòng Hiền thánh, từ xưa đến nay chưa bao giờ bị não loạn, ngay cả các loài Phạm thiên, Ma vương, Sa-môn, Bà-la-môn, trời, người không ai có thể chê trách. Hai là biết đủ về thức ăn. Ba là biết đủ về vật dụng nằm, ngồi. Bốn là biết đủ về thuốc thang trị bệnh. Hết thảy đều nên biết đủ như thế.

Lại có bốn pháp, đó là bốn pháp nhiếp chúng: Một là thí xả tài vật, bố thí pháp; hai là nói lời an ủi khuyên nhủ; ba là ba nghiệp thiện lành; bốn là gần gũi sẻ chia với chúng sanh.

Lại có bốn pháp, đó là bốn chi Tu-đà-hoàn: Tỳ-kheo thành tựu niềm tin không lay chuyển đối với Phật, Pháp, Tăng và Giới.

Lại có bốn pháp, đó là bốn thọ chứng: Một là thọ chứng do thấy sắc, hai là thọ chứng do thân hoại diệt, ba là thọ chứng do nhớ về túc mạng và bốn là thọ chứng do biết hữu lậu đã bị đoạn sạch.

Lại có bốn pháp, đó là bốn đạo: Khổ tu hành, được kết quả chậm; khổ tu hành, được kết quả mau; vui tu hành, được kết quả chậm; vui tu hành, được kết quả mau.

[0051a13] Lại có bốn pháp, đó là bốn Thánh đế: Thánh đế về khổ, Thánh đế về nguyên nhân của khổ, Thánh đế về khổ diệt và Thánh đế về con đường đưa đến khổ diệt.

Lại có bốn pháp, đó là bốn quả Sa-môn: Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán.

Lại có bốn pháp, đó là bốn nơi: Nơi chân thật, nơi thí xả, nơi phát sanh trí và nơi tịch tĩnh.

Lại có bốn pháp, đó là bốn trí: Pháp trí,42 Vị tri trí,43 Đẳng trí44 và Tri tha nhân tâm trí.45

Lại có bốn pháp, đó là bốn năng lực về biện luận: Biện tài về pháp, biện tài về nghĩa, biện tài về từ và biện tài về ứng đối.

Lại có bốn pháp, đó là bốn trú xứ của thức: Sắc là trú xứ thức, duyên sắc, trú nơi sắc, sắc và ái cùng tăng trưởng. Thọ thức, tưởng thức và hành thức cũng như vậy.

Lại có bốn pháp, đó là bốn sự trói buộc: Trói buộc của dục, trói buộc của hữu, trói buộc của thấy biết và trói buộc của vô minh.

Lại có bốn pháp, đó là bốn vô ách: Không có gông trói của dục, không có gông trói của hữu, không có gông trói của thấy biết và không có gông trói của vô minh.

Lại có bốn pháp, đó là bốn loại thanh tịnh: Thanh tịnh do giới, thanh tịnh do tâm, thanh tịnh do thấy biết và thanh tịnh do vượt qua nghi ngờ.

Lại có bốn pháp, đó là bốn điều biết: Biết nhận điều đáng nhận, biết làm việc đáng làm, biết vui điều đáng vui và biết từ bỏ cái đáng từ bỏ.

Lại có bốn pháp, đó là bốn oai nghi: Biết đi lúc nên đi, biết đứng lúc nên đứng, biết ngồi lúc nên ngồi và biết nằm lúc nên nằm.

Lại có bốn pháp, đó là bốn cách suy tư: Suy tư ít, suy tư rộng, suy tư vô lượng và suy tư vô sở hữu.

Lại có bốn pháp, đó là bốn cách trả lời:46 Trả lời bằng sự quả quyết, trả lời bằng cách giảng giải phân biệt, trả lời bằng cách chất vấn ngược lại và trả lời bằng sự im lặng.

Lại có bốn pháp, đó là bốn pháp phòng hộ của Phật: Đức Như Lai thân hành thanh tịnh, không có thiếu sót, không có sơ suất, có thể tự phòng hộ; khẩu hành thanh tịnh; ý hành thanh tịnh và mạng hành thanh tịnh cũng đều như vậy.”

Đây là pháp chân thực do chính đức Như Lai nói, chúng ta phải cùng nhau kết tập để phòng sự tranh cãi, khiến cho Phạm hạnh được tồn tại lâu dài, để số đông được lợi ích và trời, người được an vui.

[0051b06] Này các Tỳ-kheo, đức Như Lai nói:

“Có năm pháp chân thực, đó là năm nhập: Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị và thân xúc chạm.

Lại có năm pháp, đó là năm thủ uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành và thức thủ uẩn.
Lại có năm pháp, đó là năm sự ngăn che:47 Tham dục, sân hận, ngủ nghỉ, trạo cử48 và nghi ngờ do dự.

Lại có năm pháp, đó là năm hạ phần kiết sử: Thân kiến, giới cấm thủ, nghi, tham dục và sân hận kiết sử.

Lại có năm pháp, đó là năm thượng phần kiết sử: Sắc ái, vô sắc ái, vô minh, kiêu mạn và trạo hối kiết sử.

Lại có năm pháp, đó là năm căn: Tín, tấn, niệm, định và tuệ căn.

Lại có năm pháp, đó là năm lực: Tín, tấn, niệm, định và tuệ lực.

Lại có năm pháp, là năm điều mà không ai có thể tước đoạt:49 Một là Tỳ-kheo tin Phật là đấng Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu; hai là, Tỳ-kheo không bị bệnh tật, thân thường an ổn; ba là, ngay thẳng, không dua nịnh, nếu có thể được như thế, đức Như Lai sẽ chỉ bày cho con đường tắt đến Niết-bàn; bốn là, tự mình chuyên niệm nhất tâm, không cho tán loạn, những điều đọc tụng trước đây ghi nhớ mãi không quên; năm là, khéo quán xét sự sanh diệt của các pháp, dùng hạnh Hiền thánh để diệt tận gốc khổ.

Lại có năm pháp, đó là năm lời nói ác: Nói không đúng lúc, nói không đúng sự thật, nói lời vô nghĩa, nói lời thách đố và nói lời không có từ tâm.

Lại có năm pháp, đó là năm lời nói thiện: Nói đúng lúc, nói đúng sự thật, nói lời có nghĩa, nói lời ôn hòa và nói với từ tâm.

Lại có năm pháp, đó là năm sự ganh ghét: Ganh ghét về chỗ ở, ganh ghét về thí chủ, ganh ghét về lợi dưỡng, ganh ghét về sắc và ganh ghét về giáo pháp.

Lại có năm pháp, đó là năm lối vào giải thoát: Một là nghĩ thân là bất tịnh; hai là nghĩ thức ăn là bất tịnh; ba là nghĩ tất cả hành là vô thường; bốn là nghĩ tất cả thế gian không đáng vui; năm là nghĩ đến sự chết.

Lại có năm pháp, đó là năm phạm vi giải thoát: Một là, ở đây vị Tỳ-kheo đối với dục, không ưa, không động, không gần gũi, chỉ nghĩ đến việc thoát ly, thích hạnh viễn ly, không lười biếng, tâm vị ấy nhu hòa, ly dục, giải thoát. Khi những lậu hoặc, trói buộc phát sanh do dục, vị ấy diệt trừ, xả ly hoàn toàn mà được giải thoát, đó gọi là giải thoát khỏi dục. Hai là giải thoát khỏi sân hận. Ba là giải thoát khỏi ganh ghét. Bốn là giải thoát khỏi sắc và năm là giải thoát khỏi thân kiến. Tất cả đều phải tu tập như vậy.

[0051c03] Có năm pháp, đó là năm điều hoan hỷ khi vào đạo giải thoát. Nếu vị Tỳ-kheo siêng năng, không lười biếng, thích ở nơi thanh vắng, chuyên niệm nhất tâm, những gì chưa hiểu thì được hiểu, những gì chưa đoạn dứt liền đoạn dứt, những gì chưa an thì được an. Những gì là năm? Một là, Tỳ-kheo nghe đức Như Lai nói pháp, hoặc nghe bậc Phạm hạnh nói pháp, hay nghe Sư trưởng nói pháp, rồi tư duy quán sát, phân biệt ý nghĩa của pháp trên, tâm được hoan hỷ, khi đã được hoan hỷ thì được pháp lạc, khi đã được pháp lạc thì thân tâm an ổn, khi thân tâm đã an ổn thì được thiền định, khi được thiền định thì thấy đúng như thật, đó là vào giải thoát thứ nhất; hai là ngay đây vị Tỳ-kheo khi nghe pháp đã được hoan hỷ; ba là khi thọ trì đọc tụng cũng được hoan hỷ; bốn là khi nói cho người khác nghe cũng lại hoan hỷ; năm là khi suy tư phân biệt cũng lại hoan hỷ, ở nơi pháp mà được đắc định cũng như vậy.

Lại có năm pháp, đó là năm hạng người: Một là Trung Bát-niết-bàn;50 hai là Sanh Bát-niết-bàn;51 ba là Vô hành Bát-niết-bàn;52 bốn là Hữu hành Bát-niết-bàn53 và năm là Thượng lưu A-ca-ni-trá Bát-niết-bàn.”54

Này các Tỳ-kheo, đây là pháp chân thực do chính đức Như Lai nói, chúng ta phải cùng nhau kết tập để phòng sự tranh cãi, khiến cho Phạm hạnh được tồn tại lâu dài, để số đông được lợi ích và trời, người được an vui.

Này các Tỳ-kheo, đức Như Lai nói:

“Có sáu pháp chân thực, đó là sáu xứ bên trong: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.

Lại có sáu pháp, đó là sáu xứ bên ngoài: Sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp.

Lại có sáu pháp, đó là sáu loại thức: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.

Lại có sáu pháp, đó là sáu loại xúc: Nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc.

Lại có sáu pháp, đó là sáu loại thọ: Nhãn thọ, nhĩ thọ, tỷ thọ, thiệt thọ, thân thọ và ý thọ.

Lại có sáu pháp, đó là sáu loại tưởng: Tưởng về sắc, tưởng về thanh, tưởng về hương, tưởng về vị, tưởng về xúc và tưởng về pháp.

Lại có sáu pháp, đó là sáu loại tư: Sắc tư, thanh tư, hương tư, vị tư, xúc tư và pháp tư.

Có sáu pháp, đó là sáu loại ái: Ái sắc, ái thanh, ái hương, ái vị, ái xúc và ái pháp.

Có sáu pháp, đó là sáu nguồn gốc đưa đến sự tranh chấp: Một là, nếu Tỳ-kheo ưa sân không bỏ, không kính đức Như Lai, không kính Pháp, không kính Tăng, đối với giới thì có những khiếm khuyết, nhiễm ô, bất tịnh, ở trong chúng hay sanh cãi vã, bị người ghét bỏ, phá rối tịnh chúng, khiến trời và người không được yên. Này các Tỳ-kheo, các thầy phải tự quán sát bên trong, giả sử có sân hận, như bị người kia quấy rối thì phải nhóm chúng lại một cách hòa hợp, tìm đủ mọi cách chấm dứt nguyên nhân sự tranh cãi này. Các thầy lại phải chuyên niệm tự quán, giả sử kết hận đã diệt thì cũng nên tìm cách để ngăn chặn tâm mình, chớ để tái phát. Hai là, các Tỳ-kheo ngoan cố, không nghe sự thật; ba là, tham lam, keo kiệt, ganh ghét; bốn là, lường gạt, dối trá; năm là, cố chấp hiểu biết đã học của mình không chịu buông bỏ; sáu là, mê lầm nơi tà kiến, biên kiến, cũng đều như vậy.

Lại có sáu pháp, đó là sáu giới: Tức là đất, nước, lửa, gió, không và thức giới.55

Lại có sáu pháp, đó là sáu hạnh quán sát: Một là mắt quán sắc; hai là tai quán âm thanh; ba là mũi quán mùi hương; bốn là lưỡi quán vị; năm là thân quán sự xúc chạm; sáu là ý quán pháp.

[0052a08] Lại có sáu pháp, đó là sáu giới giải thoát: Một là, nếu Tỳ-kheo nói như vầy: “Ta tu tâm từ mà lại sân hận.” Những Tỳ-kheo khác nói: “Ông chớ nói thế, chớ hủy báng đức Như Lai, Như Lai không nói thế, muốn tu hạnh từ giải thoát mà lại sanh tưởng sân hận thì điều này không thể xảy ra. Phật dạy, trừ sân hận rồi sau mới đạt được tâm từ.” Hai là, nếu có Tỳ-kheo nói: “Ta thực hành bi giải thoát nhưng lại sanh tâm ganh ghét”; ba là “thực hành hạnh hỷ giải thoát nhưng lại sanh tâm ưu não”; bốn là “thực hành hạnh xả giải thoát nhưng lại sanh tâm yêu ghét”; năm là “thực hành vô ngã giải thoát nhưng lại sanh tâm hồ nghi”; sáu là “thực hành vô tướng tâm định nhưng lại sanh tâm loạn tưởng”, cũng lại như vậy.

Lại có sáu pháp, đó là sáu thứ vô thượng: Thấy vô thượng, nghe vô thượng, lợi dưỡng vô thượng, giới vô thượng, cung kính vô thượng và nhớ nghĩ vô thượng.

Lại có sáu pháp, đó là sáu tùy niệm: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí và niệm thiên.”

Đó là pháp chân thực do chính đức Như Lai nói, chúng ta phải cùng nhau kết tập để phòng sự tranh cãi, khiến cho Phạm hạnh được tồn tại lâu dài, để số đông được lợi ích và trời, người được an vui.

Này các Tỳ-kheo, đức Như Lai nói:

“Có bảy pháp chân thực, đó là bảy phi pháp: Không có tín tâm, không có tự thẹn với mình, không có xấu hổ với người, ít học hỏi, biếng nhác, hay quên và không có trí tuệ.

Lại có bảy pháp, đó là bảy pháp chân thực: Tín tâm, tự thẹn với mình, xấu hổ với người, nghe nhiều, siêng năng, ghi nhớ không quên và có trí tuệ.

Lại có bảy pháp, đó là bảy chỗ thức trú: Như có chúng sanh có bao nhiêu thân thì có bấy nhiêu tưởng như cõi trời và cõi người, đó là chỗ thức trú thứ nhất. Hoặc có chúng sanh có nhiều loại thân nhưng chỉ có một tưởng, như trời Phạm Quang Âm khi mới sanh lên cõi ấy, đó là chỗ thức trú thứ hai. Hoặc có chúng sanh chỉ có một thân nhưng có ngàn loại tưởng như trời Quang Âm, đó là chỗ thức trú thứ ba. Hoặc có chúng sanh chỉ có một thân và một tưởng như trời Biến Tịnh, đó là chỗ thức trú thứ tư. Hoặc có chúng sanh ở Không Xứ, đó là chỗ thức trú thứ năm. Hoặc có chúng sanh ở Thức Xứ, đó là chỗ thức trú thứ sáu. Hoặc có chúng sanh ở Vô Sở Hữu Xứ,56 đó là chỗ thức trú thứ bảy.

Lại có bảy pháp, đó là bảy pháp siêng năng: Một là siêng năng giữ giới, hai là siêng năng diệt tham dục, ba là siêng năng phá tà kiến, bốn là siêng năng nghe nhiều, năm là siêng năng tinh tấn, sáu là siêng năng chánh niệm và bảy là siêng năng thiền định.

Lại có bảy pháp, đó là bảy tưởng: Một là tưởng về bất tịnh, hai là tưởng về thức ăn bất tịnh, ba là tưởng về thế gian không đáng vui, bốn là tưởng về sự chết, năm là tưởng về vô thường, sáu là tưởng về vô thường - khổ và bảy là tưởng về khổ - vô ngã.

Lại có bảy pháp, đó là bảy pháp tam-muội đầy đủ: Một là chánh kiến, hai là chánh tư duy, ba là chánh ngữ, bốn là chánh nghiệp, năm là chánh mạng, sáu là chánh tinh tấn57 và bảy là chánh niệm.

Lại có bảy pháp, đó là bảy pháp giác chi:58 Một là niệm, hai là trạch pháp, ba là tinh tấn, bốn là hỷ, năm là khinh an, sáu là định và bảy là xả giác chi.”59

Đó là pháp chân thực do chính đức Như Lai nói, chúng ta phải cùng nhau kết tập để phòng sự tranh cãi, khiến cho Phạm hạnh được tồn tại lâu dài, để số đông được lợi ích và trời, người được an vui.

[0052b11] Này các Tỳ-kheo, đức Như Lai nói:

“Có tám pháp chân thực, đó là tám pháp thế gian: Lợi ích, suy tổn, chê bai, khen ngợi, tán thán, gièm pha, khổ não, an vui.60

Lại có tám pháp, đó là tám pháp giải thoát: Sắc quán là sắc,61 là giải thoát thứ nhất. Bên trong không có sắc tưởng, quán sắc bên ngoài,62 là giải thoát thứ hai. Tịnh giải thoát, là giải thoát thứ ba. Vượt qua sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng, không niệm tưởng nào khác, trụ vào Không vô biên xứ, là giải thoát thứ tư. Vượt khỏi Không vô biên xứ, trú vào Thức vô biên xứ, là giải thoát thứ năm. Vượt khỏi Thức vô biên xứ, trú vào Vô sở hữu xứ, là giải thoát thứ sáu. Vượt khỏi Vô sở hữu xứ, trú vào Hữu tưởng vô tưởng xứ,63 là pháp giải thoát thứ bảy. Vượt khỏi Hữu tưởng vô tưởng xứ, trú Diệt tận định, là giải thoát thứ tám.

Lại có tám pháp, đó là tám chi Thánh đạo, gồm: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn,64 chánh niệm và chánh định.

Có tám pháp, đó là tám hạng người: Một là đang hướng đến Tu-đà-hoàn; hai là chứng quả Tu-đà-hoàn; ba là đang hướng đến Tư-đà-hàm; bốn là chứng quả Tư-đà-hàm; năm là đang hướng đến A-na-hàm; sáu là chứng quả A-na-hàm; bảy là đang hướng đến A-la-hán và tám là chứng quả A-la-hán.”

Đó là pháp chân thực do chính đức Như Lai nói, chúng ta phải cùng nhau kết tập để phòng sự tranh cãi, khiến cho Phạm hạnh được tồn tại lâu dài, để số đông được lợi ích và trời, người được an vui.

Này các Tỳ-kheo, đức Như Lai nói:

“Có chín pháp chân thực nói về chín nơi ở của chúng sanh: Hoặc có chúng sanh có bao nhiêu thân thì có bấy nhiêu tưởng, như cõi trời và cõi người, đó là chỗ ở thứ nhất của chúng sanh. Hoặc có chúng sanh gồm nhiều thân nhưng chỉ có một tưởng, như trời Phạm Quang Âm khi mới sanh lên cõi ấy, đó là chỗ ở thứ hai của chúng sanh. Hoặc có chúng sanh chỉ có một thân nhưng có nhiều tưởng, như trời Quang Âm, đó là chỗ ở thứ ba của chúng sanh. Hoặc có chúng sanh chỉ có một thân và một tưởng, như trời Biến Tịnh, đó là chỗ ở thứ tư của chúng sanh. Hoặc có chúng sanh không có tưởng và không có giác tri, tức là trời Vô Tưởng, đó là chỗ ở thứ năm của chúng sanh. Lại có chúng sanh ở Không Vô Biên Xứ, đó là chỗ ở thứ sáu của chúng sanh. Lại có chúng sanh ở Thức Vô Biên Xứ, đó là chỗ ở thứ bảy của chúng sanh. Lại có chúng sanh ở Vô Sở Hữu Xứ, đó là chỗ ở thứ tám của chúng sanh. Lại có chúng sanh ở Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ, đó là chỗ ở thứ chín của chúng sanh.”

Đó là pháp chân thực do chính đức Như Lai nói, chúng ta phải cùng nhau kết tập để phòng sự tranh cãi, khiến cho Phạm hạnh được tồn tại lâu dài, để số đông được lợi ích và trời, người được an vui.

Này các Tỳ-kheo, đức Như Lai nói:

“Có mười pháp chân thực, đó là mười vô học: Một là vô học chánh kiến; hai là vô học chánh tư duy; ba là vô học chánh ngữ; bốn là vô học chánh nghiệp; năm là vô học chánh mạng; sáu là vô học chánh niệm; bảy là vô học chánh tinh tấn; tám là vô học chánh định; chín là vô học chánh trí và mười là vô học chánh giải thoát.”

Đó là pháp chân thực do chính đức Như Lai nói, chúng ta phải cùng nhau kết tập để phòng sự tranh cãi, khiến cho Phạm hạnh được tồn tại lâu dài, để số đông được lợi ích và trời, người được an vui.

Bấy giờ, đức Thế Tôn liền ấn khả cho thời thuyết pháp của Tôn giả Xá-lợi-phất.

Các Tỳ-kheo nghe Tôn giả Xá-lợi-phất thuyết pháp xong đều hoan hỷ phụng hành.65

Chú thích

1 Nguyên tác: Chúng tập kinh 眾集經 (T.01. 0001.9. 0049b26). Tham chiếu: Thập thượng kinh 十上經 (T.01. 0001.10. 0052c17); Phật thuyết Đại tập pháp môn kinh 佛說大集法門經 (T.01. 0012. 0226c03); D. 33, Saṅgīti Sutta (Kinh Phúng tụng); D. 34, Dasuttara Sutta (Kinh Thập thượng).

2 Mạt-la (末羅, Mallā).

3 Am-bà (菴婆, Amba).

4 Xà-đầu (闍頭, Cunda).

5 Ba-bà (波婆, Pāvā).

6 Nguyên tác: Dạ-đa (夜多). Tham chiếu: D. 33, Saṅgīti Sutta (Kinh Phúng tụng): Abhikkantā (đêm đã khuya).

7 Xá-lợi-phất (舍利弗, Sāriputta).
8 Ni-kiền-tử (尼乾子, Nigaṇṭha Nāthaputta).

9 Nguyên tác: Tam-da-tam Phật (三耶三佛, Sammāsambuddha): Đấng Giác Ngộ Viên Mãn.

10 Nguyên tác: Pháp (法, Dhamma), Luật (律, Vinaya).

11 Nguyên tác: Như Lai thuyết nhất Chánh pháp (如來說一正法). Tham chiếu: D. 33: Sammāsambuddhena eko dhammo sammadakkhāto (có một pháp được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy), HT. Thích Minh Châu dịch. Ở đây, chữ chánh (正) được dịch từ chữ samma, biến thể của sammā, nghĩa là chân chánh.

12 Tham chiếu: D. 33: Sabbe sattā āhāraṭṭhitikā (Tất cả loài hữu tình do các món ăn (āhāra) mà an trú), HT. Thích Minh Châu dịch.

13 Hành (行, sankhāra). S. III. 86 định nghĩa: “Này các Tỷ-kheo, thế nào gọi là hành? Làm cho hiện hành (pháp) hữu vi nên gọi là hành. Làm cho hiện hành (pháp) hữu vi gì? Làm cho hiện hành sắc với sắc tánh, làm cho hiện hành thọ với thọ tánh, làm cho hiện hành tưởng với tưởng tánh, làm cho hiện hành các hành với hành tánh, làm cho hiện hành thức với thức tánh. Làm cho hiện hành (pháp) hữu vi, này các Tỷ-kheo, nên gọi là các hành” (HT. Thích Minh Châu dịch).

14 Hữu kiến, vô kiến (有見無見, Bhavadiṭṭhi ca vibhavadiṭṭhi). Hữu kiến (有見) còn gọi Thường kiến. Vô kiến (無見) còn gọi Đoạn kiến (斷見). Tham chiếu: Pháp Hoa huyền tán 法華玄贊 (T.34. 1723.4. 0725b07): Hữu kiến là chấp có ngã tồn tại ở đời sau, tức Thường kiến; Vô kiến là chấp không có ngã tồn tại ở đời sau, tức Đoạn kiến (若有者執我後身為有,常見也若無者執我後身為無,斷見也).

15 Tận trí (盡智, Khayañāṇa). Một trong 10 trí. Đại trí độ luận 大智度論 (T.25. 1509.23. 0233a01) giải thích “Tận trí” nghĩa là Ta đã thấy khổ, đã đoạn tập, đã chứng diệt và đã tu đạo. Khi quán sát như vậy thì sẽ thấy biết và chứng ngộ rõ ràng với trí tuệ vô lậu (盡智者,我見苦已,斷集已,盡證已,修道已,如是念時,無漏智慧見明覺).

16 Vô sanh trí (無生智, Anuppādeñāṇa): Một trong 10 trí. Đại trí độ luận 大智度論 (T.25. 1509.23. 0233a02-04) giải thích “Vô sanh trí” nghĩa là Ta đã thấy khổ rồi thì khổ sẽ không còn thấy nữa, đã đoạn tập rồi thì sẽ không còn đoạn nữa, đã chứng diệt rồi thì sẽ không phải chứng nữa và đã tu đạo rồi thì sẽ không phải tu nữa. Khi quán sát như vậy thì sẽ thấy biết và chứng ngộ rõ ràng với trí tuệ vô lậu (無生智者,我見苦已不復更見,斷集已不復更斷,盡證已不復更證,修道已不復更修;如是念時,無漏智慧見明覺). Nói cách khác, trí tuệ nhận biết rằng 3 thứ phiền não dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu cùng với mọi trói buộc, tùy miên đã diệt sạch, không còn sanh khởi trở lại gọi là “Vô sanh trí.”

17 Tam ác hành (三惡行) chỉ cho hết thảy nghiệp bất thiện của thân, khẩu, ý. Tham chiếu: A-tỳ-đạt-ma Tập dị môn túc luận 阿毘達磨集異門足論 (T.26. 1536.3. 0452c11); A-tỳ-đạt-ma Thuận chánh lý luận 阿毘達磨順正理論 (T.29. 1562.41. 0574a25); A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận 阿毘達磨俱舍論 (T.29. 1558.16. 0084a16).

18 Tham chiếu: D. 33: Dānamayaṃ puññakiriyavatthu, sīlamayaṃ puññakiriyavatthu, bhāvanāmayaṃ puññakiriyavatthu (Thí hành phước nghiệp sự, giới hành phước nghiệp sự, tu hành phước nghiệp sự), HT. Thích Minh Châu dịch. Ba phước nghiệp và được các truyền thống kinh điển trình bày có đôi chút khác biệt. Ở đây, theo EĀ. 21.2, việc giữ giới cũng như thực hành bốn tâm vô lượng chính là bình đẳng nghiệp. Bên cạnh đó, chữ “tư duy” (思惟), theo Du-già sư địa luận 瑜伽師地論 (T.30. 1579.37. 0497a11) có nghĩa là sống viễn ly, vui trong pháp thiền định (謂居遠離, 樂思惟法). Nghĩa này gần tương đồng với chữ bhāvanā trong Pāli. Như vậy, 3 phước nghiệp nêu trên chính là bố thí, trì giới và tu tập.

19 Dục ái (欲愛, kāmataṅhā): Tham đắm cõi Dục. Hữu ái (有愛, bhavataṅhā): Tham đắm cõi Sắc. Vô hữu ái (無有愛, vibhavataṅhā): Tham đắm cõi Vô sắc.

20 Dục lậu (欲漏, kāmāsava): Tham dục khởi phiền não trói buộc chúng sanh trong cõi Dục. Hữu lậu (有漏, bhavāsava): Tất cả những phiền não trói buộc chúng sanh trong cõi Sắc và vô sắc. Vô minh lậu (無明漏, avijjāsava): Phiền não si, tức vô minh, trói buộc chúng sanh trong 3 cõi.

21 Tam bất thiện giới (三不善界): Nhiễm dục giới (染欲界), sân khuể giới (瞋恚界) và tổn hại giới (損害界). D. 33: Tisso dhātuyo (3 bất thiện giới): Kāma (dục), vyāpāda (sân khuể), vihiṃsa (hại).

22 Nguyên tác: Chỉ tức (止息). Tạp A-hàm viết là “ỷ tức” (猗息), “hưu tức” (休息), “chỉ tức” (止息).

23 Tam minh (三明, tivijjā) còn gọi “tam đạt” (三達), “tam chứng pháp” (三證法).

24 Tự thức túc mạng trí minh (自識宿命智明) còn gọi Túc mạng trí chứng minh (宿命智證明), Túc trụ tùy niệm trí tác chứng minh (宿住隨念智作證明), Túc trụ trí chứng minh (宿住智證明), Túc trụ trí minh (宿住智明), Túc mạng minh (宿命明), Túc mạng trí (宿命智).

25 Thiên nhãn trí minh (天眼智明) còn gọi Thiên nhãn minh (天眼明), Sanh tử trí chứng minh (生死智證明).

26 Lậu tận trí minh (漏盡智明) còn gọi Lậu tận trí chứng minh (漏盡智證明), Lậu tận minh (漏盡明), Lậu tận trí (漏盡智).

27 Xem chú thích 22 ở trên.

28 Còn gọi Tam vô lậu căn (三無漏根), gồm: Vị tri dục tri căn (未知欲知根, anājñātājñāsyāmīndriya): Căn cơ thuộc giai vị Kiến đạo. Tri căn (知根), còn gọi “dĩ tri căn” (已知根, ājñendriya): Căn cơ thuộc giai vị Tu đạo. Tri dĩ căn, cụ tri căn (知已根, 具知根, ājñātāvīndriya): Căn cơ thuộc địa vị Vô học.

29 Chánh định tụ (正定聚) là một trong 3 tụ. Tụ nghĩa là từng nhóm. Chánh định tụ còn gọi “chánh tánh định tụ” (正性定聚), “chánh định” (正定), “đẳng tụ” (等聚), “thiện tụ” (善聚).

30 Tà định tụ (邪定聚) cũng gọi “tà tánh định tụ” (邪性定聚), “tất tà tụ” (必邪聚), “tà kiến tế” (邪見際), gọi tắt là “tà định” (邪定).

31 Bất định tụ (不定聚) cũng gọi “bất định tánh tụ” (不定性聚), “bất định” (不定): Chẳng thuộc tà chẳng thuộc chánh kiến, là một trong 3 tụ. Dựa theo sự sai khác của căn cơ chúng sanh, có thể chia thành 3 nhóm. Tâm tánh chúng sanh nào chưa thuộc chánh hay tà, hễ gặp duyên lành thì thành quyết định chánh, hễ gặp duyên ác thì thành quyết định tà. Vì bất định như thế nên gọi “bất định tụ.”

32 Niên kỳ Trưởng lão (年耆長老): Nhiều tuổi nên được gọi là Trưởng lão. Pháp Trưởng lão (法長老): Do thấu rõ giáo pháp nên gọi là Trưởng lão. Tác Trưởng lão (作長老): Giả danh Trưởng lão. Trường hợp thứ 3 này, Pāli gọi là sammutithera, nghĩa là Trưởng lão thế tục.

33 Đoàn thực (揣食): Ăn thức ăn được vo thành những viên tròn, nhỏ. Đoàn thực được chia làm hai loại: 1. Thô, như cơm, bánh, miến, mì, v.v... 2. Tế, như bơ, dầu, hương vị và các đồ uống, v.v... Đoàn thực là chỉ chung cho tất cả thức ăn của cõi dục. Xúc thực (觸食), cũng gọi là tế hoạt thực, lạc thực, ăn bằng cách xúc chạm. Niệm thực (念食): Thức ăn bằng sự nhớ nghĩ, một trong 9 cách ăn. Tăng. 增 (T.02. 0125.45.4. 0772b13) nêu ra 4 loại ăn thế gian và 4 loại ăn xuất thế gian, “niệm thực” thuộc về loại ăn xuất thế gian, nghĩa là nếu hành giả luôn nhớ nghĩ pháp thiện và giữ gìn không quên thì chắc chắn sẽ nuôi lớn gốc lành, bổ ích tuệ mạng, như thức ăn của thế gian nuôi lớn và bổ ích cho sắc thân vậy. Thức thực (識食): Ăn bằng tinh thần, nghĩa là trạng thái lấy tinh thần làm chủ thể để bảo trì sự sống còn, gọi là “thức thực.” Tăng. 增 (T.02. 0125.29.4. 0656c19) ghi: Thế nào là thức thực? Những gì được niệm tưởng bởi thức, được nhận biết bởi ý. Bắt đầu từ cõi Phạm thiên cho đến cõi trời Hữu Tưởng và Vô Tưởng đều dùng thức làm thức ăn. Đây gọi là thức thực (彼云何為識食? 所念識者, 意之所知, 梵天為首, 乃至有想無想天, 以識為食, 是謂為識食).

34 Nguyên tác: Thọ (受), dùng như chữ “thủ” (取, upādāna).

35 Nguyên tác: Dục thọ (欲受, kāmupādāna).

36 Nguyên tác: Ngã thọ (我受, atta vādupādāna).

37 Nguyên tác: Giới thọ (戒受, sīlabbatupādāna).

38 Nguyên tác: Kiến thọ (見受, diṭṭhupādāna).

39 Tứ vô sắc định (四無色定, Catasso arūpasamāpatti): Bốn loại cảnh giới đã vượt khỏi sự trói buộc của sắc pháp (vật chất). Định này là do tư duy về 4 cõi Vô sắc mà đạt được. Nếu muốn sanh về 4 cõi Vô sắc thì phải tu tập 4 định Vô sắc.

40 Nguyên tác: Tận sân khuể tưởng (盡瞋恚想), còn gọi Đối ngại tưởng (對礙想) hoặc Hữu đối tưởng (有對想, paṭighasaññā). Theo Đại duyên phương tiện kinh 大緣方便經 (T.01. 0001.10. 0062b19), trạng thái này chính là vượt qua sắc tưởng, diệt hữu đối tưởng, không niệm tưởng tạp loạn, trụ vào Không xứ và Bốn giải thoát (度色想, 滅有對想, 不念雜想,住空處, 四解脫).

41 Nguyên tác: Tứ Hiền thánh tộc (四賢聖族), cũng còn gọi là tứ Thánh chủng, 4 sự truyền thừa của bậc Thánh.

42 Pháp trí (法智, Dhamme ñāṇaṃ) còn gọi Đạo trí pháp (道智法, Maggañāṇadhamma). Theo Chú giải Kinh Ñāṇavatthu (Ñāṇavatthusuttavaṇṇanā); S. 12.33 - II. 56, Pháp trí chính là Đạo trí (Dhamme ñāṇanti maggañāṇaṃ).

43 Vị tri trí (未知智) còn gọi Loại trí (類智). Theo Chú giải Kinh Ñāṇavatthu (Ñāṇavatthusuttavaṇṇanā), S. 12.33 - II. 56, đây là trí tỉnh giác quán sát (paccavekkhaṇañāṇassetaṃ).

44 Đẳng trí (等智) còn gọi Thế tục đẳng trí (世俗等智), trí tuệ của thế gian. Tham chiếu: Đại thừa nghĩa chương 大乘義章 (T.44. 1851.15. 0769b27).

45 Tri tha nhân tâm trí (知他人心智) còn gọi Tha tâm trí (他心智, Pariye ñāṇaṃ).

46 Nguyên tác: Tứ ký luận (四記論), còn gọi “tứ ký vấn” (四記問), “tứ ký” (四記). Tham chiếu: Phật địa kinh luận 佛地經論 (T.26. 1530.6. 0320c08); Du-già sư địa luận 瑜伽師地論 (T.30. 1579.81. 0753c22).

47 Ngũ cái (五蓋). “Cái” nghĩa là che lấp, tức chỉ cho 5 thứ phiền não che lấp tâm tính.

48 Nguyên tác: Điệu hý (調戲).

49 Nguyên tác: Diệt tận chi (滅盡支). Theo Nhất thiết trí kinh 一切智經 (T.01. 0026.59. 0793c24), gọi là Đoạn chi (斷支), nghĩa là không ai có thể tước đoạt (無能奪者). Kinh điển Pāli gọi là “chi phần tinh cần.” Xem thêm A. III. 65, Padhāniyaṅga Sutta (Kinh Padhāniyaṅga).

50 Trung Bát-niết-bàn (中般涅槃, Antarāparinibbāyī), trường hợp Thánh giả A-na-hàm, sau khi chết ở Dục giới, trước khi tái sanh Sắc giới, nhập Niết-bàn ở khoảng trung gian.

51 Sanh Bát-niết-bàn (生般涅槃, Upahaccaparinibbāyī), vị A-na-hàm sau khi tái sanh Sắc giới một thời gian không lâu liền nhập Vô dư y Niết-bàn.

52 Vô hành Bát-niết-bàn (無行般涅槃, Asaṅkhāraparinibbāyī), sau khi tái sanh Sắc giới, không do nỗ lực tu tập mà nhập Niết-bàn.

53 Hữu hành Bát-niết-bàn (有行般涅槃, Sasaṅkhāraparinibbāyī), vị A-na-hàm sau khi sanh Sắc giới, trải qua một thời gian nỗ lực tu tập nữa rồi mới nhập Niết-bàn.

54 Thượng lưu A-ca-ni-trá Bát-niết-bàn (上流阿迦尼吒般涅槃), lần lượt tái sanh lên từ cõi Sơ thiền, cho đến cao nhất của Tứ thiền, rồi nhập Niết-bàn trong trạng thái đó.

55 Lục giới (六界) chỉ cho 6 đại, gồm: đất, nước, lửa, gió, không và thức, là những nguyên tố cơ bản tạo thành vạn hữu.

56 Nguyên tác: Bất dụng xứ (不用處).

57 Nguyên tác: Chánh phương tiện (正方便).

58 Nguyên tác: Ý (意).

59 Nguyên tác: Hộ giác ý (護覺意).

60 Tám pháp thế gian (aṭṭha lokadhammā) gồm: lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc (利, 衰, 毀, 譽, 稱, 譏, 苦, 樂). 1. Lợi là lợi ích; 2. Suy là suy diệt, những gì tổn hại cho ta đều gọi là suy; 3. Hủy là chê bai; 4. Dự là khen ngợi; 5. Xưng là tán tụng; 6. Cơ là gièm pha; 7. Khổ nghĩa là gặp duyên ác, trong cảnh ngộ éo le, cảm thấy buồn khổ; 8. Lạc là hàm ý vui sướng, nghĩa là gặp duyên tốt, cảnh ngộ
tốt, thân tâm đều vui sướng.

61 Sắc quán sắc (色觀色, rūpī rūpāni passati): Có sắc và thấy được các sắc.

62 Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc (內無色想觀外色, Ajjhattaṃ arūpasaññī bahiddhā rūpāni passati).

63 Hữu tưởng vô tưởng xứ (有想無想處) tức Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

64 Nguyên tác: Chánh phương tiện (正方便).

65 Bản Hán, hết quyển 8.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.