Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 01 »
Kinh Trường A-Hàm
(長阿含經)
(Bản dịch của Trung tâm Dịch thuật Trí Tịnh)
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật cùng với đại chúng một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo ngụ tại Ma-la-hê-sưu2 rồi tuần tự du hành đến nước Ma-lâu.3
Tại đây, Ngài dạy các Tỳ-kheo:
– Các thầy hãy tự mình thắp đuốc, thắp đuốc Chánh pháp, đừng thắp gì khác; hãy nương tựa chính mình, nương tựa Chánh pháp, đừng nương gì khác. Này các Tỳ-kheo! Thế nào là tự mình thắp đuốc, thắp đuốc Chánh pháp, đừng thắp gì khác? Thế nào là nương tựa chính mình, nương tựa Chánh pháp, đừng nương gì khác?
Ở đây, các Tỳ-kheo quán thân trong thân, siêng năng không biếng nhác, ghi nhớ không quên, trừ tham ưu ở đời.
Quán thân ngoài thân, quán thân trong ngoài thân, siêng năng không biếng nhác, ghi nhớ không quên, trừ tham ưu ở đời. Quán thọ, quán tâm4 và quán pháp cũng như thế.
Đó chính là Tỳ-kheo tự mình thắp đuốc, thắp đuốc Chánh pháp, không thắp gì khác; nương tựa chính mình, nương tựa Chánh pháp, không nương gì khác.
[0039b03] Tu hành được như vậy thì ma không thể quấy nhiễu, công đức ngày một tăng thêm. Vì sao như vậy?
Này Tỳ-kheo! Vào thời quá khứ xa xưa, có Vua Kiên Cố Niệm5 dòng Sát-lợi đã được quán đảnh,6 làm Chuyển Luân Thánh Vương, thống lãnh bốn châu thiên hạ.7 Đức vua dùng pháp cai trị, là bậc thù thắng trong cõi người, đầy đủ bảy báu: Một là bánh xe báu bằng vàng, hai là voi báu trắng, ba là ngựa tía báu, bốn là thần châu báu, năm là ngọc nữ báu, sáu là cư sĩ báu và bảy là chủ binh báu. Vua còn có ngàn người con dũng mãnh uy hùng, đủ sức hàng phục giặc thù, không động đao binh mà tự nhiên thái bình.
Vua Kiên Cố Niệm trị thế một thời gian rất lâu. Một hôm, bánh xe báu bằng vàng trên không trung bỗng tự dời khỏi chỗ cũ. Lúc ấy, người quản xe liền đến thưa với vua:
“Tâu Đại vương! Ngài nên biết hôm nay bánh xe báu bỗng nhiên tự rời khỏi chỗ cũ.”
Nghe vậy, vua nghĩ: “Ta từng nghe các bậc Tôn túc xưa kia bảo rằng: ‘Nếu bánh xe báu của Chuyển Luân Thánh Vương tự dời đi thì mạng sống vua ấy không còn bao lâu nữa.’ Ta nay được hưởng phước lạc cõi người rồi, phải tìm cách thụ hưởng phước lạc cõi trời, nay nên nhường ngôi cho thái tử thống lãnh bốn châu thiên hạ, phong riêng một ấp cho người thợ cạo để họ giúp ta cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo.”
Ngay sau đó, Vua Kiên Cố Niệm liền gọi thái tử đến bảo: “Con biết không? Ta từng nghe các bậc Tôn túc xưa kia bảo rằng: ‘Nếu bánh xe báu của Chuyển Luân Thánh Vương tự dời đi thì thọ mạng vua ấy sắp hết.’ Trước đây ta được hưởng phước lạc cõi người rồi, sau này muốn được thụ hưởng phước lạc cõi trời, bởi thế ta sẽ cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, vậy ta đem bốn châu thiên hạ ủy thác cho con, hãy tự nỗ lực, chăm lo dân chúng.” Sau khi thái tử vâng lệnh nối ngôi, Vua Kiên Cố Niệm liền cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo.
Vua Kiên Cố Niệm xuất gia được bảy ngày thì bánh xe báu bằng vàng bỗng biến mất. Người quản xe liền đến trình với vua mới: “Tâu Đại vương! Ngài nên biết, bánh xe báu bỗng nhiên biến mất.” Nghe vậy, vua rất lo lắng, liền tìm đến chỗ phụ vương thưa:
“Tâu phụ vương! Nay bánh xe báu bỗng nhiên biến mất.”
Khi ấy Vua Kiên Cố Niệm bảo thái tử:
“Con chớ lo phiền về điều ấy rồi không vui. Bánh xe báu bằng vàng ấy không phải là tài sản của ta để lại cho con. Chỉ cần con siêng năng thực hành Chánh pháp Thánh Vương. Thực hành Chánh pháp rồi, vào đêm rằm trăng tròn, con hãy tắm gội bằng nước thơm rồi lên ngồi trên Chánh Pháp điện cùng các thể nữ vây quanh thì bánh xe báu thần diệu đó tự nhiên xuất hiện với ngàn căm, tỏa sáng đủ màu. Bánh xe đó do thợ trời tạo ra, không phải của thế gian.”
[0039c04] Thái tử thưa:
“Thưa phụ vương! Chánh pháp của Chuyển Luân Thánh Vương là gì? Và phải thực hành như thế nào?”
Nhà vua bảo thái tử:
“Hãy nương theo pháp, an lập nơi pháp, quyết định theo pháp, cung kính tôn trọng, xem xét theo pháp, lấy pháp làm đầu, giữ gìn Chánh pháp. Hãy dùng pháp mà dạy bảo các thể nữ, hãy dùng pháp mà quan tâm, dạy dỗ các vương tử, đại thần, bá quan, dân chúng, Sa-môn, Bà-la-môn cho đến các loài cầm thú, hết thảy đều nên bảo bọc và giúp đỡ.
Trong nước của con, nếu có Sa-môn hay Bà-la-môn nào tu hành chân chánh, công đức đầy đủ, siêng năng không biếng nhác, xa lìa kiêu mạn, nhẫn nhục, nhân ái; ở nơi thanh vắng tự mình tu tập, tự mình an trú, tự mình chứng nghiệm Niết-bàn; tự mình đoạn trừ tham dục rồi dạy người đoạn trừ tham dục, tự mình đoạn trừ sân hận rồi dạy người đoạn trừ sân hận, tự mình đoạn trừ ngu si rồi dạy người đoạn trừ ngu si; ở chỗ nhiễm mà không nhiễm, ở chỗ xấu mà không xấu, ở chỗ ngu mà không ngu; không dính mắc những thứ dễ dính mắc, không đứng chỗ nhiều người muốn đứng, không ở chỗ nhiều người thích ở; hành động ngay thẳng, lời nói ngay thẳng, ý nghĩ ngay thẳng; hành động thanh tịnh, lời nói thanh tịnh, ý nghĩ thanh tịnh; thi ân không chán, ăn mặc vừa đủ, ôm bát khất thực để làm ruộng phước cho chúng sanh; với những người như thế thì con phải thường tìm đến, tùy thời thỉnh ý về việc tu hành: Thế nào là thiện, thế nào là ác, thế nào là phạm, thế nào là không phạm, người nào đáng gần, người nào không đáng gần, việc gì đáng làm, việc gì không đáng làm và thực hành pháp gì để được an lạc lâu dài? Sau khi thỉnh ý rồi, con hãy tự mình xem xét, việc gì nên làm thì làm, việc gì đáng bỏ thì bỏ. Trong nước nếu có người già cả đơn độc, hãy giúp đỡ họ, nếu có kẻ nghèo cùng khốn khổ đến xin, cẩn thận chớ trái ý họ. Trong nước có những luật lệ phép tắc cũ, con chớ tự ý sửa đổi. Đó là pháp tu hành của Chuyển Luân Thánh Vương, con hãy phụng hành.”
Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Sau khi Chuyển Luân Thánh Vương nghe và thực hành đúng như lời phụ vương dạy, đến ngày rằm trăng tròn, vua tắm gội bằng nước thơm rồi lên ngồi trên bảo điện cùng các thể nữ vây quanh thì bỗng nhiên bánh xe báu tự hiện trước mặt, bánh xe có ngàn căm, tỏa sáng đủ màu, do thợ trời chế tạo bằng vàng ròng, chẳng phải của thế gian, đường kính bánh xe dài một trượng tư. Khi ấy, Chuyển Luân Thánh Vương thầm nghĩ: “Ta từng nghe các bậc Tôn túc xưa kia truyền rằng: ‘Nếu một vị vua dòng Sát-lợi đã được thọ pháp Quán đảnh trong lễ lên ngôi, đến ngày rằm trăng tròn, tắm gội bằng nước thơm, lên ngồi trên bảo điện cùng các thể nữ vây quanh, bỗng nhiên có bánh xe bằng vàng tự hiện trước mặt, bánh xe ngàn căm, tỏa sáng đủ màu, do thợ trời tạo, toàn bằng vàng ròng, thế gian chẳng có, đường kính một trượng tư, vị vua ấy được gọi là Chuyển Luân Thánh Vương.’ Nay có bánh xe báu tự hiện, chẳng đúng vậy sao? Nay ta hãy thử xem bánh xe báu ấy như thế nào.”
[0040a07] Thế rồi, Chuyển Luân Thánh Vương liền triệu tập bốn binh chủng, hướng về bánh xe báu bằng vàng, sửa áo bày vai phải, gối phải quỳ chấm đất, đưa tay phải chạm vào bánh xe và nói: “Hãy đi về hướng Đông, như pháp mà chuyển, chớ trái lệ thường.” Tức thì, bánh xe liền chuyển về Đông. Lúc ấy, vua cũng dẫn bốn binh chủng theo sau bánh xe, trước xe có bốn vị thần dẫn đường, hễ bánh xe dừng chỗ nào thì vua cũng dừng lại chỗ đó.
Khi thấy Đại vương đến, các vua nước nhỏ phương Đông liền đem bát vàng đựng lúa bạc, bát bạc đựng lúa vàng đến trước vua rồi cúi đầu, tâu:
“Lành thay, Đại vương đã đến đây! Nay phương Đông này đất đai phì nhiêu, đời sống dân chúng sung túc, tánh khí nhân hòa, từ hiếu trung thuận, kính mong Thánh Vương hãy đem Chánh pháp trị vì xứ này! Chúng tôi sẽ cung cấp mọi thứ và thừa hành thích đáng.”
Lúc đó, Chuyển Luân Thánh Vương nói:
“Thôi, thôi, chư Hiền, như vậy là các ngươi đã dâng cúng ta rồi! Chỉ cần các ngươi dùng Chánh pháp cai trị, chớ để oan sai, chớ để trong nước xảy ra những chuyện phi pháp thì cũng giống như có ta trị vì vậy.”
Sau khi nghe xong, các vua nước nhỏ vâng lệnh và theo Đại vương tuần hành qua các nước đến tận bờ biển phía Đông, rồi tuần tự đi về phía Nam, phía Tây và phía Bắc. Hễ bánh xe báu đến đâu thì các vua nước nhỏ nơi đó đều hiến cống đất đai, giống như các vua nước nhỏ ở phương Đông đã làm vậy.
Bấy giờ, Chuyển Luân Thánh Vương theo bánh xe báu tuần hành khắp bốn biển, đem đạo khai hóa, vỗ về dân chúng, xong rồi mới trở về nước mình. Khi về đến cửa cung, bánh xe báu bằng vàng liền bay lên trụ giữa hư không. Thấy vậy, Chuyển Luân Thánh Vương phấn khởi nói: “Bánh xe báu bằng vàng này chính là điềm tốt của ta. Nay ta đích thực là Chuyển Luân Thánh Vương rồi!” Đó là sự thành tựu bánh xe báu bằng vàng.
Vua trị thế một thời gian rất lâu. Một hôm, bánh xe báu ở giữa hư không bỗng nhiên rời khỏi chỗ cũ. Lúc ấy, người quản xe vội vàng đến thưa với vua: “Tâu Đại vương! Ngài nên biết, nay bánh xe báu bỗng tự rời khỏi chỗ.” Nghe vậy, vua nghĩ: “Ta từng nghe các bậc Tôn túc xưa kia bảo rằng: ‘Nếu bánh xe báu của Chuyển Luân Thánh Vương tự dời đi thì mạng sống vua ấy không còn bao lâu nữa.’ Ta được hưởng phước lạc cõi người rồi, phải tìm cách thụ hưởng phước lạc cõi trời, nay nên nhường ngôi cho thái tử thống lãnh bốn châu thiên hạ, phong riêng một ấp cho người thợ cạo để họ giúp ta cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo.”
[0040b03] Ngay sau đó, nhà vua liền gọi thái tử đến bảo: “Con biết không? Ta từng nghe các bậc Tôn túc xưa kia bảo rằng: ‘Nếu bánh xe báu của Chuyển Luân Thánh Vương tự dời đi thì thọ mạng vua ấy sắp hết.’ Trước đây ta được hưởng phước lạc cõi người rồi, sau này muốn được thọ hưởng phước lạc cõi trời, bởi thế ta sẽ cạo bỏ râu tóc, đắp ba pháp y, xuất gia tu đạo, vậy nay đem bốn châu thiên hạ giao lại cho con, hãy tự nỗ lực, thương yêu dân chúng.” Sau khi thái tử vâng lệnh kế thừa, vua liền cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo.
Nhà vua xuất gia được bảy ngày thì bánh xe báu bỗng biến mất. Người quản xe liền đến trình với vua mới: “Tâu Đại vương! Ngài nên biết, nay bánh xe báu bỗng nhiên biến mất.” Vua nghe vậy, vẫn không lấy làm lo lắng, cũng không đến hỏi ý kiến phụ vương mình. Trong khoảng thời gian đó, vị vua cha đột ngột băng hà.
Tính từ đây về trước có cả thảy sáu vị Chuyển Luân Thánh Vương, họ lần lượt truyền ngôi cho nhau và đều dùng Chánh pháp trị dân, chỉ có ông vua thứ bảy này chuyên quyền trị nước, không theo pháp cũ, cai trị bất công, thiên hạ oán thán, đất nước suy tàn, dân chúng lầm than. Khi ấy, có một đại thần Bà-la-môn đến thưa với vua: “Tâu Đại vương! Ngài nên biết, nay đất nước suy tàn, dân chúng lầm than, không được như trước. Trong nước vẫn có nhiều bậc trí thức, thông minh bác học, thông suốt cổ kim, biết rõ pháp trị nước của Tiên vương, sao ngài không thỉnh cầu để hỏi những điều họ biết, ắt họ sẽ trả lời.” Nghe vậy, vua liền triệu tập quần thần, rồi hỏi đạo trị quốc của Tiên vương. Thế là nhiều đại thần trí thức đã tấu trình lên vua đầy đủ những điều thiết yếu. Vua nghe theo, liền thi hành pháp cũ, dùng Chánh pháp hộ dân nhưng vẫn không cứu giúp người già đơn độc, không bố thí những kẻ bần cùng.
Bởi thế, dân chúng trong nước ngày càng nghèo đói, dẫn đến tình trạng cướp giật lẫn nhau, nạn trộm cướp hoành hành khắp nơi. Mỗi khi có người rình bắt được kẻ cắp, dẫn đến tâu với vua:
“Người này là kẻ trộm, xin Đại vương hãy trừng trị!”
Nhà vua liền hỏi:
“Ngươi có đúng là kẻ trộm không?”
Đáp:
“Thưa, đúng vậy! Vì tôi nghèo cùng đói khát, không thể sống nổi, nên mới trộm cướp.”
Thế là, nhà vua liền lấy của cải trong kho ban cho người ấy và dặn dò:
“Ngươi hãy đem của cải này về phụng dưỡng cha mẹ, giúp đỡ thân quyến, từ nay về sau chớ trộm cướp nữa!”
Người khác nghe đồn có kẻ trộm cướp lại được nhà vua ban cho của báu nên cũng lấy trộm tài vật người khác. Rồi họ bị bắt dẫn đến tâu vua:
“Người này là kẻ cắp, xin Đại vương hãy trừng trị!”
Nhà vua hỏi:
“Ngươi đúng là kẻ trộm chăng?”
Đáp:
“Thưa, đúng vậy! Vì tôi nghèo cùng đói khát, không thể sống nổi, nên mới trộm cướp.”
Nghe vậy, nhà vua liền xuất tiền của trong kho ban cho người ấy và dặn dò:
“Ngươi hãy đem tiền của này về phụng dưỡng cha mẹ, giúp đỡ thân quyến, từ nay về sau chớ trộm cướp nữa!”
[0040c06] Có người nghe đồn kẻ trộm cướp lại được nhà vua ban cho tiền của, thế là họ cũng trộm lấy tài vật người khác. Rồi họ bị bắt dẫn đến tâu vua:
“Người này là kẻ cắp, xin Đại vương hãy trừng trị!”
Nhà vua hỏi:
“Ngươi đúng là kẻ trộm chăng?”
Đáp:
“Thưa, đúng vậy! Vì tôi nghèo cùng đói khát, không thể sống nổi, nên mới trộm cướp.”
Lần này, nhà vua nghĩ: “Trước đây có kẻ trộm cướp, ta thấy họ nghèo đói nên mới cấp cho tiền của và dặn đừng làm vậy nữa nhưng người khác nghe thế lại bắt chước trộm cướp, khiến nạn này ngày càng lan tràn, như thế là không được! Tốt hơn hết nay ta nên trói kẻ ấy lại, dẫn qua các ngả đường, sau đó đưa ra bãi đất trống ngoài thành hành hình để răn đe người sau.”
Nghĩ thế rồi, vua liền truyền lệnh cho người hầu cận bắt trói kẻ kia lại, đánh trống xướng lệnh rồi dẫn qua các ngả đường, sau đó đem đến bãi đất trống ngoài thành rồi hành hình. Bấy giờ, người trong nước biết kẻ trộm kia đã bị vua sai lính bắt trói, dẫn qua các ngả đường rồi hành hình nơi bãi đất trống, thế là họ truyền tai nhau: “Nếu chúng ta trộm cướp thì cũng sẽ bị như thế, không khác gì kẻ kia.” Từ đây, dân chúng trong nước biết tự phòng hộ, đã chế tạo ra nào là gậy gộc, đao kiếm, cung tên, rồi tàn hại lẫn nhau, cướp bóc lẫn nhau.
Kể từ thời vị vua này mới bắt đầu có nạn nghèo đói, do nghèo đói mới có nạn trộm cướp, do trộm cướp mới có dao gậy, có dao gậy mới có giết hại, có giết hại nên khiến con người tướng mạo tiều tụy, mạng sống ngắn ngủi. Thời ấy, con người sống thọ tám mươi ngàn tuổi, về sau giảm dần còn hai mươi ngàn. Trong số đó, có người sống lâu, có kẻ chết yểu, có người khổ, có kẻ vui. Những người khổ lại sanh tâm tà dâm, tham lam, bày mưu tính kế chiếm đoạt tài vật kẻ khác. Thế nên, những nạn như nghèo đói, trộm cướp, binh đao, tàn sát xuất hiện càng ngày càng nhiều, khiến thọ mạng con người giảm dần, chỉ còn mười ngàn tuổi.
Khi thọ mạng còn mười ngàn tuổi, con người vẫn trộm cướp lẫn nhau, rồi bị bắt dẫn đến tâu vua:
“Người này là kẻ trộm cướp, xin Đại vương hãy trừng trị!”
Nhà vua hỏi:
“Có đúng là ngươi đã trộm cướp chăng?”
Kẻ ấy đáp:
“Thưa, tôi không làm thế!”
Vậy là trong dân chúng đã có người cố ý nói dối. Như vậy, chúng sanh vì nghèo cùng nên trộm cướp, vì trộm cướp nên có dao gậy; vì dao gậy nên có giết hại; vì giết hại nên có tham lam, tà dâm; vì tham lam, tà dâm nên nói dối; vì nói dối nên tuổi thọ giảm dần, chỉ còn một ngàn tuổi.
Trong khoảng thời gian con người thọ một ngàn tuổi đó, ba hạnh xấu ác của miệng bắt đầu xuất hiện ở thế gian: Một là nói hai chiều, hai là nói thô ác và ba là nói thêu dệt. Ba nghiệp ác này càng tăng thì thọ mạng con người càng giảm, chỉ còn năm trăm tuổi.
Khi thọ mạng còn năm trăm tuổi, con người lại khởi ba hạnh xấu ác: Một là dâm dục phi pháp, hai là tham lam phi pháp và ba là tà kiến. Ba ác nghiệp đó càng tăng thêm thì tuổi thọ con người càng giảm xuống, chỉ còn ba trăm tuổi, hai trăm tuổi, đến nay con người chỉ thọ khoảng một trăm tuổi, hoặc hơn kém số này.
[0041a11] Cứ như thế, do con người không ngừng làm ác nên tuổi thọ của họ không ngừng giảm xuống, giảm cho đến chỉ còn mười tuổi.
Khi thọ mạng chỉ còn mười tuổi, người nữ mới năm tháng tuổi đã lấy chồng. Thời bấy giờ, trong thế gian, những thức ăn mùi vị ngon ngọt như bơ sữa, đường phèn, đường mía đen không còn nghe tên; đậu mè, lúa nếp biến thành cỏ lác; các loại vải quý như lụa là gấm vóc, lụa bông kiếp-bối8 đều biến mất; họ phải dệt lông, bện gai thô xấu làm áo mặc. Lại nữa, đất đai mọc đầy những cây gai góc; muỗi mòng, ruồi nhặng, rận rệp, rắn rết, bọ cạp, độc trùng nhung nhúc; vàng bạc, lưu ly, châu ngọc, của báu thảy đều ẩn sâu vào lòng đất; mặt đất chỉ toàn cát đá, sỏi sạn mà thôi.
Bấy giờ, chúng sanh tuyệt nhiên không còn nghe đến tên mười nghiệp lành, chỉ có mười nghiệp ác đầy dẫy thế gian. Tên pháp lành khi ấy còn không có thì người ta lấy gì mà tu hạnh lành? Khi đó, chúng sanh nào có thể làm điều cực ác, bất hiếu cha mẹ, bất kính Sư trưởng, bất trung bất nghĩa, phản nghịch vô đạo thì được tôn sùng; cũng như hiện nay người ta tôn kính những người có thể làm lành lánh dữ, hiếu thảo cha mẹ, cung kính Sư trưởng, trung tín nhân nghĩa, theo đạo tu hành vậy. Chúng sanh bấy giờ phần đông tạo mười nghiệp ác, đọa vào đường ác rất nhiều. Hễ họ thấy nhau là muốn giết nhau, giống như thợ săn trông thấy bầy nai. Cõi đất đầy ngập hầm hố, khe suối, hang hốc; đất rộng người thưa, đi lại nguy hiểm.
Bấy giờ, nạn đao binh lại nổi lên, ngay cả cọng cỏ, nhánh cây cầm trên tay cũng biến thành gươm đao, rồi họ giết hại lẫn nhau trong vòng bảy ngày. Khi đó, những kẻ có trí lánh vào rừng sâu, trốn trong hang núi. Trong bảy ngày chạy trốn đó, lòng họ vô cùng sợ hãi, rồi bỗng nhiên phát ra lời lành: “Ta không hại người, người không hại ta.” Họ ăn cỏ cây để duy trì mạng sống, trải qua bảy ngày thì rời khỏi hang núi. Những người sống sót này, vừa nhìn thấy nhau họ đã mừng rỡ thốt lên: “Anh chưa chết ư? Chị còn sống ư?” Họ sung sướng vô cùng, mừng vui như thể cha mẹ gặp lại đứa con duy nhất lâu ngày xa cách. Sau khi hỏi han, chúc mừng nhau vì vẫn còn sống sót, họ đi tìm lại gia đình mình. Hay tin bà con quyến thuộc đã chết hết, họ kêu gào than khóc suốt cả bảy ngày. Qua bảy ngày đó, họ tiếp tục chúc phúc, vui vẻ với nhau, rồi tự nghĩ: “Vì chúng ta tích chứa nghiệp ác quá nhiều nên gặp nạn này, thân tộc chết chóc, gia quyến lìa tan. Vậy nay chúng ta cùng tu chút ít điều thiện nhưng nên tu điều thiện gì? Hãy dừng sát sanh!”
[0041b11] Thế là, chúng sanh khởi phát lòng từ, không giết hại nhau, nhờ đó sắc diện khá lên, tuổi thọ tăng dần, từ mười tuổi tăng lên hai mươi. Khi thọ mạng được hai mươi tuổi, con người lại tự nghĩ: “Chúng ta nhờ tu chút ít điều thiện, không giết hại nhau nên thọ mạng tăng lên hai mươi tuổi, vậy nay nên tu thêm nữa. Nên tu điều gì? Đã dừng sát sanh rồi, nay đừng trộm cướp.” Khi chúng sanh không trộm cướp, thọ mạng họ tăng lên bốn mươi tuổi. Khi thọ mạng được bốn mươi, con người lại nghĩ: “Chúng ta do tu chút ít điều thiện mà tuổi thọ gia tăng. Vậy nay nên tu thêm nữa nhưng tu điều gì đây? Nên bỏ tà dâm.” Thế là, mọi người đều không tà dâm nên thọ mạng tăng lên tám mươi tuổi.
Khi thọ mạng được tám mươi, con người lại nghĩ: “Chúng ta nhờ tu chút ít điều thiện mà tuổi thọ tăng thêm. Vậy nay nên tu thêm nữa nhưng tu điều gì đây? Nên bỏ nói dối.” Lúc đó, con người đều không nói dối nên thọ mạng tăng lên một trăm sáu mươi tuổi. Khi sống thọ một trăm sáu mươi tuổi, con người lại nghĩ: “Chúng ta nhờ tu chút ít điều thiện mà tuổi thọ tăng thêm. Vậy nay nên tu thêm nữa nhưng tu điều gì đây? Nên bỏ nói hai chiều.” Thế rồi, mọi người đều không nói hai chiều nên tuổi thọ của họ tăng lên ba trăm hai mươi tuổi. Khi thọ mạng được ba trăm hai mươi tuổi, con người lại nghĩ: “Chúng ta nhờ tu chút ít điều thiện mà tuổi thọ tăng thêm. Vậy nay nên tu thêm nữa nhưng tu điều gì đây? Nên bỏ nói lời thô ác.” Vậy là, mọi người đều không nói lời thô ác nên thọ mạng tăng lên sáu trăm bốn mươi tuổi. Khi sống đến sáu trăm bốn mươi tuổi, con người lại nghĩ: “Chúng ta nhờ tu điều thiện mà tuổi thọ gia tăng. Vậy nay nên tu thêm nữa nhưng tu điều gì đây? Nên bỏ nói thêu dệt.” Thế là, mọi người đều không nói thêu dệt nên thọ mạng tăng lên hai ngàn tuổi. Khi sống đến hai ngàn tuổi, con người lại nghĩ: “Chúng ta do tu điều thiện mà tuổi thọ gia tăng, vậy nay nên tu thêm nữa nhưng tu điều thiện gì? Không nên bỏn xẻn.” Thế là, mọi người đều không bỏn xẻn mà thực hành bố thí nên thọ mạng tăng lên năm ngàn tuổi. Khi sống đến năm ngàn tuổi, con người lại nghĩ: “Chúng ta nhờ tu điều thiện mà tuổi thọ tăng thêm. Vậy nay nên tu thêm nữa nhưng tu điều gì đây? Nên bỏ ganh ghét, từ tâm tu thiện.” Từ đó, mọi người đều không ganh ghét, từ tâm tu thiện nên thọ mạng tăng lên mười ngàn tuổi.
[0041c10] Khi thọ mạng được mười ngàn tuổi, con người lại nghĩ: “Chúng ta nhờ tu điều thiện mà tuổi thọ gia tăng. Vậy nay nên tu thêm nữa nhưng tu điều gì đây? Nên tu chánh kiến, không khởi điên đảo.” Thế là, mọi người luôn luôn thực hành chánh kiến, không khởi điên đảo, tuổi thọ tăng lên hai mươi ngàn tuổi. Khi sống đến hai mươi ngàn tuổi, con người lại nghĩ: “Chúng ta nhờ tu điều thiện mà tuổi thọ gia tăng. Vậy nay nên tu thêm nữa nhưng tu điều thiện gì đây? Nên diệt ba pháp bất thiện: Một là hành dâm phi pháp, hai là tham lam phi pháp và ba là tà kiến.” Từ đó, mọi người đều diệt ba pháp bất thiện nên thọ mạng họ tăng lên bốn vạn tuổi. Khi sống đến bốn vạn tuổi, con người lại nghĩ: “Chúng ta nhờ tu điều thiện mà tuổi thọ gia tăng. Vậy nay nên tu thêm nữa nhưng tu điều gì đây? Nên hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ Sư trưởng.” Thế là mọi người đều hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ Sư trưởng, khiến thọ mạng tăng lên tám vạn tuổi.
Khi thọ mạng loài người tám vạn tuổi, con gái năm trăm tuổi mới lấy chồng. Con người thời đó có chín thứ bệnh, đó là: Lạnh, nóng, đói, khát, đại tiện, tiểu tiện, tham dục, ham ăn và già nua. Cõi đất lúc ấy bằng phẳng, không có khe rãnh, hầm hố, gò nổng, gai góc; cũng không có muỗi mòng, rắn rết, độc trùng; cát đá, sạn sỏi đều biến thành lưu ly; đời sống dân chúng sung túc, ngũ cốc dồi dào, hạnh phúc vô cùng. Lúc ấy, còn có tám mươi ngàn thành lớn được dựng lên, thôn xóm san sát, nghe rõ tiếng gà gáy.
Này các Tỳ-kheo! Vào thời ấy sẽ có Phật thị hiện ở đời hiệu là Di-lặc9 Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu cũng như Ta ngày nay đầy đủ mười hiệu. Đức Phật ấy ở giữa chúng chư thiên, Đế-thích, Phạm thiên, Ma vương, Thiên ma, Sa-môn, Bà-la-môn và loài người mà tự mình tu chứng; cũng như Ta ngày nay đã tự mình tu chứng giữa những chúng ấy. Đức Phật Di-lặc sẽ thuyết pháp, phần đầu, phần giữa và phần cuối đều chân chánh, đầy đủ cả nghĩa và văn, tịnh tu Phạm hạnh; cũng như Ta ngày nay thuyết pháp, phần đầu, phần giữa và phần cuối đều chân chánh, đầy đủ cả nghĩa và văn, Phạm hạnh thanh tịnh. Đức Phật Di-lặc có vô số ngàn vạn đệ tử, cũng như Ta ngày nay có vài trăm đệ tử. Dân chúng lúc ấy gọi đệ tử Phật là Từ tử, cũng như người thời nay gọi đệ tử Ta là Thích tử.
[0042a09] Thời ấy, có vua tên Nhương-già10 dòng Sát-lợi, đã được quán đảnh, làm Chuyển Luân Thánh Vương, cai trị bốn châu thiên hạ, dùng Chánh pháp trị dân, hết thảy đều kính phục. Vua có đủ bảy báu: Một là bánh xe báu bằng vàng, hai là voi báu trắng, ba là ngựa tía báu, bốn là thần châu báu, năm là ngọc nữ báu, sáu là cư sĩ báu và bảy là chủ binh báu. Vua còn có ngàn người con oai phong mạnh mẽ, đủ sức dẹp giặc, bốn phương quy thuận, không động đao binh, tự nhiên thái bình.
Có lần, Thánh Vương thiết lập Pháp tràng11 cực lớn với chu vi mười sáu tầm, cao một ngàn tầm, được trang hoàng bởi một ngàn loại màu sắc phối hợp hài hòa. Bảo tràng có một trăm dải phướn, mỗi dải gồm một trăm tua được dệt bằng sợi báu, đan xen các loại châu ngọc. Một thời gian sau, vua cho hạ bảo tràng xuống, rồi thiết lễ cúng dường các Sa-môn, Bà-la-môn và cấp phát cho người nghèo trong nước. Sau đó, nhà vua cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y, xuất gia tu đạo, hành hạnh Vô thượng, ngay trong hiện đời mà tự thân tác chứng: “Sanh tử đã chấm dứt, Phạm hạnh đã thành tựu, việc cần làm đã xong, không còn tái sanh nữa.”
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các thầy phải siêng tu hạnh lành, nhờ tu hạnh lành mà thọ mạng lâu dài, sắc diện thêm tươi vui, an ổn hân hoan, của báu dồi dào, oai lực đầy đủ. Giống như các Vua Chuyển Luân tuân theo pháp cũ của Tiên vương nên tuổi thọ được gia tăng, dung sắc thêm tươi vui, an ổn hân hoan, của báu dồi dào, oai lực đầy đủ; các Tỳ-kheo cũng như thế, hãy tu pháp lành để tuổi thọ gia tăng, sắc diện thêm tươi, an ổn hân hoan, của báu dồi dào, oai lực đầy đủ.
Tỳ-kheo thọ mạng lâu dài là như thế nào? Tỳ-kheo siêng năng, tinh cần tu tập dục định để thành tựu đoạn hành nghiệp và chứng đạt thần túc.12 Tiếp đến tu tinh tấn định,13 tu tâm định14 và Tỳ-kheo siêng năng, tinh cần tu tập tư duy định để thành tựu đoạn hành nghiệp và chứng đạt thần túc.15
Thế nào là Tỳ-kheo sắc diện tươi vui? Đó là Tỳ-kheo giới luật đầy đủ, thành tựu oai nghi, thấy có lỗi nhỏ đã rất lo sợ, học đủ các giới, không để thiếu sót, nhờ đó Tỳ-kheo có sắc diện tươi vui.
Thế nào là Tỳ-kheo sống trong an ổn hân hoan? Đó là Tỳ-kheo lìa bỏ dục và các pháp bất thiện, có giác, có quán, cùng với hỷ, lạc được sanh ra do sự viễn ly, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất.
Tiếp theo, Tỳ-kheo lìa bỏ giác và quán, trong tâm bình đẳng thanh tịnh, có hỷ, lạc do định sanh, chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, không giác không quán.
Tiếp theo, Tỳ-kheo lìa bỏ hỷ, an trú xả, với chánh niệm và tỉnh giác, thân cảm lạc thọ, chứng đạt và an trú Thiền thứ ba, điều mà bậc Thánh gọi là lạc trú trong xả và có chánh niệm.
Tiếp theo, Tỳ-kheo khi đã diệt trừ ưu và hỷ trước đó nên buông bỏ cả khổ và vui, chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, một trạng thái không khổ không vui, gọi là xả niệm thanh tịnh.
Đó là Tỳ-kheo sống trong an ổn hân hoan vậy.
[0042b10] Thế nào là Tỳ-kheo có của báu dồi dào? Nghĩa là Tỳ-kheo tu tập tâm từ, ban đầu rải khắp một phương, rồi đến các phương khác cũng vậy, bao trùm khắp cả, bình đẳng vô lượng, trừ bỏ oán hận, tâm không ganh ghét, nhu hòa tĩnh lặng, an lạc tự tại. Tu tập tâm bi, tâm hỷ, tâm xả cũng lại như thế. Đó là Tỳ-kheo có của báu dồi dào.
Thế nào là Tỳ-kheo oai lực đầy đủ? Là Tỳ-kheo hiểu biết một cách như thật về khổ Thánh đế, tập Thánh đế, diệt Thánh đế và đạo Thánh đế. Đó là Tỳ-kheo đầy đủ oai lực.
Đức Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Nay Ta quan sát khắp cả những kẻ có oai lực, thấy rằng không ai thắng được sức ma nhưng khi hàng Tỳ-kheo dứt hết lậu hoặc thì hàng phục được chúng ma.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong đều hoan hỷ phụng hành.16
Chú thích
1 Nguyên tác: Chuyển Luân Thánh Vương tu hành kinh 轉輪聖王修行經 (T.01. 0001.6. 0039a21). Tham chiếu: Chuyển Luân Vương kinh 轉輪王經 (T.01. 0026.70. 0520b16); D. 26, Cakkavatti Sutta (Kinh Chuyển Luân Thánh Vương sư tử hống).
2 Ma-la-hê-sưu (摩羅醯搜, Mātulā), một ngôi làng ở Māgadha.
3 Ma-lâu (摩樓). Bản Tống, Nguyên, Minh đều ghi: Ma-la-lâu (摩羅樓).
4 Nguyên tác: Ý (意).
5 Kiên Cố Niệm (堅固念, Daḷhanemi).
6 Nguyên tác: Sát-lợi thủy nhiễu đầu chủng (剎利水澆頭種, Rājā khattiyo muddhābhisitto): Vị vua Sát-lợi thọ pháp Quán đảnh. Theo truyền thống Ấn Độ thời cổ, một vị vua lên ngôi đúng pháp phải thông qua nghi lễ Quán đảnh; khi đó, vị Bà-la-môn chủ tế dùng nước thiêng rưới lên đầu tân vương.
7 Nguyên tác: Tứ thiên hạ (四天下, Cattāro dīpā), còn gọi Tứ đại châu (四大洲), Tu-di tứ châu (須彌四洲). Quan niệm về thế giới của người Ấn Độ cổ đại cho rằng, có 4 châu lớn ở 4 phía núi Tu-di (須彌山): Đông Thắng-thần châu (東勝神洲, Pubbavideha), Nam Thiệm-bộ châu (南贍部洲, Jambudīpa), Tây Ngưu-hóa châu (西牛貨洲, Aparagoyāna) và Bắc Câu-lô châu (北俱盧洲, Uttarakuru).
8 Kiếp-bối (劫貝, kappāsa) cũng gọi là kiếp-ba-dục (劫波育), cây bông vải, một loại cây mà quả có thể dệt thành vải thượng phẩm.
9 Di-lặc (彌勒, Metteyya).
10 Nhương-già (儴伽, Saṁkha).
11 Nguyên tác: Bảo tràng (寶幢), còn gọi “pháp tràng” (法幢), là loại cờ phướn thường được trang nghiêm bằng nhiều châu báu, dùng để cúng dường chư Phật, Bồ-tát.
12 Nguyên tác: Dục định tinh cần bất giải diệt hành thành tựu dĩ tu thần túc (欲定精勤不懈滅行成就以修神足, chandasamādhippadhānasaṅkhārasamannāgataṃ iddhipādaṃ). Dục định (欲定) còn gọi Dục tam-ma-địa đoạn hành thành tựu thần túc (欲三摩地斷行成就神足), Dục tam-ma-địa thắng hành thành tựu thần túc (欲三摩地勝行成就神足), Dục định diệt hành thành tựu tu tập thần túc (欲定滅行成就修習神足), Dục thần túc (欲神足), Dục như ý túc (欲如意足). S. V. 268 định nghĩa: “Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo nương tựa dục được định, được nhứt tâm, đây gọi là dục định” (HT. Thích Minh Châu dịch).
13 Tinh tấn định (精進定). S. V. 268 định nghĩa: “Nếu Tỷ-kheo nương tựa tinh tấn, này các Tỷ-kheo, được định, được nhất tâm, đây gọi là tinh tấn định” (HT. Thích Minh Châu dịch).
14 Nguyên tác: Ý định (意定). S. V. 268 định nghĩa: “Nếu Tỷ-kheo nương tựa tâm, này các Tỷ-kheo, được định, được nhất tâm, đây gọi là tâm định” (HT. Thích Minh Châu dịch).
15 Nguyên tác: Tư duy định tinh cần bất giải diệt hành thành tựu dĩ tu thần túc 思惟定精勤不懈滅行成就以修神足 (vīmaṃsāsamādhippadhānasaṅkhārasamannāgataṃ iddhipādaṃ). Tư duy định (思惟定), S. V. 268 định nghĩa: “Nếu Tỷ-kheo nương tựa tư duy, này các Tỷ-kheo, được định, được nhất tâm, đây gọi là tư duy định” (HT. Thích Minh Châu dịch).
16 Bản Hán, hết quyển 6.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.