Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 01 »
Kinh Trường A-Hàm
(長阿含經)
(Bản dịch của Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm)
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật cùng đông đủ một ngàn hai trăm năm mươi vị đại Tỳ kheo, ngụ tại núi Kỳ-xà quật, thuộc thành La-duyệt-kỳ.
Bấy giờ, có con trai của nhạc thần tên Bàn-già-dực, nhân lúc đêm vắng không có người, phóng ánh sáng lớn chiếu núi Kỳ-xà quật và đi đến chỗ Phật ngự, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi đứng qua một bên.
Khi ấy, Bàn-già-dực bạch Thế Tôn rằng:
– Gần đây, Phạm thiên vương đến cõi trời Đao-lợi bàn luận với Đế-thích, tôi ở gần đó đã nghe được đầu đuôi câu chuyện, vậy nay tôi có thể thuật lại cho Thế Tôn nghe được không? Phật đáp:
– Tùy ý ngươi, muốn nói thì nói!
Bàn-già-dực thưa:
– Có lần chư thiên Đao-lợi nhóm ở pháp giảng đường để bàn luận. Lúc đó, có bốn Thiên vương ngồi ở bốn phía, theo phương hướng của mình. Đề-đế-lại tra Thiên vương ngồi ở hướng Đông, mặt xoay về hướng Tây, Đế-thích ngồi trước mặt. Tỳ-lâu-lặc Thiên vương ngồi ở hướng Nam, mặt xoay về hướng Bắc, Đế-thích ngồi trước mặt. Tỳ-lâu-bác-xoa Thiên vương ngồi ở hướng Tây, mặt xoay về hướng Đông, Đế-thích ngồi trước mặt. Tỳ-sa-môn Thiên vương ngồi ở hướng Bắc, mặt xoay về hướng Nam, Đế-thích ngồi ở trước mặt. Sau khi tứ Thiên vương ngồi xong thì tới phiên tôi và các đại thần khác, đều là những người trước đây thân cận Phật, tịnh tu Phạm hạnh nên ở cõi này sau khi qua đời được sanh lên cõi trời Đao-lợi và được năm thứ phúc: (1) Sống lâu ở cõi trời; (2) Được sắc đẹp cõi trời; (3) Được tiếng tăm cõi trời; (4) Được niềm vui cõi trời; (5) Được oai đức cõi trời. Khi đó, chư thiên Đao-lợi thấy vậy đều hớn hở vui mừng và nói: “Chúng chư thiên tăng lên, chúng a-tu-la giảm xuống!”
Bấy giờ, Thích-đề-hoàn-nhân biết chúng trời, người đều có tâm niệm vui mừng, liền vì chư thiên Đao-lợi mà nói bài kệ:
Chư thiên Đao-lợi, người,
Cùng Đế-thích vui chơi,
Kính lễ đức Như Lai,
Chư thiên được phúc báu,
Theo Phật tu Phạm hạnh,
Đấng Pháp Vương Tối Thượng.
Thọ, sắc, danh, lạc, oai,
Nên sanh về cõi này.
Lại có chúng trời,người,
Đệ tử đức Trí Tuệ,
Đao-lợi và Đế-thích,
Kính lễ đức Như Lai,
Ánh sáng thật tuyệt vời,
Sanh đây lại thù thắng.
Suy tư tự vui thú,
Đấng Pháp Vương tối thượng.
Khi đó, chư thiên Đao-lợi, sau khi nghe bài kệ này lại càng thêm hoan hỷ, không thể tự kiềm chế được và nói: “Chúng chư thiên tăng lên, chúng a-tu-la giảm xuống!” Thích-đề-hoàn-nhân thấy chư thiên Đao-lợi vui mừng thoải mái, liền bảo:
– Này chư Hiền! Các ông có muốn nghe tám pháp tối thượng của đức Như Lai không?
Chư thiên Đao-lợi đáp:
– Muốn nghe!
– Các ngài hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ về vấn đề này! Chư Hiền, đức Như Lai, Chí Chân, Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu, ta không thấy ai trong quá khứ, vị lai và hiện tại có đủ mười danh hiệu như Phật.
Pháp Phật vi diệu, giảng giải rõ ràng, được người trí thức hành theo, ta không thấy ai trong quá khứ, vị lai và hiện tại có giáo pháp vi diệu như Phật.
Phật do pháp ấy tự giác ngộ, thông đạt vô ngại để tự vui thú, ta không thấy ai trong quá khứ, vị lai và hiện tại đối với pháp này mà tự giác ngộ, thông đạt, vô ngại để tự vui thú như Phật.
Chư Hiền! Phật nhờ pháp ấy được giác ngộ và cũng có thể mở bày con đường Niết-bàn, thân cận dẫn dắt chúng sanh đi dần vào tịch diệt, ví như nước sông Hằng, nước sông Diễm-ma đều chảy vể biển cả. Ta không thấy ai trong quá khứ, vị lai và hiện tại có thể mở bày con đường Niết-bàn như Phật. Đức Phật cũng thế, Ngài có thể mở bày con đường Niết-bàn thân cận dẫn dắt chúng sanh đi dần vào tịch diệt.
Chư Hiền! Quyến thuộc của đức Như Lai gồm đủ như Sát-đế-lợi, Bà-la môn, Cư sĩ, Sa-môn có trí tuệ đều là quyến thuộc đầy đủ của đức Như Lai. Ta không thấy ai trong quá khứ, vị lai và hiện tại có quyến thuộc đầy đủ như Phật. Chư Hiền! Đức Như Lai có đại chúng đầy đủ gồm Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di, ta không thấy ai trong quá khứ, vị lai và hiện tại có đại chúng đầy đủ như Phật.
Chư Hiền! Lời nói và việc làm của Như Lai tương ưng, lời nói đúng như việc làm, việc làm đúng như lời nói, và bất cứ pháp nào cũng thành tựu như vậy. Ta không thấy ai trong quá khứ, vị lai và hiện tại có lời nói và việc làm phù hợp với nhau, và mỗi pháp đều thành tựu như Phật.
Chư Hiền! Đức Như Lai có nhiều sự lợi ích, nhiều sự an lạc, Ngài thường trang trải tâm từ lợi lạc cho trời, người. Ta không thấy ai trong quá khứ, vị lai
và hiện tại có nhiều sự lợi ích, nhiều sự an lạc như Phật. Chư Hiền, ấy là pháp tối thượng của đức Như Lai.
Lúc đó, chư thiên Đao-lợi nói:
– Ước gì thế gian được tám đức Phật ra đời một lượt thì sẽ làm cho chúng chư thiên thêm nhiều và làm giảm bớt chúng a-tu-la.
Khi ấy, chư thiên Đao-lợi nói:
– Đừng nói chi tám vị Phật mà dù cho bảy vị Phật, sáu vị Phật, cho đến hai vị Phật ra đời cũng làm cho thêm nhiều chúng chư thiên và giảm bớt chúng a-tu-la, huống hồ là tám đức Phật.
Nhưng Thích-đề-hoàn-nhân bảo chư thiên Đao-lợi rằng:
– Tôi được gần Phật nghe, gần Phật lãnh thọ, nếu muốn cho một đức Phật, hai đức Phật ra đời một lần thì không có sự kiện này. Nhưng nếu một đức Như Lai mà Ngài ở lâu nơi đời và trang trải nhiều tâm từ bi, đem nhiều sự lợi ích cho trời, người, đem lại sự an lạc cho họ như thế thì càng thêm nhiều chúng trời và giảm bớt chúng a-tu-la.
Khi đó, Bàn-già-dực bạch Phật rằng:
– Thưa Thế Tôn, chư thiên Đao-lợi sở dĩ tập hợp tại pháp đường này là để cùng nhau bàn luận, suy tư, quan sát, tán tụng về những giáo lịnh ấy. Sau đó mới vì Tứ Thiên vương mà nói cho họ. Khi Tứ Thiên vương vâng lời xong, đều theo vị trí mà ngồi, ngồi chưa bao lâu thì có một ánh sáng lạ lùng chiếu cả bốn phương. Lúc đó, chư thiên Đao-lợi thấy ánh sáng này rồi đều lấy làm kinh ngạc và nói: “Nay đây ánh sáng này thật là lạ lùng, chắc sẽ có điềm gì đây!” Ngay cả chư thiên có oai đức cũng đều sợ hãi và nói: “Nay có ánh sáng lạ này, chắc sẽ có điềm gì đây!”
Lúc đó, Đại Phạm Thiên vương liền hóa làm đồng tử, đầu có năm búi tóc, đứng giữa không trung, ở trên thiên chúng, dung mạo đoan chánh, vượt hẳn chúng trời, thân màu vàng tía, lấn át cả ánh sáng của chư thiên khác.
Khi đó, chư thiên Đao-lợi cũng không đứng dậy nghinh tiếp, không cung thỉnh, không mời ngồi. Khi ấy, Phạm đồng tử tùy theo chỗ ngồi và ngồi một cách vui vẻ, ví như người Sát-đế-lợi lấy nước rưới đầu để lên ngôi vua thì hớn hở vui mừng. Vị này ngồi chưa bao lâu thì lại biến thân thành đồng tử khác, đầu có năm búi tóc, ngồi giữa không trung, ở trên đại chúng, ví như lực sĩ ngồi yên ngay ngắn, hoàn toàn bất động và nói bài kệ:
Chư thiên Đao-lợi, người,
Kính lễ đức Như Lai,
Chư thiên được phúc đức,
Theo Phật tu Phạm hạnh,
Lại có chúng trời, người,
Đệ tử đức Đại Trí,
Cùng Đế-thích vui chơi,
Đấng Pháp Vương Tối Thượng,
Thọ, sắc, danh, lạc, oai,
Nên sanh về cõi này.
Ánh sáng thật tuyệt vời,
Sanh đây, lại thù thắng.
Đao-lợi và Đế-thích,
Kính lễ đức Như Lai,
Suy tư tự vui thú,
Đấng Pháp Vương Tối Thượng.
Bấy giờ, chư thiên Đao-lợi nói với đồng tử:
– Chúng ta nghe Đế-thích tán thán tám pháp tối thượng của đức Như Lai nên vui mừng hớn hở, không tự kiềm chế.
Khi ấy, Phạm đồng tử nói chư thiên Đao-lợi rằng:
– Những gì là tám pháp tối thượng của Như Lai, ta cũng muốn nghe!
Khi đó, Đế-thích liền vì đồng tử mà nói tám pháp tối thượng của đức Như Lai. Sau khi chư thiên Đao-lợi nghe lại một lần nữa thì càng vui mừng không thể tự kiềm chế và nói:
– Chúng chư thiên tăng lên, chúng a-tu-la giảm xuống.
Lúc đó, đồng tử thấy chư thiên vui vẻ, lại càng hớn hở, liền bảo chư thiên Đao-lợi:
– Các ngươi muốn nghe một pháp tối thượng không?
Chư thiên thưa:
– Quý hóa thay! Muốn nghe.
Đồng tử nói:
– Các ngươi muốn nghe thì hãy lắng nghe, hãy lắng nghe, ta sẽ vì các ngươi mà nói cho!
Này chư Hiền, đức Như Lai thuở xưa khi còn là một vị Bồ-tát, Ngài sanh ra nơi nào thì cũng rất thông minh, nhiều trí tuệ. Này chư Hiền, nên biết, cách đây rất xa trong quá khứ, lúc đó có một vị vua tên là Địa Chủ, thái tử thứ nhất tên là Từ Bi, vua có đại thần tên là Điển Tôn, con của đại thần ấy tên là Diệm-man, Thái tử Từ Bi có nhận làm bạn, người bạn này thường làm bạn với sáu vị đại thần thuộc dòng Sát-đế-lợi khác.
Mỗi khi Đại vương Địa Chủ muốn vào cung nội để du ngoạn vui chơi thì đem việc nước giao lại cho đại thần Điển Tôn, sau đó mới đi. Khi vào cung thì trỗi âm nhạc ca hát, thỏa mãn ngũ dục.
Bấy giờ, Điển Tôn khi muốn xử lý việc gì thì trước hết đem hỏi ý kiến con mình rồi sau đó mới quyết định, hoặc có phân xử việc gì thì cũng theo ý con. Sau đó bỗng nhiên Điển Tôn qua đời, Vua Địa Chủ nghe tin vô cùng thương tiếc, vỗ mình và nói: “Lạ thay, sao vô phúc, quốc gia đã mất một người tài!” Thái tử Từ Bi thầm nghĩ: “Vua vì mất Điển Tôn mà lấy làm sầu khổ, ta nên đến để can gián nhà vua chớ vì sự qua đời của ngài ấy mà sầu khổ. Vì sao? Vì Điển Tôn có người con tên là Diệm-man thông minh nhiều trí hơn cha. Nay vua có thể triệu vào để giao việc xử lý quốc gia.”
Lúc đó, Thái tử Từ Bi liền đến chỗ vua ngự, trình bày đầy đủ ý kiến trên với vua cha. Vua cha nghe xong liền chấp thuận và cho gọi Diệm-man vào, bảo rằng: “Ta nay bổ ngươi vào chức vụ của cha ngươi, giữ ấn tín.” Khi ấy, Diệm man lãnh ấn tín xong, nhà vua muốn vào cung, đem việc nước giao lại cho Diệm-man. Diệm-man lúc đó vốn đã thông thạo việc xử lý, không những biết rõ việc cha làm ngày trước mà còn biết rõ những gì cha mình chưa để ý đến, tất cả Diệm-man đều biết. Về sau, tiếng tăm Diệm-man vang dội khắp nơi nên thiên hạ trong nước đều tôn xưng là Đại Điển Tôn.
Thế rồi Đại Điển Tôn suy nghĩ: “Nay Vua Địa Chủ tuổi đã già yếu, sống chẳng bao lâu, nay nên tôn thái tử lên ngôi kế vị, trị vì cũng không khó lắm, ta nay nên đến nói với sáu vị đại thần thuộc dòng Sát-đế-lợi như sau: ‘Nay Vua Địa Chủ tuổi đã già yếu, sống chẳng bao lâu, nếu tôn thái tử lên ngôi kế vị thì không khó, đồng thời các ngài sẽ được vua phong đất đai, quyền tước và không bao giờ quên các ngài.’”
Khi ấy, Đại Điển Tôn đến nói với sáu vị đại thần dòng Sát-đế-lợi rằng: “Các ngài nên biết: Nay Vua Địa Chủ tuổi đã già yếu, sống chẳng bao lâu, nếu tôn thái tử lên kế vị thì không khó lắm. Các ngài nên đến đó trình bày ý kiến này với thái tử: ‘Chúng tôi biết ngài từ thuở nhỏ, khi ngài khổ chúng tôi khổ, khi ngài vui chúng tôi vui, hơn nữa nhà vua nay đã già yếu, sống chẳng bao lâu, vậy thái tử hãy lên ngôi kế vị vua cha, cũng không khó lắm. Giả sử ngài có lên ngôi thì hãy phong đất cho chúng tôi.’”
Khi ấy, sáu vị đại thần thuộc dòng Sát-đế-lợi nghe xong, liền đến tỏ ý với thái tử như trên. Thái tử đáp: “Giả sử ta lên ngôi, toàn cõi đều phong quốc nhưng phong cho ai?” Không bao lâu sau, bỗng nhà vua băng hà. Các vị đại thần trong nước liền đến bái yết thái tử và tôn lên kế vị. Khi lên ngôi xong, tân vương tự nghĩ: “Nay lập chức tể tướng, cũng theo tiền lệ của tiên vương nhưng người nào xứng đáng để cử vào chức vụ đó? Hẳn phải là Đại Điển Tôn mới được!”
Vua Từ Bi liền triệu Đại Điển Tôn đến bảo: “Nay ta muốn cử ngươi lên chức tể tướng và trao ấn tín cho ngươi, hãy chuyên cần lo liệu xử lý việc nước!”
Đại Điển Tôn nghe xong liền vâng lệnh và lãnh ấn tín. Bấy giờ, nhà vua mỗi khi vào cung thì đem bao nhiêu việc nước ủy thác cho Đại Điển Tôn.
Khi ấy, Đại Điển Tôn lại nghĩ: “Nay ta nên đến hỏi sáu vị đại thần Sát-đế lợi như sau: ‘Các ngài có còn nhớ lời nói trước đây không? Nay thái tử đã lên ngôi, đang ở trong cung để thỏa mãn ngũ dục. Vậy các ngài hãy đến hỏi nhà vua có nhớ lời đã nói lúc trước hay không?’”
Sau khi nghe xong, sáu vị Sát-đế-lợi liền đến chỗ vua ngự và thưa với đại vương:
“Nay ngài đã lên ngôi, đang vui thú ngũ dục, vậy ngài có nhớ lời nói trước đây không? Việc phong cấp đất sau này nên phong cho ai?”
Vua đáp:
“Không quên! Xưa ta có nói: ‘Toàn cõi nước nếu đem phong ấp, phi các ngươi ra thì còn ai?’”
Tiếp theo vua nghĩ: “Cõi đất Diêm-phù-đề này trong rộng, ngoài hẹp, người nào đủ sức phân nó làm bảy phần?” Lại nghĩ: “Chỉ có Đại Điển Tôn mới làm được việc này.” Vua liền bảo Đại Điển Tôn: “Ngươi hãy phân đất Diêm-phù-đề này ra thành bảy phần!”
Khi được lệnh, Đại Điển Tôn liền phân làm bảy phần. Thành của vua cai trị kể cả thôn ấp, quận, nước, chung quanh thành một bộ phận, sáu nước của những người Sát-đế-lợi đại thần, đều chia thành sáu bộ cho mỗi bộ. Được thế rồi, nhà vua vui mừng nói: “Nguyện của ta đã thỏa mãn, sáu vị đại thần cũng như nguyện vọng của ta cũng đã thỏa mãn. Công việc này thành tựu là nhờ sức của Đại Điển Tôn vậy.”
Còn sáu vị quốc vương sau khi làm chủ một nước, mới tự nghĩ: “Nước ta mới lập cần có một vị tể tướng nhưng biết ai có thể gánh vác được như Đại Điển Tôn để giao phó quyền thống lãnh việc nước?”
Bấy giờ, cả các vị Sát-đế-lợi đều triệu Đại Điển Tôn đến bảo: “Nước ta cần một vị phụ tướng, ngươi hãy giúp ta nhận chức vụ đó!”
Lúc đó, sáu vị quốc vương đều trao ấn tín, Đại Điển Tôn liền nhận ấn tín. Khi hoàn tất, sáu vị quốc vương vào cung du ngoạn và vui thú, đồng thời đem việc nước giao phó lại cho Đại Điển Tôn. Đại Điển Tôn xử lý cả bảy nước và mọi việc đều hoàn hảo.
Khi đó, trong nước có bảy nhà đại cư sĩ, Đại Điển Tôn xử lý luôn để phân xử gia nghiệp. Ông lại dạy cho bảy trăm Phạm chí đọc tụng kinh điển.
Bảy vị quốc vương kính xem ông như thân mình, bảy đại cư sĩ kính xem ông như đại vương, còn bảy trăm Phạm chí xem ông như Phạm thiên.
Bấy giờ, bảy quốc vương, bảy đại cư sĩ, bảy trăm Phạm chí đều tự nghĩ: “Đại Điển Tôn chắc thường gặp gỡ, thân thiện, chuyện trò, đi đứng cùng với Phạm thiên?”
Lúc đó, Đại Điển Tôn thầm biết ý họ tưởng: “Ta thường thân cận, trò chuyện, đi đứng cùng với Phạm thiên nhưng thực tế là ta chưa từng thấy Phạm thiên, chưa từng nói chuyện với Phạm thiên, ta không thể làm thinh để vọng nhận tiếng khen đó. Hơn nữa, ta cũng từng nghe các bậc Tôn túc kỳ cựu nói: ‘Ai trong bốn tháng mùa hạ ở chỗ thanh vắng tu tập bốn vô lượng tâm, thời Phạm thiên sẽ xuống gặp. Nay ta đâu có thể tu tập bốn vô lượng tâm để Phạm thiên xuống gặp?’” Nghĩ thế, Đại Điển Tôn tìm đến bảy quốc vương và thưa:
“Tâu Đại vương, cúi xin ngài hãy lo việc nước, tôi muốn ở trong bốn tháng hạ tu tập bốn vô lượng tâm!” Bảy quốc vương nói: “Tùy ý ngươi, nếu thấy hợp thời!”
Sau đó, Đại Điển Tôn đến bảy vị cư sĩ nói:
“Các ngài hãy tự lo liệu lấy việc nhà. Tôi muốn ở trong bốn tháng hạ tu tập bốn vô lượng tâm!”
Bảy vị cư sĩ nói:
“Vâng, tùy ý ngài, nếu thấy hợp thời.”
Thế rồi, lại đến bảy trăm vị Phạm chí nói:
“Các ngài chuyên cần đọc tụng, dạy bảo lẫn nhau. Tôi muốn ở trong bốn tháng hạ tu tập bốn vô lượng tâm.”
Phạm chí nói: “Vâng, tùy ý Đại sư, nếu thấy hợp thời.”
Khi đó, Đại Điển Tôn tại thành phía Đông lập một ngôi nhà thanh vắng, trong bốn tháng hạ tu tập bốn vô lượng tâm. Nhưng sau đó, Phạm thiên vẫn không hiện xuống. Lúc ấy, Đại Điển Tôn tự nghĩ: “Ta đã nghe các bậc Tôn túc kỳ cựu nói: ‘Trong bốn tháng hạ tu tập bốn vô lượng tâm thì Phạm thiên sẽ hiện xuống.’ Nhưng sao lặng lẽ, chẳng thấy dấu hiệu gì cả?”
Bấy giờ, vào ngày rằm trăng sáng, Đại Điển Tôn ra khỏi tịnh thất, đến chỗ trống ngồi, ngồi chưa bao lâu thì có ánh sáng lớn hiện ra, Đại Điển Tôn lúc đó tự nghĩ: “Ánh sáng lạ này chắc là điềm Phạm thiên sẽ hiện xuống chăng?”
Khi ấy, Phạm thiên vương bèn hóa làm đồng tử, đầu có năm búi tóc, trụ giữa hư không, trên đầu Đại Điển Tôn. Đại Điển Tôn thấy vậy liền nói bài kệ:
Đây là thần trời gì,
Đang ở giữa hư không,
Ánh sáng chiếu bốn phương,
Như đống lửa bừng cháy?
Phạm thiên đồng tử dùng bài kệ đáp:
Chỉ chư thiên Phạm thế,
Biết ta là đồng tử,
Ngoài ra đều cho ta,
Là vị thần thờ lửa.
Lúc đó, Đại Điển Tôn dùng kệ đáp:
Tôi xin hỏi Phạm Đồng,
Vâng lời thật cung kính,
Các thức ăn thượng vị,
Lòng ngài hiểu lòng tôi.
Phạm thiên đồng tử dùng kệ đáp:
Điển Tôn, ông tu hành,
Là muốn cầu pháp gì?
Nay bày sự cúng dường,
Ta sẽ nhận lãnh cho.
Lại bảo Đại Điển Tôn rằng: “Ông có điều chi nghi vấn thì cứ hỏi, ta sẽ giải thích cho.”
Khi ấy, Đại Điển Tôn tự nghĩ: “Việc hiện tại ích lợi gì mà hỏi? Ta hỏi về những việc mù tịt ở tương lai.” Tức thì hướng về Phạm thiên đồng tử, Đại Điển Tôn dùng kệ hỏi:
Nay tôi hỏi Phạm Đồng,
Nhờ giải quyết mối nghi,
Học và tu pháp gì,
Được sanh làm Phạm thiên?
Phạm thiên đồng tử dùng kệ đáp lại:
Hãy bỏ niệm nhân, ngã,
Ở riêng tu từ tâm,
Trừ tham dục, xú uế,
Được sanh làm Phạm thiên.
Đại Điển Tôn khi nghe qua bài kệ, liền tự nghĩ: “Phạm đồng tử nói phải trừ xú uế, ta không hiểu rõ là gì, vậy nên hỏi lại.” Lúc đó, Đại Điển Tôn dùng bài kệ hỏi lại:
Ngài vừa nói xú uế,
Xin giải rõ cho tôi,
Thứ gì đóng cửa thế,
Sa đọa, không sanh thiên?
Phạm đồng tử đáp:
Dối trá và ganh ghét,
Ngã mạn, tăng thượng mạn,
Tham dục, sân, ngu si,
Tự ý, chứa đầy tâm.
Xú uế thế gian này,
Ta nói cho ngươi rõ,
Nó đóng cửa thế gian,
Sa đọa, không sanh thiên.
Lúc đó, Đại Điển Tôn nghe xong bài kệ này, liền suy nghĩ: “Nghĩa của Phạm đồng tử nói về xú uế ta đã hiểu rõ nhưng người tại gia thì không thể trừ chúng được, vậy tốt nhất là ta hãy xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục của người xuất gia để tu đạo ư?” Khi ấy, Phạm đồng tử biết được tâm niệm của Đại Điển Tôn, liền dùng kệ bảo:
Ngươi hãy mạnh mẽ lên!
Chí ấy rất thù thắng,
Việc làm của người trí,
Khi chết sanh Phạm thiên.
Lúc đó, Phạm đồng tử bỗng nhiên biến mất. Bấy giờ, Đại Điển Tôn trở về tâu lại ý mình với bảy vị quốc vương như sau:
“Tâu Đại vương, mong các ngài hãy xử lý việc nước, nay tôi muốn xuất gia, lìa bỏ y phục thế tục, mặc pháp phục để tu hành! Tại sao? Vì tôi đã được gần gũi Phạm đồng tử và nghe người nói về xú uế, tâm rất là chán điều đó. Nếu người ở tại gia thì không thể nào trừ được.
Khi đó, bảy vị quốc vương bèn tự nghĩ: “Hàng Bà-la-môn thường ham của báu, có lẽ ta nên mở kho tàng, cho ông ta cần gì tùy ý để ông ta đừng xuất gia.” Lúc đó, bảy vị quốc vương liền gọi Đại Điển Tôn đến và bảo:
“Ngươi muốn cần gì, ta đều cung cấp cho cả, không cần xuất gia.”
Khi ấy, Đại Điển Tôn liền tâu với vua:
“Như thế là tôi đã được ân tứ của vua rồi nhưng tôi nay cũng có nhiều của báu, tôi xin dâng lại cho Đại vương, miễn là xin cho tôi được xuất gia để thỏa mãn chí nguyện của tôi.”
Bấy giờ, bảy quốc vương lại tự nghĩ: “Phàm những Bà-la-môn thường ham sắc đẹp, có thể ta nên đem thể nữ cung cấp cho Đại Điển Tôn vừa ý để khỏi xuất gia.” Khi ấy, bảy quốc vương liền gọi Đại Điển Tôn đến bảo:
“Nếu cần thể nữ, ta sẽ cung cấp cho, không cần phải xuất gia.”
Đại Điển Tôn đáp:
“Như thế là tôi đã được ân tứ của Đại vương rồi nhưng trong nhà tôi hiện nay thể nữ cũng có nhiều mà đã cho về nhà hết, vì tôi chỉ mong được lìa sự ân ái để xuất gia tu hành. Tại sao? Vì tôi đã được gần gũi Phạm đồng tử và nghe người nói về việc xú uế, tâm tôi thật nhàm chán. Nếu người ở tại gia thì không thể trừ được.”
Khi ấy, Đại Điển Tôn hướng về Vua Từ Bi, dùng kệ nói:
Vua hãy nghe tôi nói,
Vua, bậc quý của người,
Cho của báu, thể nữ,
Báu này chẳng thích gì.
Vua Từ Bi cũng dùng kệ đáp:
Thành Đàn-đặc-già-lăng,
Thành A-bà-bố-hòa,
Thành A-bàn đại thiên,
Thành Ương-già-chiêm-bà,
Thành Số-di-tát-la,
Thành Tây-đà-lộ-lâu,
Thành Bà-la-già-thi,
Đều do Điển Tôn tạo.
Ngũ dục có hơi ít,
Ta và ngươi cùng hưởng,
Cùng xử lý quốc sự,
Không cần phải xuất gia.
Đại Điển Tôn dùng kệ đáp:
Tôi ngũ dục có nhiều, C
òn không thích thế gian,
Đã nghe chư thiên nói,
Không thích ở tại gia.
Vua Từ Bi dùng kệ đáp:
Như lời Điển Tôn nói,
Là nghe từ trời nào,
Mà xả bỏ ngũ dục,
Hãy trả lời cho ta?
Đại Điển Tôn dùng kệ đáp:
Xưa tôi ở chỗ vắng,
Ngồi một mình suy tư,
Thì có Phạm thiên đến,
Phóng ánh sáng khắp nơi,
Tôi nghe từ vị ấy,
Không thích ở thế gian.
Vua Từ Bi dùng kệ đáp:
Hãy nán lại, Điển Tôn!
Cùng hoằng hóa thiện pháp,
Sau đó cùng xuất gia,
Ngươi tức là thầy ta.
Ví như giữa hư không,
Trong sạch như lưu ly,
Nay ta tin thanh tịnh,
Đầy đủ trong Phật pháp.
Đại Điển Tôn lại nói kệ rằng:
Chư thiên và người đời,
Đều nên bỏ ngũ dục,
Hãy trừ các nhiễm ô,
Thanh tịnh tu Phạm hạnh.
Bấy giờ, bảy quốc vương nói với Đại Điển Tôn rằng:
“Người có thể hoãn lại bảy năm để cùng nhau tận hưởng ngũ dục, sau đó ta sẽ giao lại việc nước cho thái tử, rồi ta sẽ cùng xuất gia với. Như thế sẽ hay hơn. Do đó, người được gì, ta cũng được nấy.”
Đại Điển Tôn đáp:
“Thế gian vô thường, mạng sống mau chóng, chỉ trong hơi thở, còn khó bảo toàn, nay nếu hoãn lại bảy năm thì không lâu lắm sao?”
Bảy quốc vương lại nói: “Bảy năm lâu thì sáu năm, năm năm cho đến một năm, hãy ở lại trong tịnh cung để cùng nhau tận hưởng ngũ dục, sau đó ta sẽ giao việc nước cho thái tử, rồi ta cùng xuất gia với, không hay hơn sao? Do đó, người được gì, ta cũng được nấy.”
Lúc đó, Đại Điển Tôn lại đáp:
“Thế gian vô thường, mạng sống mau chóng, chỉ trong hơi thở còn khó bảo toàn.”
Bảy quốc vương nói:
“Nếu như một năm còn lâu thì bảy tháng.”
Đại Điển Tôn nói: “Cho đến một tháng còn không thể được.”
Bảy vị quốc vương nói:
“Thôi hoãn lại bảy ngày và ở trong thâm cung cùng ta tận hưởng ngũ dục, sau đó ta sẽ giao việc nước cho thái tử, rồi ta cùng xuất gia với, không hay lắm sao?”
Đại Điển Tôn đáp:
“Bảy ngày không lâu, tôi có thể lưu lại, xin Đại vương chớ sai lời! Nếu quá bảy ngày mà Đại vương không xuất gia thì tôi sẽ xuất gia một mình.”
Bấy giờ, Đại Điển Tôn lại đến chỗ bảy cư sĩ và nói:
“Các ngươi hãy tự lo việc nhà, ta muốn xuất gia tu đạo vô vi! Tại sao? Vì ta đã thân cận Phạm thiên, nghe nói những việc xú uế, lòng rất nhàm chán, nếu ở tại gia thì không thể nào trừ được.”
Khi đó, bảy cư sĩ thưa với Đại Điển Tôn rằng:
“Lành thay! Ý chí này, nếu thấy hợp thời, chúng tôi cũng muốn cùng xuất gia, nếu ngài được gì thì chúng tôi cũng được nấy.”
Sau đó, Đại Điển Tôn lại đến chỗ bảy trăm Phạm chí và bảo:
– Các ngài hãy chuyên cần đọc tụng, giảng giải rộng rãi và truyền dạy cho nhau, ta muốn xuất gia tu đạo vô vi! Tại sao? Vì ta gần gũi Phạm thiên, nghe nói về xú uế, lòng rất chán ghét. Nếu ở tại gia thì không thể trừ được.
Khi đó, bảy trăm Phạm chí thưa với Đại Điển Tôn: “Đại sư chớ có xuất gia, vì ở tại gia có đủ ngũ dục, nhiều người hầu hạ, tận tâm lo liệu không có nhọc nhằn. Trái lại, người xuất gia thì ở chỗ thanh vắng một mình, điều muốn hoàn toàn không có nên không thể có sự tham thủ.”
Đại Điển Tôn đáp:
“Nếu ta cho tại gia là vui, xuất gia là khổ, hẳn ta không xuất gia. Nhưng trái lại, ta đã cho tại gia là khổ, xuất gia là vui nên ta mới xuất gia.”
Phạm chí thưa:
“Nếu Đại sư xuất gia, chúng tôi cũng sẽ xuất gia, nếu Đại sư làm gì thì chúng tôi cũng sẽ làm theo hết.”
Lúc đó, Đại Điển Tôn đến chỗ các phu nhân và nói: “Này các ái khanh! Tùy ý ai muốn ở thì ở, ai muốn về thì về; vì ta muốn xuất gia cầu đạo vô vi.”
Ngài đã trình bày đầy đủ về ý chí xuất gia như trên, các vị phu nhân đáp: “Ngài hiện nay vừa là chồng, cũng vừa là cha chúng tôi, nay nếu ngài xuất gia thì chúng tôi cũng xin theo với. Hơn nữa, Đại Điển Tôn làm gì thì chúng tôi xin làm theo.”
Sau bảy ngày, Đại Điển Tôn cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y và bỏ nhà mà đi, đồng thời bảy quốc vương, bảy đại cư sĩ, bảy trăm Phạm chí, bốn mươi phu nhân, lần lượt như thế cho đến tám vạn bốn ngàn người đồng thời xuất gia theo Đại Điển Tôn.
Đại Điển Tôn thường cùng đại chúng dạo qua các nước, hóa độ rộng rãi, đem lại nhiều lợi ích cho nhân dân.
Bấy giờ, Phạm thiên vương bảo thiên chúng:
– Các ngươi chớ nghĩ đại thần Điển Tôn lúc đó là ai đâu khác, chính là thân Phật Thích-ca hiện nay vậy.
Đức Thế Tôn lúc đó, qua bảy ngày, xuất gia tu đạo, dẫn đại chúng đi qua các nước giáo hóa rộng rãi, đem lại nhiều lợi ích cho chúng sanh. Nếu có nghi lời ta nói thì các ngươi hãy đến đức Thế Tôn hiện đương ngự tại núi Kỳ-xà quật để hỏi. Nếu như Phật có dạy điều gì thì hãy cố gắng ghi nhớ lấy.
Bàn-già-dực thưa:
– Tôi vì nhân duyên đó nên hôm nay đến đây, xin hỏi Ngài: “Đại Điển Tôn kia chính là Thế Tôn phải chăng? Ngài lúc đó, qua bảy ngày thì xuất gia tu đạo, rồi cùng bảy quốc vương cho đến tám vạn bốn ngàn người đồng thời xuất gia, đi du hóa các nước, giáo hóa rộng rãi, đem lại nhiều lợi ích có phải không?”
Phật bảo Bàn-già-dực rằng:
– Chớ nghĩ Đại Điển Tôn lúc đó là ai khác, chính Ta đây vậy. Cả nước thuở đó, gái trai mỗi khi đi lại, có điều chi nguy khốn đều cất tiếng niệm: “Nam-mô Đại Điển Tôn, Thất Vương Đại Tướng” và niệm ba lần như vậy.
Này Bàn-già-dực! Điển Tôn lúc đó tuy có oai đức lớn nhưng không thể vì đệ tử giảng nói đạo lý cứu cánh Phạm hạnh, không thể khiến cho đệ tử đến nơi an ổn. Hơn nữa, pháp của Điển Tôn nói ra, nếu đệ tử nào thực hành thì sau khi qua đời chỉ được sanh lên cõi trời Phạm thiên, người nào có thực hành cạn hơn thì sanh lên cõi Tha Hóa Tự Tại, Đâu-suất-đà, Diệm-ma, Đao-lợi, Tứ Thiên Vương hoặc Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, cư sĩ tại gia và muốn gì cũng được.
Này Bàn-già-dực! Đệ tử của Đại Điển Tôn đều là kẻ có trí xuất gia, có quả báo, có giáo giới nhưng đạo của Đại Điển Tôn chưa phải là đạo cứu cánh, chẳng khiến cho đệ tử chứng được cứu cánh Phạm hạnh, chẳng đưa đệ tử đến chỗ an ổn hoàn toàn. Điểm cao tột của đạo đó chỉ đưa đến cõi Phạm thiên là cùng. Còn nay, giáo pháp Ta dạy cho đệ tử có thể khiến cho họ mau được đạo cứu cánh và cứu cánh Phạm hạnh, cứu cánh an ổn và cuối cùng chứng nhập Niết-bàn. Pháp của Ta nói, nếu đệ tử nào thực hành thì bỏ hữu lậu thành vô lậu, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, tự mình chứng ngộ ngay trong hiện tại, sanh tử đã chấm dứt, Phạm hạnh đã thành, việc làm đã xong, không còn bị tái sanh. Người nào thực hành cạn hơn thì trừ được năm hạ phần kiết sử và có thể nhập Niết-bàn tại thiên giới, chứ không trở lại cõi này. Thứ đến là trừ hết ba kiết sử, giảm bớt tham dục, phẫn nộ và ngu si, chỉ còn một lần sanh lại cõi đời này, chứng nhập Niết-bàn. Cuối cùng là dứt ba kiết sử, chứng quả Tu-đà-hoàn, không còn bị đọa ác đạo, và nhiều lắm là bảy lần sanh tử lại cõi đời này và chắc chắn sẽ chứng nhập Niết-bàn.
Này Bàn-già-dực, các đệ tử của Ta là hạng người có trí xuất gia, có quả báo, có giáo giới, được cứu cánh đạo pháp, cứu cánh Phạm hạnh, cứu cánh an ổn và cuối cùng vào Niết-bàn. Khi Bàn-già-dực nghe Phật nói xong, hoan hỷ phụng hành.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.