Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 01 »
Kinh Trường A-Hàm
(長阿含經)
(Bản dịch của Viện Cao đẳng Phật học Huệ Nghiêm)
Tôi nghe như vầy:
Một thời, đức Phật cùng đông đủ một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ-kheo ngự tại núi Kỳ-xà quật, thuộc thành La-duyệt. Bấy giờ, vua nước Ma-kiệt- đà là A-xà-thế muốn chinh phạt nước Bạt-kỳ. Vua tự nghĩ: “Nước ấy tuy là cường thịnh, dân chúng hùng hậu nhưng dùng sức để thắng họ không phải là chuyện khó.”
Khi đó, Vua A-xà-thế sai Bà-la-môn là đại thần Vũ-xá và bảo:
– Ông hãy đến chỗ đức Thế Tôn ngự tại núi Kỳ-xà quật. Ông nhân danh ta đảnh lễ dưới chân Ngài và thưa: “Đức Thế Tôn có được khỏe mạnh không? Đi đứng, ăn uống có được bình thường không?”, đồng thời thưa: “Dân xứ Bạt-kỳ tự ỷ mình giàu mạnh, nhân lực hùng hậu, không chịu thần phục nhà vua, cho nên, nay nhà vua muốn chinh phạt nước ấy, không biết đức Thế Tôn có dạy điều gì không?” Nếu Ngài có dạy, thời ông hãy ghi nhớ cho kỹ đừng để thiếu sót, rồi trở về tâu lại với ta đúng như vậy. Ta tin chắc rằng những điều mà đức Thế Tôn dạy thì không bao giờ sai cả.
Đại thần Vũ-xá nghe vua dạy xong liền lên xe báu, đi đến núi Kỳ-xà quật, khi đến nơi thì xuống đi bộ đến chỗ Thế Tôn ngự; sau khi thăm hỏi xã giao xong thì ngồi qua một bên và thưa: “Bạch Thế Tôn! Vua nước Ma-kiệt-đà là A-xà-thế, xin cúi đầu đảnh lễ dưới chân Ngài và xin hỏi: ‘Đức Thế Tôn có được khỏe không? Đi đứng, ăn uống có được bình thường không?’ và thưa tiếp: ‘Dân chúng nước Bạt-kỳ tự ỷ mình giàu mạnh, dân chúng hùng hậu, không chịu thần phục nhà vua, nay nhà vua muốn chinh phạt nước ấy, không biết đức Thế Tôn có dạy điều gì không?’”
Lúc đó, ngài A-nan đang cầm quạt đứng hầu sau Phật mà quạt cho Phật. Phật hỏi ngài A-nan:
– Này A-nan, ông có nghe dân chúng nước Bạt-kỳ thường nhóm họp để bàn luận về việc chính trị không?
A-nan đáp:
– Có nghe!
Phật bảo A-nan:
– Nếu thế, thời sự hòa thuận của già và trẻ lại càng tăng thêm. Nước ấy được yên ổn lâu dài, không ai có thể xâm lăng được.
Này A-nan, ông có nghe dân chúng nước Bạt-kỳ vua tôi đều hòa thuận, trên kính dưới nhường không?
A-nan đáp:
– Có nghe!
– Này A-nan, nếu vậy thì sự hòa thuận của già trẻ lại càng tăng thêm và nước ấy an ổn lâu dài, không ai có thể xâm lăng được.
Này A-nan, ông có nghe dân chúng nước Bạt-kỳ thường tôn trọng luật pháp, hiểu rõ những điều quốc cấm, có lễ độ không?
A-nan đáp:
– Có nghe!
– Này A-nan, nếu được vậy thời sự hòa thuận của già trẻ càng tăng thêm, nước ấy an ổn lâu dài, không ai có thể xâm lăng được.
Này A-nan, ông có nghe dân chúng nước Bạt-kỳ thường hiếu thảo với cha mẹ, kính thuận Sư trưởng không?
A-nan đáp:
– Có nghe!
– Này A-nan, nếu thế, sự hòa thuận của già trẻ càng tăng thêm, nước ấy được an ổn lâu dài, không ai có thể xâm lăng được.
Này A-nan, ông có nghe dân chúng nước Bạt-kỳ thường tôn trọng đền miếu, kính nể quỷ thần không?
A-nan đáp:
– Có nghe
– Này A-nan, nếu như thế thì sự hòa thuận của già trẻ càng tăng thêm, nước ấy được an ổn lâu dài, không ai có thể xâm lăng được.
Này A-nan, ông có nghe dân chúng nước Bạt-kỳ, khuê môn chân chính, trong sạch không dơ, cho đến cả việc cười đùa nói năng không tà vọng không?
A-nan đáp:
– Có nghe!
– Này A-nan, nếu vậy, sự hòa thuận của già trẻ càng tăng thêm, nước ấy được an ổn lâu dài, không ai có thể xâm lăng được.
Này A-nan, ông có nghe dân chúng nước Bạt-kỳ thường tôn kính và phụng sự Sa-môn, người trì giới, chăm chú hộ trì chưa từng lười mỏi hộ dưỡng họ không?
A-nan đáp:
– Có nghe!
– Này A-nan, nếu thế sự hòa thuận già trẻ càng tăng thêm, nước ấy được an ổn lâu dài, không ai có thể xâm lăng được.
Lúc ấy, đại thần Vũ-xá bạch Phật:
– Thưa Thế Tôn, nếu dân xứ Bạt-kỳ chỉ thi hành một điều thôi còn không thể thắng họ được, huống nữa là thực hiện đầy đủ cả bảy điều trên. Vì việc nước quá đa đoan, tôi xin kiếu từ Thế Tôn!
Đức Phật bảo:
– Tùy ý ngươi, nếu thấy là hợp thời.
Khi đó, đại thần Vũ-xá liền đứng dậy đi quanh Phật ba vòng đảnh lễ ra về. Đại thần Vũ-xá ra về chưa bao lâu, sau đó Phật bảo A-Nan:
– Ông hãy thông báo cho các Tỳ-kheo ở chung quanh thành La-duyệt tập hợp hết tại giảng đường!
A-nan đáp:
– Vâng!
Bấy giờ, A-nan vâng lệnh tập hợp các Tỳ-kheo ở trong thành La-duyệt tại giảng đường, tiếp theo A-nan thưa:
– Bạch Thế Tôn, các Tỳ-kheo đã tập hợp đông đủ, xin trình Thế Tôn rõ!
Khi đó, đức Thế Tôn liền đứng dậy đi đến giảng đường, đến tòa mà ngồi. Thế rồi, đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
– Nay Ta sẽ vì các ông mà nói bảy pháp bất thối. Hãy lắng nghe, lắng nghe và khéo suy tư!
Bấy giờ, các Tỳ-kheo bạch Phật rằng:
– Bạch Thế Tôn, chúng con xin vui vẻ nghe!
Phật dạy các Tỳ-kheo:
– Bảy pháp bất thối là: (1) Nếu Tỳ-kheo thường hội họp bàn bạc những điều chân chánh, thời trẻ già hòa thuận, Chánh pháp không bị tổn hoại; (2) Nếu các Tỳ-kheo thường trên dưới hòa thuận, tôn trọng lẫn nhau, thời trẻ già hòa thuận, Chánh pháp không bị tổn hoại; (3) Nếu các Tỳ-kheo thông hiểu những điều ngăn cấm, không trái với quy chế, thời trẻ già hòa thuận, Chánh pháp không bị tổn hoại; (4) Nếu Tỳ-kheo nào có khả năng bảo hộ chúng Tăng, có kiến thức rộng, chúng Tăng nên tôn kính họ, nếu được vậy, thời trẻ già hòa thuận, Chánh pháp không bị tổn hoại; (5) Nếu Tỳ-kheo chuyên lo phòng hộ tâm ý, lấy sự hiếu kính làm đầu, thời trẻ già hòa thuận, Chánh pháp không bị tổn hoại; (6) Nếu Tỳ-kheo thường tu hạnh thanh tịnh, không chạy theo dục lạc, thời trẻ già hòa thuận, Chánh pháp không bị tổn hoại; (7) Trước vì người sau vì mình, không tham danh lợi, nếu được như thế thời trẻ già hòa thuận, Chánh pháp không bị tổn hoại.
Này các Tỳ-kheo, lại có bảy pháp khác làm cho Chánh pháp tăng trưởng, không bị tổn hoại: (1) Thích giản dị, không đảm nhận nhiều công việc, thời Chánh pháp được tăng trưởng, không bị tổn hoại; (2) Ưa yên lặng, không thích nói nhiều; (3) Ít ngủ nghỉ, không mê muội; (4) Không kết bè cánh, không nói những điều vô ích; (5) Không tự khoe khoang trong khi mình thiếu đức; (6) Không kết bạn với những người xấu ác; (7) Thích ở một mình nơi rừng núi thanh vắng.
Nếu các Tỳ-kheo thực hiện được những điều như vậy thời Chánh pháp sẽ tăng trưởng, không bị tổn hoại.
Này các Tỳ-kheo, có bảy pháp khác làm cho Chánh pháp tăng trưởng, không bị tổn hoại: (1) Có lòng tin, tin đức Như Lai là bậc Chí Chân, Chí Giác, đầy đủ mười hiệu; (2) Tự hổ với những điều sơ suất của mình; (3) Tự thẹn với những việc ác mà mình đã tạo; (4) Học rộng hiểu nhiều, nhất là đối với giáo pháp đầu, giữa và cuối đều toàn thiện sâu xa, nghĩa lý trong sạch, không tỳ vết. Điều mình đã chấp nhận thì phải giữ gìn một cách đầy đủ; (5) Nỗ lực tu khổ hạnh, dứt ác tu thiện, siêng năng chuyên chú luyện tập mãi không bao giờ từ bỏ; (6) Đối với những điều đã học ghi nhớ mãi không quên; (7) Tu tập về trí tuệ, biết các pháp là sanh diệt vô thường, đồng thời cũng biết các pháp chân chánh đưa đến quả vị Hiền thánh, dứt hẳn nguồn gốc các khổ.
Nếu các Tỳ-kheo tu hành bảy pháp như thế thời Chánh pháp tăng trưởng, không bị tổn hoại.
Này các Tỳ-kheo, lại có bảy pháp khác làm cho Chánh pháp tăng trưởng, không bị tổn hoại:
(1) Kính Phật; (2) Kính Pháp; (3) Kính Tăng; (4) Kính giới luật; (5) Kính thiền định; (6) Kính cha mẹ; (7) Kính giáo pháp, không phóng túng.
Nếu các Tỳ-kheo tu hành bảy pháp như thế thì làm cho Chánh pháp tăng trưởng, không bị tổn hoại.
Này các Tỳ-kheo, lại có bảy pháp khác làm cho Chánh pháp tăng trưởng, không bị tổn hoại. Bảy pháp là:
(1) Quán thân bất tịnh; (2) Quán thức ăn là bất tịnh; (3) Không say đắm thế gian; (4) Thường nghĩ đến sự chết; (5) Luôn nghĩ đến lý vô thường; (6) Nghĩ đến khổ và vô thường; (7) Nghĩ đến khổ và vô ngã.
Nếu các Tỳ-Kheo tu hành bảy pháp như thế thời Chánh pháp sẽ được tăng trưởng, không bị tổn hoại.
Này các Tỳ-kheo, lại có bảy pháp làm cho Chánh pháp tăng trưởng, không bị tổn hoại. Bảy pháp là:
(1) Tu về niệm giác ý, thường ở chỗ thanh vắng tu tập pháp vô dục, giải thoát, vô vi; (2) Tu về trạch pháp giác ý; (3) Tu về tinh tấn giác ý; (4) Tu về hỷ giác ý; (5) Tu về ỷ giác ý (khinh an giác ý); (6) Tu về định giác ý; (7) Tu về hộ giác ý (xả giác ý).
Nếu các Tỳ-kheo tu được các pháp như thế thì làm cho Chánh pháp được tăng trưởng, không bị tổn hoại.
Này các Tỳ-kheo, lại có sáu pháp bất thối làm cho Chánh pháp tăng trưởng, không bị tổn hoại. Sáu pháp là gì?
(1) Thân thường thể hiện lòng từ bi, không giết hại chúng sanh; (2) Miệng thường nói những lời nhân từ, không nói lời độc ác; (3) Có tâm niệm từ bi, không ôm lòng thêm bớt sai lầm; (4) Chỉ nhận sự cúng dường thanh tịnh và phân phát đồng đều cho chúng Tăng; (5) Giữ gìn giới của Thánh hiền, không cho tổn khuyết, không có tỳ vết và không bao giờ thay đổi; (6) Thấy đạo Thánh hiền để dứt hết gốc khổ.
Nếu các Tỳ-kheo tu được sáu pháp như trên thời Chánh pháp được tăng trưởng, không bị tổn hoại.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Lại có sáu pháp bất thối, làm cho Chánh pháp tăng trưởng, không bị tổn hoại:
(1) Niệm Phật; (2) Niệm Pháp; (3) Niệm Tăng; (4) Niệm giới; (5) Niệm thí; (6) Niệm thiên.
Nếu các Tỳ-kheo tu hành sáu pháp này thời làm cho Chánh pháp được tăng trưởng, không bị tổn hoại.
Bấy giờ, đức Phật ngự tại thành La-duyệt-kỳ, tùy nghi an trụ, rồi bảo A-nan:
– Ông hãy chuẩn bị sẵn sàng, nay Ta muốn đến Trúc Viên!
A-nan đáp:
– Vâng!
Lúc đó, đức Phật liền sửa soạn y bát, cùng đại chúng theo hầu Ngài bằng ngả đường Ma-kiệt-đà để đến Trúc Viên. Sau khi lên giảng đường và an tọa tại đấy rồi, Ngài giảng cho các Tỳ-kheo về giới, định, tuệ; nhờ tu giới mà sanh định, được quả báo lớn; nhờ tu định mà có trí tuệ, có quả báo lớn; do tâm trí thanh tịnh mà đều được giải thoát, đồng thời dứt hết ba thứ lậu hoặc: Dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Một khi đã được giải thoát thì phát sanh trí tuệ giải thoát, sanh tử đã chấm dứt, Phạm hạnh đã thành tựu, những điều cần làm đã làm xong, không còn tái sanh nữa.
Khi đức Thế Tôn ngự tại Trúc Viên, tùy nghi an trụ rồi, Ngài bảo A-nan:
– Ông hãy chuẩn bị sẵn sàng, Ta muốn đến thành Ba-liên-phất!
A-nan đáp:
– Vâng!
Đức Thế Tôn liền sửa soạn y bát, cùng với đại chúng theo hầu Ngài bằng ngả đường Ma-kiệt-đà thứ lớp đến thành Ba-liên-phất và ngồi dưới gốc cây Ba-lăng-phất. Lúc ấy hàng cư sĩ tại đấy, nghe Phật cùng đại chúng từ xa đến nghỉ dưới gốc cây Ba-lăng-phất; họ cùng nhau ra khỏi thành, từ xa trông thấy đức Thế Tôn ngồi dưới gốc cây Ba-lăng-phất, dung mạo đoan chánh, các căn đều an tịnh, điều hòa bậc nhất, cũng như rồng lớn, như nước đứng trong không có vẩn đục, đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, trang nghiêm tự thân. Thấy rồi, ai nấy đều hoan hỷ, đi lần đến chỗ Phật ngự, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Ngài và ngồi qua một bên.
Bấy giờ, đức Phật vì họ lần lượt nói pháp, dạy cho họ những điều lợi ích vui mừng. Các cư sĩ nghe Phật nói pháp xong, rồi họ bèn bạch Phật:
– Thưa Thế Tôn, chúng con muốn quy y Phật, quy y Pháp và quy y Tăng, cúi mong đức Thế Tôn thương xót mà chấp nhận cho chúng con được làm những vị ưu-bà-tắc, nguyện từ nay về sau không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Chúng con một khi đã nhận lãnh giới pháp rồi, không bao giờ dám khinh thường. Ngày mai chúng con thiết lễ cúng dường, vậy cúi xin Thế Tôn và đại chúng rủ lòng chiếu cố!
Bấy giờ, đức Phật chấp nhận bằng cách im lặng. Các cư sĩ nhận thấy đức Thế Tôn im lặng nhận lời, liền đứng dậy đi quanh Phật ba vòng, rồi đảnh lễ ra về.
Rồi họ tìm nơi xây dựng nhà lớn cho Như Lai, san bằng những nơi gò nổng, quét dọn sạch sẽ, tưới nước đốt hương, trang hoàng bảo tòa. Sau khi đã trần thiết xong, họ đến bạch Phật:
– Lễ vật đã sắp đặt xong, xin thưa Thế Tôn rõ!
Lúc đó, đức Thế Tôn liền đứng dậy đắp y, mang bát cùng đông đủ đại chúng đến giảng đường. Lúc đến nơi và sau khi rửa tay chân xong, đức Phật ngồi giữa, các Tỳ-kheo ngồi bên trái, các cư sĩ ngồi bên phải.
Khi ấy, Phật dạy các cư sĩ:
– Phàm người phạm giới có năm điều suy hao. Năm điều gì? (1) Cầu tài lợi không toại nguyện; (2) Dù có được tài lợi nhưng mỗi ngày một hao mòn; (3) Đến bất cứ đâu đều bị mọi người khinh bỉ; (4) Tiếng xấu đồn khắp thiên hạ; (5) Sau khi qua đời bị đọa vào địa ngục.
Này các cư sĩ, trái lại, nếu người giữ giới thì có năm công đức. Năm công đức gì? (1) Cầu bất cứ điều chi đều được như ý; (2) Tài sản phát đạt, không sa sút; (3) Đi đến đâu đều được mọi người kính mến; (4) Tiếng tốt đồn khắp nhân gian; (5) Sau khi qua đời được sanh về các cõi trời.
Bấy giờ trời đã khuya, Phật bảo các cư sĩ hãy ra về. Các cư sĩ vâng theo lời Phật, đứng dậy đi quanh ba vòng, rồi đảnh lễ ra về.
Sáng hôm sau khi trời vừa bình minh, đức Thế Tôn đi đến chỗ thanh vắng, dùng thiên nhãn xem thấy rõ hết các đại thiên thần, trung thần và hạ thần, tất cả đều lo phòng thủ đất đai, nhà cửa thuộc khu vực của mình. Lúc đó, đức Thế Tôn liền trở lại giảng đường, tiến đến chỗ ngồi mà ngồi, dù Ngài đã biết nhưng vẫn hỏi A-nan:
– Ai tạo lập thành Ba-liên-phất này?
A-nan thưa:
– Thành này do đại thần Vũ-xá kiến lập, ngăn chặn (phòng vệ) nước Bạt-kỳ.
Phật bảo A-nan:
– Người tạo ra thành này rất hợp với ý trời, vì lúc bình minh hôm nay, Ta dùng thiên nhãn thấy rõ các đại thiên thần, trung thần và hạ thần, tất cả lo phòng thủ đất đai, nhà cửa thuộc khu vực của mình. A-nan nên biết: “Nơi nào có đất đai nhà cửa, dân cư đông đúc và an ổn thì nơi ấy chư thiên bậc thượng theo phòng thủ, những nơi trung bình thì những thiên thần bậc trung theo phòng thủ và công đức nhiều hay ít cũng tùy theo khu vực dân cư đó.” A-nan! Chỗ này là nơi Hiền nhân ở, là nơi quy tụ của những người buôn bán, phép nước đúng đắn, không ngụy tạo, thành này rất đẹp, được mọi người tôn trọng, không thể phá hoại. Nhưng thành này về sau, nếu có bị phá hoại chăng là do ba dữ kiện: (1) Bị nước lớn; (2) Bị lửa lớn; (3) Người trong thành cùng với người ngoài thành âm mưu thì mới phá hoại được.
Bấy giờ, các cư sĩ trong thành Ba-liên-phất thức suốt đêm để lo sửa soạn lễ vật cúng dường. Sau khi chuẩn bị xong, họ đến bạch Phật:
– Lễ vật đã đầy đủ, kính trình Ngài rõ!
Bấy giờ, các hàng cư sĩ tự tay mình phân phối thức ăn cúng Phật và chúng Tăng. Sau khi Phật thọ trai xong, rửa tay, họ đặt một giường nhỏ khác trước chỗ Phật. Bấy giờ, đức Phật dạy rằng:
– Chỗ các người ở đây, nay có các bậc Hiền trí, những người trì giới tu hạnh thanh tịnh cư ngụ, đồng thời được các vị thiên thần ủng hộ và vui mừng.
Tiếp theo, đức Phật chú nguyện cho họ:
– Nguyện cho các người biết kính nơi nào đáng kính, biết thờ nơi nào đáng thờ, bố thí sâu rộng, thương yêu tất cả, có lòng từ bi, được chư thiên khen ngợi và cùng người thiện sống chung, chứ không chung sống với người ác.
Khi đức Phật thuyết pháp xong, Ngài liền rời khỏi chỗ ngồi, cùng đại chúng theo hầu, trở về tinh xá.
Lúc đó, đại thần Vũ-xá theo sau Phật. Ông tự nghĩ: “Hôm nay, nhân cơ hội Sa-môn Cù-đàm đi ra cửa thành này, vậy ta hãy gọi cửa thành này là cửa Cùđàm; lại nhân đức Như Lai đi ngang qua qua bến sông này, vậy ta hãy gọi bến sông này là bến Cù-đàm."
Bấy giờ, đức Thế Tôn ra khỏi thành Ba-liên-phất đi đến bờ sông, Ngài nhận thấy nước tràn hai bên bờ sông, dân cư đông đúc, dưới sông có người thì dùng thuyền, có người thì dùng bè, có người thì dùng phà để qua sông. Chỉ trong khoảnh khắc, đức Thế Tôn và đại chúng đã qua đến bờ sông bên kia, nhanh như vị đại lực sĩ co duỗi cánh tay. Trước khung cảnh như thế, Ngài nhận thấy ý nghĩa đó, liền nói bài kệ:
Phật là Hải thuyền sư,
Pháp là cầu sang sông,
Là chiếc xe đại thừa,
Độ tất cả nhân, thiên.
Ngài đã tự giải thoát,
Đến nơi thành Phật quả,
Khiến tất cả đệ tử,
Giải thoát chứng Niết-bàn.
Thế rồi, đức Thế Tôn lại từ nước Bạt-kỳ đi đến thôn Câu-lợi. Ngài nghỉ trong một khu rừng và bảo các Tỳ-kheo:
– Có bốn pháp sâu xa: Thánh giới, Thánh định, Thánh tuệ và Thánh giải thoát. Đó là bốn pháp vi diệu khó hiểu rõ, vì các ông không hiểu rõ bốn pháp ấy nên đã lâu phải chịu sự lưu chuyển vô cùng trong sanh tử. Khi đức Thế Tôn quán sát nghĩa ấy xong, Ngài liền nói bài kệ:
Giới, định, tuệ, giải thoát,
Chỉ Phật mới biết rõ,
Lìa khổ độ chúng sanh,
Khiến dứt nguồn sanh tử.
Khi đức Thế Tôn ngự tại thôn Câu-lợi, Ngài nhận thấy thời gian đã đủ, liền bảo A-nan và đại chúng đi đến thôn Na-đà. Ngài A-nan sau khi thọ nhận lời dạy liền đắp y, mang bát cùng với đại chúng theo hầu. Thế Tôn bằng ngả xuyên qua nước Bạt-kỳ, rồi đến thôn Na-đà, dừng lại tại xứ Kiện-trùy.
Khi ấy, A-nan đến nơi thanh vắng ngồi im lặng suy nghĩ: “Tại thôn Na-đà này có mười hai vị cư sĩ: (1) Già-già-la; (2) Già-lăng-già; (3) Tỳ-già-đà; (4) Già-lợi-du; (5) Giả-lâu; (6) Bà-đa-lâu; (7) Bà-đầu-lâu; (8) Tẩu-bà-đầu-lâu; (9) Dà-lê-xá-nậu; (10) Tẩu-đại-lợi-xá-nậu; (11) Da-du; (12) Da-du-đa-lâu; những vị này nay đã qua đời, không biết họ sanh về đâu? Lại có năm mươi người mạng chung và có năm trăm người mạng chung nay sanh vào đâu?” Ngài A-nan suy nghĩ như thế xong, liền rời chỗ thanh tịnh ấy đến chỗ Phật, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Ngài, ngồi qua một bên rồi thưa:
– Bạch Thế Tôn, lúc nãy, con một mình ngồi chỗ thanh vắng tự suy nghĩ: “Ở thôn Na-đà này có mười hai cư sĩ là Già-già-la... mạng chung, năm mươi vị khác, cùng với năm trăm vị nữa cũng qua đời, nay không biết họ sanh về đâu?” Cúi xin đức Thế Tôn giải thích cho!
Đức Phật bảo:
– Này A-nan, mười hai vị cư sĩ như Già-già-la... đã dứt hết năm hạ phần kiết sử nên sau khi qua đời sanh về cõi trời và ở đấy tiếp tục tu hành cho đến khi nhập Niết-bàn, không còn sanh lại cõi này nữa. Và còn năm mươi vị mạng chung kia đã đoạn hết ba kiết sử, giảm bớt dâm, nộ và si, được chứng quả Tưđà-hàm, phải sanh lại cõi này để dứt hết gốc khổ. Còn năm trăm vị mạng chung khác đã đoạn trừ ba kiết sử nên họ chứng quả Tu-đà-hoàn, không còn đọa vào đường ác và nhất định thành đạo, chỉ còn sanh lại cõi này bảy lần nữa để chấm dứt gốc khổ.
Này A-nan, phàm có sanh thì có tử, đó là lẽ thường ở thế gian, có gì phải ngạc nhiên? Nếu mỗi khi thấy một người chết, ông đều đến hỏi Ta như thế thì không phải làm phiền Ta sao?
A-nan đáp:
– Vâng, bạch đức Thế Tôn, thật đúng như vậy!
– Này A-nan, nay Ta vì ông mà nói về Pháp kính để cho các đệ tử Phật biết chỗ thọ sanh. Hễ người nào dứt hết ba đường ác thì chứng quả Tu-đà-hoàn, chỉ còn sanh lại Dục giới bảy lần, nhất định dứt sạch khổ đau và cũng có thể nói việc ấy cho người khác.
Này A-nan, Pháp kính là khi các đệ tử Phật đã có lòng tin chắc chắn không lay động, hoan hỷ tin Phật là đức Như Lai, Chí Chân, Vô Sở Trước, Chánh Đẳng Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu. Và hoan hỷ tin Pháp là giáo lý chân chính vi diệu, Phật tự ý nói ra, không hạn cuộc thời gian, chỉ bày con đường đến Niếtbàn, là con đường của kẻ trí. Và hoan hỷ tin Tăng là đại chúng sống hòa đồng trong lẽ thiện, việc làm ngay thẳng, không dối trá, đồng thời thành tựu đạo quả, trên dưới hòa thuận, đầy đủ cả Pháp thân, hướng đến Tu-đà-hoàn và chứng quả Tu-đà-hoàn; hướng tới Tư-đà-hàm và chứng quả Tư-đà-hàm; hướng tới A-nahàm và chứng quả A-na-hàm; hướng tới A-la-hán và chứng quả A-la-hán. Đó là bốn đôi tám bậc, là chúng Hiền thánh của Như Lai, họ là những người rất đáng cung kính, là ruộng phước của thế gian. Tin chắc giới pháp của Hiền thánh là thanh tịnh, không ô uế, không sơ suất, được các bậc Thánh nhân tu hành và đều được đại định tam-muội.
Này A-nan, đó là “Pháp kính” khiến cho đệ tử Phật biết chỗ thọ sanh, dứt sạch ba đường ác, được quả Tu-đà-hoàn, chỉ còn sanh lại cõi này bảy lần, chắc chắn dứt sạch khổ đau, đồng thời cũng có thể trình bày sự kiện này cho người khác.
Bấy giờ, đức Thế Tôn ngự tại thôn Na-đà nhận thấy thời gian đã đủ, liền bảo A-nan:
– Ông hãy đi đến nước Tỳ-xá-ly!
A-nan đáp:
– Vâng!
Tức thì liền mang y, cầm bát, cùng đại chúng theo hầu Thế Tôn bằng ngả đường Bạt-kỳ để đến Tỳ-xá-ly và ngồi nghỉ dưới gốc cây.
Lúc đó có dâm nữ tên Am-bà-bà-lê, nghe Phật và đệ tử vừa đến Tỳ-xá-ly, hiện đang nghỉ dưới gốc cây, nàng bèn sửa soạn xe báu đi chỗ Phật ngự để lễ bái cúng dường. Tuy chưa đến nơi nhưng nàng đã thấy Phật dung mạo đoan chánh, các căn đều tịch tịnh đặc biệt, đầy đủ các tướng tốt như vầng trăng giữa những vì sao. Khi trông thấy, nàng rất hoan hỷ, liền xuống xe đi bộ đến chỗ Phật ngự, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Ngài và ngồi qua một bên. Khi đó, đức Thế Tôn tuần tự thuyết pháp, chỉ dạy những điều lợi ích vui mừng. Khi nghe xong, nàng liền phát tâm hoan hỷ và bạch Phật: “Kể từ ngày nay, con xin quy y Tam bảo, cúi xin đức Thế Tôn hãy chấp nhận cho con được làm ưu-bà-di ở trong Chánh pháp của Ngài! Con thề trọn đời không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu. Đồng thời kính thỉnh Thế Tôn cùng hàng đệ tử chấp nhận lời thỉnh cầu của con, tối nay tạm nghỉ tại vườn của con!"
Bấy giờ, đức Thế Tôn nhận lời bằng cách im lặng. Khi nàng thấy Phật đã im lặng nhận lời, liền đứng dậy cúi đầu đảnh lễ dưới chân và đi quanh Phật rồi lui.
Khi nàng về không bao lâu, Phật bảo A-nan:
– Ta cùng các ông đi đến khu vườn của dâm nữ ấy mà xem xét.
A-nan đáp:
– Vâng!
Tức thời đức Thế Tôn rời khỏi chỗ ngồi, đắp y, mang bát, cùng đi với đông đủ một ngàn hai trăm năm mươi vị đệ tử đến khu vườn trên. Trong lúc đó, ở tại Tỳ-xá-ly, có năm trăm người dòng Lệ-xa, nghe Phật đến nghỉ tại vườn của Am-bà-bà-lê, họ liền sửa sang xe báu, năm màu lộng lẫy, hoặc có toán thì cưỡi xe xanh, ngựa xanh, phan, lọng, mão đều xanh, hoặc có toán cưỡi xe ngựa năm màu lộng lẫy, màu sắc cũng như trên. Khi năm trăm người Lệ-xa ăn mặc đồng phục sắp kéo đến chỗ Phật ngự. Trong khi đó, nàng Am-bà-bà-lê sau khi từ giã Phật trở về, giữa đường gặp phái đoàn người trên, với những đôi xe chạy rất nhanh, nghẽn cả đường lối, không có chỗ tránh nên các xe báu va chạm nhau làm cho phan, lọng bị hư nhưng họ vẫn không nhường lối cho nhau. Nhóm Lệxa còn cất tiếng trách:
– Nàng ỷ thế gì mà không tránh đường cho xe chúng tôi đi để đến nỗi phan lọng phải bị hư cả?
Nàng ấy đáp:
– Này các người, tôi vừa đi thỉnh Phật ngày mai thọ trai nên phải về gấp để kịp sửa soạn đồ cúng dường, do đó xe chạy mau không tránh kịp.
Nhóm Lệ-xa nói:
– Nàng hãy nhường cho ta thỉnh Phật trước, ta sẽ tặng cho nàng một trăm ngàn lượng vàng!
Nàng ấy đáp:
– Tôi đã quyết định thỉnh trước, không thể nhường được.
Nhóm Lệ-xa nói tiếp:
– Chúng tôi sẽ tặng cho nàng gấp mười sáu lần một trăm ngàn lượng vàng. Vậy hãy cho chúng tôi thỉnh trước!
Nàng ấy liền đáp:
– Không được, tôi đã thỉnh trước không thể nhường được.
Nhóm Lệ-xa nói:
– Hoặc chúng tôi sẽ tặng bằng số của báu trong nửa nước, miễn là nàng cho chúng tôi thỉnh trước!
Nàng ấy trả lời:
– Giả sử của báu trong cả nước đem cung cấp cho tôi, tôi cũng không nhận, vì Phật hiện nay đang ngự trong vườn của tôi và Ngài trước đã nhận lời thỉnh cầu của tôi, do đó, việc ấy đã ấn định, tôi không thể nhường cho các người được.
Các Lệ-xa xoa tay tỏ vẻ hối tiếc và nói:
– Vì nàng này mà chúng ta thiếu một phần phúc đức đầu tiên.
Tức thời họ liền đến khu rừng nơi Phật ngự. Khi ấy, đức Thế Tôn từ xa trông thấy năm trăm người Lệ-xa cùng với ngựa xe con số lên cả vạn đang tiến tới chật cả đường, Ngài bảo các Tỳ-kheo:
– Các ông nên biết chư thiên Đao-lợi, khi dạo chơi trong vườn với sự trang sức và oai nghi không khác gì những người ấy. Vậy các ông phải thu nhiếp tâm mình và giữ gìn oai nghi đầy đủ.
Thế nào là các Tỳ-kheo tự thu nhiếp tâm mình? Ấy là các Tỳ-kheo trước hết quán thân trong thân, tiếp theo là quán thân ngoài thân, sau cùng là quán thân trong thân và ngoài thân. Phải quán một cách siêng năng không lười biếng, ghi nhớ không quên để trừ bỏ lòng tham dục, lo buồn của thế gian. Sau khi quán sát như trên xong, tiếp theo quán sát về thọ, về ý và về pháp cũng như thế.
Thế nào là các Tỳ-kheo giữ gìn oai nghi đầy đủ? Ấy là các Tỳ-kheo khi đi thì biết mình đi, khi đứng thì biết mình đứng, cho đến như liếc ngó hai bên, hoặc co duỗi, cúi ngước, đắp y, mang bát và những việc ăn uống, thuốc men đều phù hợp với oai nghi. Phải khéo tìm phương tiện từ bỏ năm ấm cái cho đến đi, đứng, ngồi, nằm, thức, ngủ, nói năng hay im lặng đều phải nhiếp tâm không cho tán loạn. Ấy là những oai nghi mà các Tỳ-kheo phải giữ gìn đầy đủ.
Khi năm trăm người Lệ-xa đến vườn Am-bà-bà-lê, họ liền xuống xe đi bộ đến chỗ Phật ngự, cúi đầu đảnh lễ dưới chân Phật và ngồi qua một bên. Lúc đó đức Như Lai tại pháp tòa, phóng hào quang bao trùm cả đại chúng, như ánh trăng mùa thu, như bầu trời trong sáng, với ánh sáng duy nhất của mặt trời chiếu rọi giữa hư không, không có mây mù.
Bấy giờ, năm trăm người Lệ-xa đi quanh pháp tòa của Phật ở trong đại chúng, với ánh sáng duy nhất soi sáng rõ ràng. Khi ấy, giữa đại chúng có một Phạm chí tên là Tinh Ký, từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo phải, gối phải quỳ chấm đất, chắp tay hướng về đức Thế Tôn, dùng bài kệ để tán thán Phật như sau:
Vua Ma-kiệt và Ương-già,
Sung sướng vì được điều thiện,
Mình mặc áo giáp bửu châu.
Ở đó Thế Tôn xuất hiện,
Oai đức vang ba ngàn cõi,
Danh Ngài chói như núi Tuyết,
Như hoa sen vừa chớm nở,
Mùi hương vị diệu, ngạt ngào.
Nay được thấy ánh sáng Phật,
Như mặt trời vừa xuất hiện,
Như trăng tròn giữa hư không,
Không chút mây mù che ám.
Thế Tôn hiện nay cũng vậy,
Hào quang chiếu cả trần gian,
Khi quán trí tuệ Như Lai,
Như tối bỗng có đèn sáng,
Ngài cho mắt sáng chúng sanh,
Giải quyết những điều nghi hoặc.
Khi năm trăm người Lệ-xa nghe xong bài kệ trên, họ bảo Tinh Ký lặp lại một lần nữa, tức thời Tinh Ký ở trước Phật lặp lại ba lần. Khi họ nghe xong bài kệ đó, liền cởi áo quý của mình tặng cho Tinh Ký, đồng thời Tinh Ký nhận áo quý ấy rồi dâng lên đức Như Lai. Lúc đó, Phật vì thương xót mà nhận chiếc áo ấy, rồi Thế Tôn bảo các người Lệ-xa, thuộc thành Tỳ-xá-ly như sau:
– Ở đời có năm thứ báu, rất khó được. Năm thứ báu gì? (1) Đức Như Lai, Chí Chân xuất hiện ở thế gian, thật là khó gặp; (2) Hạng người diễn giảng Chánh pháp của Như Lai, thật là khó gặp; (3) Hạng người tin hiểu được Chánh pháp của Như Lai, thật là khó gặp; (4) Hạng người thực hành thành tựu được Chánh pháp của Như Lai, thật là khó gặp; (5) Hạng người có tài xoay xở, vào nguy khốn để cứu độ chúng sanh, thật là khó gặp. Đó là năm thứ báu khó gặp.
Khi năm trăm người Lệ-xa nghe Phật nói những điều lợi ích vui mừng xong, liền thưa:
– Kính xin Thế Tôn và đại chúng sáng mai cho chúng con thỉnh về nhà cúng dường!
Đức Phật dạy:
– Khi các người thỉnh Ta, tức là đã cúng dường Ta rồi, ngặt vì nàng Am-bàbà-lê đã thỉnh trước.
Lúc đó, năm trăm người Lệ-xa nghe nàng ấy đã thỉnh trước, họ đều xoa tay và nói: “Ta muốn cúng dường đức Như Lai mà nàng ấy đã dành trước.” Họ liền đứng dậy đảnh lễ Phật, đi quanh ba vòng và ra về. Trong khi đó, nàng Am-bàbà-lê, suốt đêm ở nhà lo sửa soạn đồ cúng dường. Sáng đến, đức Thế Tôn và một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ-kheo sửa sang y bát, thứ tự đi đến địa điểm cúng dường đã ấn định. Sau khi chư vị an tọa xong, nàng ấy bèn dâng loại cơm thượng hạng cúng Phật và chúng Tăng. Khi thọ trai, rửa bát xong, nàng sửa sang lại bàn ghế và đem nước đựng trong một cái bình bằng vàng đến để dâng Phật rửa tay. Sau khi Phật rửa tay xong, nàng đến trước đức Phật thưa:
– Những ngôi nhà, những khu vườn trong thành Tỳ-xá-ly này, chỉ vườn nhà con là tốt đẹp hơn hết, con nay muốn dâng cúng đức Như Lai, cúi xin Ngài hãy xót thương nhận lãnh cho!
Đức Phật bảo:
– Người đem khu vườn này dâng cúng cho Phật là người bậc nhất và hàng chiêu-đề-tăng thì quý hóa vô cùng. Vì sao? Vì đức Như Lai nhờ đây mà có đủ sáu thứ vật dụng cần thiết như vườn, rừng, phòng ốc và y bát; thế nên dù cho các Ma vương, Đế-thích, Phạm thiên hay trời có đại thần lực cũng không ai xứng đáng nhận lãnh sự cúng dường này.
Nàng Am-bà-bà-lê khi ấy vâng lời Phật dạy, dâng cúng khu vườn cho Phật và chiêu-đề-tăng. Lúc đó, Phật vì thương xót nàng ấy mà nhận lãnh khu vườn trên và nói bài kệ:
Xây tháp, dựng tinh xá,
Hiến vườn trái xanh tươi,
Làm cầu, đò đưa người,
Đặt cỏ, nước nơi vắng,
Và bố thí nhà cửa,
Phước ấy tăng ngày đêm,
Còn giữ giới thanh tịnh,
Người ấy sanh cõi lành.
Liền đó nàng Am-bà-bà-lê, lại đặt một chỗ ngồi nhỏ, đối diện với Phật. Phật lần lượt vì nàng thuyết pháp, dạy cho những điều lợi ích, vui mừng về bố thí, trì giới và sự sanh thiên, đồng thời dạy: Ái dục là tai hại lớn, là ô uế, là bất tịnh, là lậu hoặc, là điều chướng ngại, chỉ có giải thoát là trên hết.
Bấy giờ, đức Thế Tôn nhận thấy tâm ý nàng đã thuần thục và vui mừng, năm ấm cái đã dần dần yếu kém, dễ bề khai hóa; do đó, theo thông lệ của chư Phật, Ngài dạy tiếp về khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế. Ngay lúc đó, nàng phát khởi lòng tin thanh tịnh, ví như tấm vải trắng dễ nhuộm màu, tại chỗ ngồi, tâm nàng đã xa lìa hết trần cấu, phát sanh pháp nhãn thanh tịnh, thấy pháp và chứng pháp, quyết định ở trong Chánh đạo, không còn bị đọa vào đường ác, thành tựu được năng lực vô úy. Nàng liền bạch Phật ba lần như sau:
– Từ nay trở đi, con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Cúi mong đức Như Lai hãy chấp nhận cho con làm vị ưu-bà-di trong Chánh pháp của Ngài! Con nguyện trọn đời không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu.
Sau khi thọ năm giới với Phật xong, nàng liền bỏ những tánh nết cũ, dứt hẳn những điều ô uế, đứng dậy lễ Phật ra về.
Khi Phật ngự tại Tỳ-xá-ly, cảm thấy thời gian đã đủ, liền bảo A-nan:
– Ông hãy chuẩn bị sẵn sàng cùng Ta đi đến Trúc Lâm!
– Vâng!
Thế rồi đức Phật sửa sang y bát, cùng đại chúng theo hầu bằng ngả đường nước Bạt-kỳ để đến Trúc Lâm. Tại đấy có một Bà-la-môn tên là Tỳ-sa-đà-la, nghe Phật cùng chúng Tăng từ xa đến Trúc Lâm, bèn nghĩ thầm: “Sa-môn Cù-đàm này, danh đức đã lan truyền khắp nơi, đầy đủ cả mười hiệu, Ngài đã tự chứng ngộ giữa hàng chư Thiên, Đế-thích, Phạm thiên, Ma hoặc Thiên ma, Sa-môn, Bà-la-môn và nói pháp cho họ nghe; tất cả những lời nói, dù cao, dù thấp hay trung bình, đều chân thật, ý nghĩa sâu xa, Phạm hạnh đầy đủ, bậc Chân Nhân ở thế gian, ta nên đến chiêm ngưỡng!"
Lúc đó, có Bà-la-môn ra khỏi Trúc Lâm, rồi tiến gần đến chỗ Phật. Sau khi thưa hỏi xong, ngồi qua một bên. Bấy giờ, đức Thế Tôn lần lượt thuyết pháp dạy cho ông những điều lợi ích vui mừng, thế rồi vị Bà-la-môn nghe rồi hoan hỷ, liền thỉnh Phật và đại chúng sáng mai đến nhà thọ trai. Đức Thế Tôn nhận lời bằng cách im lặng. Khi ấy Bà-la-môn nhận thấy Phật đã im lặng nhận lời, liền đứng dậy đi quanh Phật ba vòng rồi ra về. Trong đêm đó, Bà-la-môn đã sửa soạn xong các thức ăn. Sáng hôm sau đến thưa với Phật:
– Bạch Thế Tôn, lễ vật cúng dường đã chuẩn bị xong, kính tin Ngài rõ!
Bấy giờ, đức Thế Tôn đắp y, mang bát và đại chúng theo sau đi tới nhà Bà-la-môn ấy. Sau khi chư vị an tọa xong, ông ta đem các thức ăn thượng hạng dâng cúng Phật và chúng Tăng. Khi Phật thọ trai và rửa bát xong, Bà-la-môn đặt một chỗ ngồi nhỏ khác hầu trước Phật. Khi ấy, Phật vì ông ta mà dạy bài kệ:
Nếu đem các thức ăn,
Đồ nằm và y phục,
Bố thí người trì giới,
Thời được quả phúc lớn.
Nó là bạn chân thật,
Trước sau thường theo mình,
Đi đâu nó cũng theo,
Như bóng theo với hình.
Vậy nên gieo giống lành,
Làm tư lương đời sau,
Lấy phước làm nền tảng,
Chúng sanh được an lạc.
Có phước trời che chở,
Không bị điều nguy khốn,
Sanh ra không bị nạn,
Chết được sanh cõi trời.
Khi đức Phật vì Bà-la-môn nói pháp nhiệm mầu, chỉ dạy sự lợi ích vui mừng xong, Phật rời tòa ra đi.
Lúc đó tại xứ này gặp phải năm mất mùa, nạn đói kém hoành hành, việc khất thực khó khăn nên Phật bảo A-nan:
– Hãy tập hợp các Tỳ-kheo trong nước lại tại giảng đường!
– Vâng!
A-nan liền vâng lệnh, tập hợp các Tỳ-kheo xa gần về họp đông đủ tại giảng đường. Khi đại chúng đã tập hợp xong, A-nan đến thưa Phật:
– Kính bạch Thế Tôn, đại chúng đã tập hợp đông đủ, kính tin Ngài rõ!
Bấy giờ, Thế Tôn đứng dậy đi đến giảng đường và an tọa tại đấy. Ngài dạy:
– Này các Tỳ-kheo, hiện nay đang đói kém nên việc khất thực khó khăn, vậy các ông hãy chia thành từng đoàn, đi đến nơi quen biết hoặc thành Tỳ-xá-ly, hay nước Vi-kỳ, rồi ở đó an cư thì khỏi thiếu thốn. Chỉ Ta và A-nan thì an cư tại đây. Vì nếu ở đông e thiếu thốn.
Lúc đó, các Tỳ-kheo vâng lời chia nhau đi, còn Phật và A-nan thì ở lại an cư kiết hạ tại đây. Trong cuối kỳ hạ này, Phật phát bệnh, cả thân đau nhức, Ngài tự nghĩ: “Nay Ta phát bệnh, toàn thân đau nhức mà các đệ tử đều không có mặt, nếu như Ta nhập Niết-bàn lúc này thì không tiện. Vậy Ta hãy vận dụng sức chuyên cần để kéo dài mạng sống thêm nữa.”
Lúc đó, đức Thế Tôn liền ra khỏi tịnh thất, đến ngồi chỗ mát mẻ, ngài A-nan trông thấy, liền đi lại hỏi Phật:
– Nay con thấy Thế Tôn dung nhan có phần suy giảm, Thế Tôn có mệnh hệ nào thì khiến tâm con sẽ lo sợ, lúng túng, hoang mang, không biết làm cách nào.
Tuy nhiên, ngài A-nan lại trông thấy Phật còn tươi tỉnh, sức lực còn khỏe mạnh nên tự nghĩ: “Đức Như Lai chưa vội diệt độ, ‘con mắt thế gian’ vẫn còn, Chánh pháp chưa bị mất mát.” Lại nghĩ: “Nhưng tại sao Thế Tôn nay không dạy gì cho chúng đệ tử?”
Phật bảo A-nan:
– Chúng Tăng còn mong cầu điều gì nơi Ta nữa? Nếu người nào tự xưng mình bảo hộ chúng Tăng và chúng Tăng tùy thuộc vào mình thì người đó nên có lời dạy bảo với chúng Tăng; trái lại, đức Như Lai thì không tự xưng mình là người bảo hộ chúng Tăng và chúng Tăng không tùy thuộc vào mình thì cần gì phải dạy bảo đối với chúng Tăng? Này A-nan, bất luận là giáo pháp nào mà Ta đã trình bày xong, Ta không bao giờ tự xưng chỗ thấy của mình không thông suốt. Ta nay già rồi, tuổi đã tám mươi. Ví như chiếc xe cũ, nhờ phương tiện sửa chữa mà đi đến nơi đến chốn. Nay thân Ta cũng thế, nhờ sức phương tiện mà kéo dài mạng sống đến ngày nay. Ta nhờ sự cố gắng mà đè nén được cơn đau. Hơn nữa, khi Ta nhập định Vô tưởng thì không còn nghĩ đến một điều gì nên thân Ta yên ổn, không có đau nhức. Thế nên A-nan! Ngươi hãy tự thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với Chánh pháp, đừng thắp lên với một pháp nào khác, hãy tự nương tựa với chính mình, nương tựa với Chánh pháp, đừng nương tựa với một pháp nào khác.
Thế nào là tự mình thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với Chánh pháp, đừng thắp lên với một pháp nào khác, hãy tự mình nương tựa chính mình, nương tựa Chánh pháp, đừng nương tựa một pháp nào khác? Này A-nan! Ấy là các Tỳ-kheo trước phải lo quán sát trong thân, sau đó quán sát ngoài thân, cuối cùng là quán sát cả trong lẫn ngoài thân, quán sát một cách chuyên cần, không biếng nhác, nhớ mãi không quên để diệt trừ sự tham luyến, lo buồn của thế gian, và tiếp theo sự quán sát trên là quán sát về thọ, về tâm ý, về các pháp cũng như thế.
Này A-nan! Đó là ý nghĩa tự mình thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với Chánh pháp, đừng thắp lên với một pháp nào khác, hãy tự nương tựa chính mình, nương tựa Chánh pháp, đừng nương tựa một pháp nào khác.
Phật bảo A-nan:
– Sau khi Ta diệt độ, người nào có thể tu hành đúng như thế tức là đệ tử chân chánh của Ta, là người học đạo xuất sắc nhất.
Khi ấy, Phật bảo A-nan:
– Hãy đi đến ngôi tháp Già-bà-la!
– Vâng!
Tức thời đức Như Lai đứng dậy đắp y, mang bát đến dưới gốc cây rồi bảo A-nan trải tọa cụ và dạy:
– Ta bị đau lưng nên muốn nghỉ tại đây.
– Vâng!
Sau khi trải tọa cụ cho Phật nghỉ xong, ngài trải thêm một tọa cụ nhỏ ngồi trước hầu Phật. Lúc đó, Phật bảo A-nan:
– Người nào thường xuyên tu tập bốn món thần túc, chuyên chú nhớ mãi không quên thì có thể tùy ý muốn mà sống đến một kiếp, hoặc hơn một kiếp. Này A-nan, đức Như Lai đã nhiều lần tu tập bốn món thần túc, chuyên chú nhớ mãi không quên nên đức Như Lai có thể tùy ý muốn, sống đến một kiếp hoặc hơn một kiếp để diệt trừ sự tối tăm cho đời, đem lại nhiều sự lợi ích, an lạc cho nhân, thiên.
Lúc đó, ngài A-nan làm thinh. Đức Phật nói như thế ba lần mà A-nan vẫn làm thinh. Vì lúc ấy ngài đang bị ma ám ảnh, mê man không hiểu nên Phật ba lần hiện tướng mà A-nan đều không biết để thưa thỉnh. Phật bảo: –
Này A-nan nên biết, nay đã phải thời.
Ngài A-nan vâng ý chỉ Phật đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật rồi lui ra. Ngài đi lui cách Phật không xa, đến ngồi yên lặng suy nghĩ dưới một gốc cây. Chỉ trong chốc lát, Ma Ba-tuần đến bạch Phật:
– Sao Ngài chưa sớm vào Niết-bàn? Nay đã đúng lúc rồi, xin Ngài mau diệt độ!
– Thôi, thôi, Ba-tuần! Ngươi đừng nói nữa, Ta đã tự biết thời. Như Lai giờ đây chưa vội vào Niết-bàn vì Ta cần đợi các Tỳ-kheo tập hợp về đông đủ. Trong số đó, có những đệ tử đã khéo chế ngự được thân tâm, mạnh dạn không khiếp sợ, họ thường sống trong an ổn, không những việc lợi mình đã làm xong mà còn làm thầy dẫn dắt kẻ khác, hiện đang truyền bá Chánh pháp, giảng giải nghĩa lý, nếu họ gặp chủ thuyết ngoại đạo thì có đủ sức đem Chánh pháp, sự tự chứng ngộ và thần biến của mình ra để hàng phục chúng nhưng mà những đệ tử ấy chưa về. Lại có những Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di cũng chưa quy tụ. Vả lại, nay Ta còn muốn truyền bá Phạm hạnh một cách sâu rộng và phổ biến giáo lý giác ngộ cho hàng nhân, thiên đều biết và thấy được thần biến.
Ma Ba-tuần thưa:
– Khi xưa, Phật ở bên bờ sông Ni-liên-thiền thuộc xứ Uất-tỳ-la, và lúc ở dưới gốc cây A-du-ba Ni-câu-luật, khi Ngài mới thành đạo Chánh giác, tôi có đến khuyến thỉnh Ngài nên vào Niết-bàn, nay đã đúng lúc rồi, vậy xin Ngài hãy mau mau diệt độ!
Lúc đó, đức Như Lai trả lời:
– Thôi, thôi, Ba-tuần! Ta đã tự biết thời. Như Lai chưa vội vào Niết-bàn mà cần đợi các đệ tử trở về, cho đến hàng nhân, thiên đều biết và thấy được thần biến thì Ta mới nhập Niết-bàn.
– Bạch Ngài, nay các đệ tử đã nhóm họp, cho đến hàng nhân, thiên đã thấy thần biến, nay đã đúng lúc rồi, sao Ngài không diệt độ?
Thôi, thôi, Ba-tuần! Ta tự biết thời, còn không bao lâu nữa, sau ba tháng này, Ta sẽ ở tại nơi sanh quán của Ta đời trước, giữa cây Song Thọ, trong rừng Sa-la, thuộc xứ Câu-thi-na mà nhập Niết-bàn.
Lúc ấy, Ma Ba-tuần nghĩ rằng Phật không bao giờ nói dối, chắc chắn là Ngài sẽ diệt độ nên vui mừng nhảy nhót, biến mất. Khi Ma Ba-tuần biến mất không bao lâu, Phật ở tại ngôi tháp Già-bà-la nhập định Ý tam-muội mà xả bỏ tuổi thọ. Ngay lúc đó, cõi đất chấn động mạnh, nhân dân cả nước thảy đều kinh sợ, lông tóc dựng ngược. Phật phóng hào quang vĩ đại chiếu sáng khắp nơi, cho đến chúng sanh ở cõi tối tăm cũng nhờ ánh sáng ấy soi đến mà trông thấy lẫn nhau. Bấy giờ, đức Như Lai nói bài kệ:
Trong hai hành hữu, vô,
Ta nay bỏ hữu vi,
Chuyên tâm vào chánh định,
Ví như chim đã nở.
Khi ấy, Tôn giả A-nan kinh hãi đến nỗi lông tóc đều dựng ngược, vội vàng đi đến chỗ Phật ngự, đảnh lễ dưới chân Phật rồi ngồi qua một bên và bạch:
– Kính bạch đức Thế Tôn, lạ thay! Không biết lý do gì mà quả đất chấn động như thế này?
Phật dạy:
– Này A-nan, phàm cõi đất rung động có tám nhân duyên. Tám nhân duyên gì? Vì đất nương trên nước, nước thì nương trong gió, gió thì nương vào hư không mà tồn tại. Nếu trong hư không có gió nổi lên thì nước bị chao động, đó là duyên cớ thứ nhất.
Này A-nan, khi có vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni đắc đạo, hoặc có vị đại thiên thần, tu quán về tánh nước nhiều, quán về tánh đất ít, hoặc họ muốn thử sức thần thông của họ thì họ làm cho quả đất chấn động, đó là duyên cớ thứ hai.
Này A-nan, khi có vị Bồ-tát từ cung trời Đâu-suất bình tĩnh, sáng suốt giáng thần vào thai mẹ thì quả đất chấn động, đó là duyên cớ thứ ba.
Này A-nan, khi có vị Bồ-tát bình tĩnh, sáng suốt, từ hông phải của mẹ mà đản sanh thì làm cho quả đất chấn động, đó là duyên cớ thứ tư.
Này A-nan, khi Bồ-tát vừa thành Vô thượng Chánh giác thì chính lúc đó quả đất chấn động, đó là duyên cớ thứ năm.
Này A-nan, khi Phật mới thành đạo quả, liền chuyển pháp luân đầu tiên, trong khi đó các loài Ma, Thiên ma, Sa-môn, Bà-la-môn, chư thiên và người khác không thể chuyển được thời làm cho quả đất rung động, đó là duyên cớ thứ sáu.
Này A-nan, khi Phật giáo hóa xong, bình tĩnh, sáng suốt mà xả bỏ tuổi thọ thì quả đất chấn động, đó là duyên cớ thứ bảy.
Này A-nan, khi đức Như Lai nhập vào cảnh giới Vô dư Niết-bàn thì quả đất chấn động, đó là duyên cớ thứ tám.
Vì tám lý do trên nên quả đất chấn động. Bấy giờ, đức Thế Tôn dạy:
Đấng Phước Trí Vô Thượng,
Sa-môn soi sáng đời,
A-nan liền hỏi Phật,
Duyên gì đất chấn động?
Như Lai liền giải thích,
Như tiếng chim Ca-lăng,
Ta nói hãy lắng nghe,
Sở dĩ đất chấn động.
Vì đất nương trên gió,
Nước yên nhờ gió lặng,
Nếu hư không nổi gió,
Thì quả đất chấn động.
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni,
Muốn thử sức thần thông,
Núi, biển, trăm cỏ cây,
Đại địa đều chấn động.
Phạm thích hàng chư thiên,
Ý muốn đất chấn động,
Các quỷ thần, núi biển,
Làm quả đất chấn động.
Bồ-tát đủ phúc trí,
Trăm tướng phúc trang nghiêm,
Khi mới vào thai mẹ,
Quả đất liền chấn động.
Đủ mười tháng trong thai,
Như rồng ẩn trong mây,
Đản sanh từ hông phải,
Đại địa liền chấn động.
Phật lúc còn trẻ mạnh,
Diệt hết điều ràng buộc,
Tu chứng quả Bồ-đề,
Thời đại địa chấn động.
Thành Phật, chuyển pháp luân,
Đầu tiên tại Lộc Uyển,
Thắng ma bằng đạo lực,
Thì quả đất chấn động.
Khi thiên ma thỉnh Phật,
Mau mau nhập Niết-bàn,
Phật liền xả tuổi thọ,
Thì quả đất chấn động.
Đạo sư của trời, người,
Vĩnh viễn không tái sanh,
Bất động nhập Niết-bàn,
Thời quả đất chấn động.
Phật nói tám nhân duyên,
Khiến quả đất chấn động,
Duyên này hay duyên khác,
Quả đất đều chấn động.
Phật bảo A-nan:
– Trên đời có tám chúng. Tám chúng là gì? (1) Chúng Sát-đế-lợi; (2) Chúng Bà-la-môn; (3) Chúng Cư sĩ; (4) Chúng Sa-môn; (5) Chúng Tứ Thiên Vương; (6) Chúng Đao-lợi thiên; (7) Chúng Ma; (8) Chúng Phạm thiên.
Ta tự nhớ, xưa kia Ta đã từng qua lại trong chúng Sát-đế-lợi, cùng họ đứng ngồi nói năng không biết bao nhiêu lần, do nhờ sức thiền định, tinh tấn mà nơi Ta hiện đến hễ họ có sắc đẹp thì Ta đẹp hơn họ; họ có tiếng hay thì Ta có tiếng hay hơn họ; họ từ bỏ Ta đi nhưng Ta không từ bỏ họ; điều họ nói được, Ta cũng nói được; điều họ không thể nói được, Ta cũng nói được.
Này A-nan, Ta đã vì họ nói pháp một cách sâu rộng, chỉ bày sự lợi ích vui mừng cho họ xong thì Ta liền ẩn mất mà họ không biết Ta là trời hay là người. Như thế Ta đã từng qua lại trong chúng Phạm thiên không biết bao nhiêu lần để thuyết pháp cho họ một cách sâu rộng nhưng mà họ đều chẳng biết Ta là ai.
A-nan thưa:
– Kính bạch Thế Tôn, thật là kỳ diệu chưa từng có, chỉ có Như Lai mới thành tựu được như thế!
Phật dạy:
– Đó là pháp vi diệu hy hữu, chỉ có đức Như Lai mới thành tựu được pháp ấy. Hơn nữa, vì đức Như Lai có thể biết được tướng sanh, trụ và diệt của thọ; tướng sanh, trụ và diệt của tưởng; tướng sanh, trụ và diệt của quán. Đó là pháp vi diệu chưa từng có của Như Lai, vậy ông hãy thọ trì!
Bấy giờ, đức Phật bảo A-nan cùng đi đến Hương Tháp và tới dưới gốc cây, bèn trải tọa cụ ngồi, đồng thời bảo A-nan:
– Hãy nhóm hết các Tỳ-kheo sống chung quanh Hương Tháp tại giảng đường!
A-nan vâng lời tập hợp hết các Tỳ-kheo lại và thưa:
– Bạch Thế Tôn, đại chúng đã tập hợp đông đủ, kính tin Ngài rõ!
Thế Tôn ngay lúc đó liền đến giảng đường và an tọa tại đấy. Thế rồi Ngài dạy các Tỳ-kheo:
– Các ông hãy biết Ta do những pháp sau đây mà tự chứng ngộ và thành tựu bậc Chánh Giác. Đó là tứ niệm xứ, tứ ý đoạn, tứ thần túc, tứ thiền, ngũ căn, ngũ lực, thất giác ý và bát chánh đạo. Vậy các ông hãy ở trong giáo pháp đó hòa hợp, kính thuận, chớ có tranh tụng, cùng học một thầy như nước với sữa, đồng thời hãy ở trong đó siêng năng tu học, cùng nhau hăng say phát triển và vui vẻ!
Các Tỳ-kheo nên biết Ta từ những pháp trên mà tự tu hành chứng ngộ để rồi hiện nay Ta đem giảng dạy cho các ông, đó là Quán kinh, Kỳ dạ kinh, Thọ ký kinh, Kệ kinh, Pháp cú kinh, Tương ưng kinh, Vị tằng hữu kinh, Chứng dụ kinh, Đại giáo kinh. Vậy các ông hãy khéo thọ trì, so lường phân biệt, tùy theo trường hợp mà tu hành! Tại sao vậy? Vì Như Lai không bao lâu nữa, sau ba tháng này, sẽ nhập Niết-bàn.
Các Tỳ-kheo nghe Phật nói như thế, thảy đều kinh ngạc, sửng sốt hoang mang, gieo mình xuống đất, cất tiếng kêu than: “Tại sao đức Thế Tôn diệt độ mau quá? Tại sao ‘con mắt thế gian’ diệt mất sớm quá? Từ đây chúng con sẽ bị mất mát mãi mãi.” Hoặc có Tỳ-kheo thương cảm buồn khóc, lăn lóc kể than, không thể tự kiềm chế được, cũng như rắn bị chém làm hai khúc, lăn lóc, run rẩy, ngẩn ngơ không biết gì cả.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Các ông hãy dừng cơn bi lụy, chớ ôm lòng buồn tủi, vì từ trời đất cho đến người và vật, không một ai sanh ra mà không chết, nếu các ông muốn cho các pháp hữu vi không biến dịch thì không thể có được! Hơn nữa, trước đây Ta đã dạy: “Ân ái là vô thường, nếu có sum họp thì phải có chia lìa, nhất là thân này không phải của ta, mạng sống không thể tồn tại lâu dài.”
Bấy giờ, đức Thế Tôn nói bài kệ:
Ta nay thật tự tại,
Đến được nơi an ổn,
Vì đại chúng hòa hiệp,
Mà nói rõ nghĩa này.
Ta nay đã già rồi,
Sống không bao lâu nữa,
Việc làm đã xong xuôi,
Nay bèn bỏ tuổi thọ.
Chuyên chú không phóng dật,
Tỳ-kheo giữ đủ giới,
Nhiếp tâm vào chánh định,
Giữ gìn tâm ý mình.
Nếu ở trong pháp Ta,
Người nào không phóng dật,
Sẽ dứt hết gốc khổ,
Thoát hẳn sanh, già, chết.
Phật bảo các Tỳ-kheo:
– Ta nay sở dĩ khuyên dạy như thế là vì Thiên ma Ba-tuần đã đến thỉnh Ta trước đây, nó nói: “Tại sao Phật chưa muốn vào Niết-bàn? Nay đã đúng lúc rồi, vậy xin Ngài mau diệt độ!” Ta nói: “Thôi, thôi, Ba-tuần! Ta đã biết thời, vì cần các Tỳ-kheo tập hợp đông đủ, cho đến hàng chư thiên đều thấy được thần biến.” Ba-tuần nói: “Phật khi xưa ở bên bờ sông Ni-liên-thiền, thuộc nước Uất-tỳ-la, và dưới gốc cây A-du-ba Ni-câu-luật, khi Ngài mới thành đạo. Lúc đó tôi thưa: ‘Tại sao Phật không muốn vào Niết-bàn? Nay đã đúng lúc rồi, vậy xin Ngài mau diệt độ!’ Khi ấy, đức Thế Tôn đáp với tôi: ‘Thôi, thôi, Ba-tuần! Ta tự biết thời, Như Lai nay chưa nhập Niết-bàn vì cần đệ tử của Ta nhóm họp, cho đến hàng nhân, thiên thấy được sự thần biến thì Ta mới diệt độ!’ Bạch Ngài, nay đệ tử của Như Lai đã nhóm họp, cho đến hàng nhân, thiên thấy được sự thần biến, thế thì nay đã đúng lúc, xin Ngài mau mau diệt độ!” Ta nói: “Thôi, thôi, Batuần! Ta tự biết thời, không bao lâu nữa, sau ba tháng này Ta sẽ nhập Niết-bàn.” Khi đó, Ma Ba-tuần liền nghĩ: “Đức Như Lai không bao giờ nói dối, chắc chắn Ngài sẽ diệt độ” nên vui mừng nhảy nhót và bỗng nhiên biến mất!
Khi Ma Ba-tuần biến mất không lâu, Ta đến tháp Già-bà-la vào định Ý tammuội để từ bỏ tuổi thọ, chính lúc ấy quả đất chấn động, trời, người đều sợ hãi, lông tóc đều dựng ngược. Khi ấy Ta phóng tia sáng lớn, chiếu sáng khắp nơi cho đến cõi tối tăm cũng đều nhờ ánh sáng ấy mà họ đều thấy lẫn nhau. Lúc đó, Ta nói bài kệ:
Trong hai hành hữu, vô,
Ta nay bỏ hữu vi,
Chuyên tâm vào chánh định,
Ví như chim đã nở.
Bấy giờ, Tôn giả A-nan đứng dậy vén áo vai hữu, gối chấm đất, chắp tay bạch Phật:
– Cúi mong đức Thế Tôn hãy thương xót chúng sanh, hãy sống thêm một kiếp, chớ nên diệt độ sớm để làm lợi ích cho trời, người!
Khi ấy, đức Thế Tôn im lặng không đáp, ngài A-nan thưa thỉnh ba lần như thế, thời Phật dạy:
– Này A-nan, ông có tin đạo Chánh giác của Như Lai không?
A-nan đáp:
– Vâng, con tin chắc lắm!
Phật dạy tiếp:
– Nếu ông tin, tại sao ông còn ba lần làm phiền Ta? Ta cho rằng ông đã đích thân nghe từ Phật, lãnh thọ từ Phật, là người nào thường tu tập bốn pháp như ý một cách chuyên chú không quên thì có thể tùy theo ý muốn mà kéo dài mạng sống trong một kiếp, hoặc hơn một kiếp. Đức Như Lai là người đã tu tập bốn pháp như ý một cách chuyên chú không quên thì có thể tùy theo ý muốn mà kéo dài tuổi thọ trong một kiếp hay hơn một kiếp để trừ sự tối tăm cho đời, đồng thời đem lại nhiều sự lợi ích an vui cho trời và người, tại sao lúc đó ông không thỉnh đức Như Lai khoan diệt độ, nghe lần thứ hai còn có thể được, qua lần thứ ba, ông cũng không thỉnh cầu đức Như Lai sống thêm một kiếp hoặc hơn một kiếp để trừ diệt sự tối tăm cho đời, đồng thời đem lại nhiều sự lợi ích an vui cho trời, người. Nay ông mới nói há không muộn hay sao? Ta ba lần hiện tướng, ông ba lần làm thinh. Tại sao lúc đó ông không nói cho Ta biết là đức Như Lai có thể sống thêm một kiếp hoặc hơn một kiếp để trừ diệt sự tối tăm cho đời, đồng thời đem lại nhiều sự lợi ích an vui cho trời và người. Vả lại, nay Ta đã xả tuổi thọ, một khi đã bỏ, đã nhổ mà muốn cho đức Như Lai hành động trái với lời nói của mình thì không bao giờ có sự kiện ấy. Ví như một người giàu sang đã nhổ đồ ăn xuống đất, thử hỏi họ có chùi nhặt lên ăn lại được không?
A-nan đáp:
– Không!
– Đức Như Lai cũng thế, một khi đã bỏ, đã nhổ thì đâu có thể nuốt lời nói của mình.
Phật bảo A-nan cùng đi đến thôn Am-bà-la. A-nan cùng đại chúng sửa y, mang bát, theo hầu Thế Tôn bằng ngả đường Bạt-kỳ để đến thôn Am-bà-la, và tới một khu rừng núi, lúc đó Phật dạy cho đại chúng về giới, định, tuệ. Do tu giới mà được định và được phúc lớn; do tu định mà được trí tuệ và được quả báo lớn; do tâm và trí đồng thời tu tập nên được thanh tịnh và được giải thoát hoàn toàn, đồng thời dứt sạch ba lậu: Dục lậu, hữu lậu và vô minh lậu. Một khi đã được giải thoát thì phát sanh trí tuệ giải thoát, sanh tử chấm dứt, Phạm hạnh đã thành lập, những gì cần làm đã làm xong, không còn sự tái sanh.
Khi đức Thế Tôn ngự tại thôn Am-bà-la, nhận thấy cơ duyên hóa độ đã xong, liền bảo A-nan:
– Các ông hãy chuẩn bị sẵn sàng để đến thôn Chiêm-bà, thôn Kiển-trà, thôn Bà-lệ-bà và thành Phụ-di!
A-nan đáp:
– Vâng!
Tức thời, A-nan cùng đại chúng sửa y, mang bát, theo hầu Thế Tôn bằng ngả đường Bạt-kỳ và tuần tự trải qua các thành khác rồi dừng lại ở tại rừng Thixá-bà ở phía Bắc thành Phụ-di.
Lúc ấy, Phật bảo:
– Này các Tỳ-kheo, Ta sẽ dạy các ông bốn Đại giáo pháp, vậy các ông hãy lắng nghe, hãy lắng nghe, hãy suy nghĩ kỹ về vấn đề này!
Các Tỳ-kheo thưa:
– Vâng! Kính bạch Thế Tôn chúng con muốn nghe.
– Bốn Đại giáo pháp là gì? Nếu có Tỳ-kheo nào nói như sau: “Này chư Hiền, tôi ở thôn kia, thành kia, nước kia, đích thân nghe từ Phật, lãnh thọ từ Phật về luật này, giáo này. Những điều tôi đích thân nghe từ Phật như thế chớ nên không tin, chớ nên hủy báng.” Nếu họ nói như thế thì các ông phải y cứ vào các kinh để suy nghiệm điểm hư thực; hãy y cứ theo luật, theo pháp mà nghiên cứu tường tận ngọn nguồn lời nói ấy; nếu nhận thấy không đúng với kinh, với luật, với pháp thì hãy nói với họ: “Đức Phật không dạy điều này, ông đã lãnh thọ sai lầm đấy! Tại vì sao? Vì tôi đã y cứ vào các kinh, luật, pháp mà so nghiệm thì nhận thấy lời ông trình bày không phù hợp với Chánh pháp. Vậy này Hiền sĩ, không nên thọ trì, không nên giảng dạy cho người khác và hãy từ bỏ.” Nếu xét thấy lời nói ấy, đúng với kinh, với luật, với pháp thì hãy nói với họ: “Lời ông vừa trình bày là đúng với lời Phật dạy. Tại sao? Vì tôi căn cứ vào kinh, vào luật, vào pháp mà so nghiệm thì thấy lời nói của ông phù hợp với Chánh pháp. Vậy, hiền sĩ nên thọ trì, hãy giảng rộng cho người khác, cẩn thận chớ có bỏ.” Đó là Đại giáo pháp thứ nhất.
Lại nữa, nếu có Tỳ-kheo nào nói như sau: “Tôi ở tại thôn kia, thành kia, nước kia, ở trong chúng Tăng hòa hợp, toàn là bậc Tỳ-kheo kỳ cựu đa văn, tôi đã đích thân nghe từ họ, đích thân lãnh thọ về pháp này, luật này, giáo này; những điều mà tôi đích thân nghe từ họ, chớ nên không tin, chớ có hủy báng.” Nếu có Tỳ-kheo nào nói như thế thì các ông hãy y cứ vào các kinh mà suy xét điều hư thực, hãy căn cứ vào pháp, vào luật mà nghiên cứu tường tận ngọn nguồn của lời nói ấy; nếu nhận thấy không đúng với kinh, với luật, với pháp thì các ông hãy nói: “Đức Phật không dạy điều này, ông ở trong chúng đó đã nghe và lãnh thọ có sai lầm đấy! Tại sao vậy? Vì tôi đã căn cứ vào các kinh, vào luật, vào pháp mà so nghiệm thì nhận thấy lời ông vừa trình bày trái với Chánh pháp. Vậy, hiền sĩ chớ nên thọ trì, chớ nên giảng cho người khác.” Trái lại, nếu nhận thấy lời nói trên đúng với kinh, với luật, với pháp thì các ông hãy bảo: “Lời ông vừa nói là đúng với lời Phật dạy. Vì sao? Bởi vì tôi đã căn cứ vào kinh, vào luật, vào pháp mà so nghiệm thì nhận thấy lời ông vừa nói phù hợp với Chánh pháp. Vậy, hiền sĩ hãy thọ trì, hãy rộng giảng cho người khác, cẩn thận chớ có bỏ.” Đó là Đại giáo pháp thứ hai.
Lại nữa, nếu có Tỳ-kheo nào đến nói như sau: “Tôi ở thôn kia, thành kia, nước kia, trong một chúng Tỳ-kheo đông đảo, toàn là người trì Pháp, trì Luật, trì Luật nghi. Tôi đã đích thân nghe từ họ, đích thân lãnh thọ pháp, luật, giáo như vậy, điều mà tôi đích thân nghe họ nói, không nên không tin, không nên hủy báng.” Nếu có Tỳ-kheo nào nói như thế thì các ông nên y cứ vào các kinh mà suy xét điều hư thực; hãy căn cứ vào pháp, vào luật mà nghiên cứu tường tận ngọn nguồn của lời nói ấy; nếu nhận thấy lời nói trên không đúng với kinh, với luật, với pháp thì các ông hãy nói: “Đức Phật không dạy điều này, ông ở trong chúng Tỳ-kheo nghe và nhận có sai lầm đấy. Vì sao? Vì tôi đã căn cứ vào kinh, vào luật, vào pháp thì nhận thấy lời ông vừa nói trái với Chánh pháp. Vậy, hiền sĩ chớ thọ trì, chớ giảng cho người nên từ bỏ đi.” Nếu xét thấy lời nói trên dựa theo kinh, dựa theo luật, dựa theo pháp thì các ông hãy nói: “Lời ông vừa trình bày là đúng với lời Phật nói. Vì sao? Vì tôi dựa vào kinh, vào luật, vào pháp, lời ông nói phù hợp với Chánh pháp. Vậy, hiền sĩ hãy thọ trì và hãy rộng giảng cho người khác, cẩn thận chớ có từ bỏ.” Đó là Đại giáo pháp thứ ba.
Lại nữa, nếu có Tỳ-kheo nào nói như sau: “Tôi ở thôn kia, thành kia, nước kia đã đích thân nghe một vị Tỳ-kheo trì Pháp, trì Luật, trì Luật nghi và tôi đã đích thân nghe, đích thân lãnh thọ về pháp này, luật này, giáo này, điều mà tôi đã đích thân nghe là điều chớ nên không tin, cũng chớ nên hủy báng.” Các ông phải y cứ vào các kinh mà suy xét điểm thực hư, hãy căn cứ vào pháp, vào luật mà nghiên cứu tường tận ngọn nguồn của lời nói trên. Nếu nhận thấy lời nói ấy không đúng với kinh, với luật, với pháp thì các ông hãy nói với họ: “Đức Phật không dạy điều này, ông đã nghe nhận nhầm từ một vị Tỳ-kheo đấy. Tại sao? Vì tôi đã căn cứ vào kinh, vào luật, vào pháp thì nhận thấy lời ông trình bày trái với Chánh pháp. Vậy, hiền sĩ hãy từ bỏ, không nên thọ trì, không nên giảng dạy cho người khác.” Trái lại, nếu lời nói đó đúng với kinh, với luật, với pháp thì các ông hãy nói với người kia rằng: “Điều ông nói là đúng với điều Phật dạy. Vì sao? Vì tôi đã y cứ vào kinh, vào luật, vào pháp, lời ông nói là phù hợp với Chánh pháp. Vậy, hiền sĩ hãy chăm thọ trì, hãy rộng giảng cho người khác nghe, chớ có từ bỏ.” Đó là Đại giáo pháp thứ tư.
Bấy giờ, đức Thế Tôn ngự tại thành Phụ-di nhận thấy cơ duyên hóa độ đã xong, liền bảo A-nan: –
Hãy đến thành Ba-bà!
A-nan đáp:
– Vâng!
A-nan bèn sửa sang y bát, cùng đại chúng theo hầu Thế Tôn bằng ngả đường Mạt-la để đến khu vườn Xà-đầu, thuộc thành Ba-bà. Nơi đây có người thợ rèn tên là Châu-na, nghe Phật từ Mạt-la đến thành liền y phục chỉnh tề đi đến chỗ Thế Tôn ngự, cúi đầu đảnh lễ và ngồi xuống một bên. Lúc đó, Phật lần lượt thuyết pháp, dạy cho ông những điều lợi ích vui mừng. Khi nghe xong, ông tín tâm hoan hỷ liền thỉnh Phật sáng mai đến nhà thọ trai. Phật im lặng nhận lời, Châu-na biết Phật im lặng nhận lời liền đứng dậy đảnh lễ ra về.
Nội trong đêm đó, ông lo sửa soạn thức ăn, sáng hôm sau ông đến thưa: “Bạch Thế Tôn, đã đến giờ thọ trai, kính tin Ngài rõ.” Bấy giờ, đức Thế Tôn đắp y, mang bát cùng đại chúng theo hầu đi đến nhà ông Châu-na, và tiến đến chỗ ngồi, Châu-na bày thức ăn cúng Phật và chư Tăng, ông lại nấu riêng một thứ nấm chiên-đàn là thức ăn quý lạ nhất, ít thấy nhất trên đời đem dâng riêng cho Thế Tôn, tức thì Phật bảo: “Châu-na chớ đem thứ nấm này dâng cúng cho chư Tăng.” Châu-na lúc đó vâng lời Phật dạy, không dám hành động. Bấy giờ ở trong chúng có một vị trưởng lão Tỳ-kheo mới xuất gia, trên chỗ ngồi của mình lại bưng uống chén nước nấm còn dư.
Khi Châu-na thấy chúng Tăng thọ trai và rửa bát xong, bèn ở trước Phật dùng bài kệ thưa:
Xin hỏi bậc Đại Thánh,
Chánh Giác đủ phước trí,
Khéo điều phục thân tâm,
Có mấy hạng Sa-môn?
Bấy giờ, đức Thế Tôn cũng dùng bài kệ đáp:
Thể theo ngươi vừa hỏi,
Có bốn hạng Sa-môn,
Chí thường không đồng nhau,
Ngươi hãy nhận thức rõ:
Một, hành đạo thù thắng,
Hai, khéo giảng đạo nghĩa,
Ba, y đạo sinh hoạt,
Bốn, làm ô uế đạo.
Hạng hành đạo thù thắng,
Khéo giảng giải đạo nghĩa,
Y đạo để sinh hoạt,
Nhìn về nơi vô cấu,
Hạng dứt bỏ ân ái,
Quyết chắc vào Niết-bàn,
Vượt hẳn đường nhân, thiên,
Là hành đạo thù thắng.
Khéo giải đệ nhất nghĩa,
Hạng hiểu rõ trung đạo,
Giảng đạo không cấu uế,
Người thường giải điều nghi,
Là hạng khéo giảng đạo.
Khéo trình bày pháp cú,
Y đạo để sinh hoạt,
Vời trông nơi vô cấu,
Là y đạo sinh hoạt.
Trong ôm lòng gian tà,
Ngoài như tuồng trong sạch,
Giả dối không thành thật,
Là hạng làm nhơ đạo.
Thế nào gồm thiện ác,
Tịnh, bất tịnh hỗn hợp?
Giống như bên ngoài tốt,
Ngoài mặt hiện đạo phong,
Ví như đồng mạ vàng.
Người đời thấy thế bảo,
Đệ tử bậc Thánh Trí,
Những vị khác không bằng,
Chớ bỏ lòng tịnh tín.
Người lãnh đạo đại chúng,
Trong nhơ mà ngoài sạch,
Che kín sự gian tà,
Kỳ thực lòng phóng đãng,
Chớ trông dáng bề ngoài,
Mới thấy đã cung kính,
Hiện giấu điều gian tà,
Mà trong lòng phóng đãng.
Bấy giờ, Châu-na đặt một chỗ ngồi nhỏ, hầu trước Phật. Sau đó, đức Phật tuần tự nói pháp, trình bày những điều lợi ích vui mừng. Xong đại chúng đi nhiễu quanh và hầu Ngài về được nửa đường. Phật dừng lại dưới một gốc cây và bảo A-nan:
– Ta đau lưng, ông hãy xếp đặt chỗ ngồi cho Ta!
A-nan đáp:
– Vâng!
Tức thì ông xếp đặt chỗ Thế Tôn ngồi nghỉ. Khi ấy, A-nan lại soạn một chỗ nhỏ ngồi hầu trước Phật. Phật hỏi A-nan:
– Châu-na có ý gì hối hận không? Nếu có thì do đâu sanh?
A-nan đáp:
– Bạch Thế Tôn, ông Châu-na vừa cúng dường Phật như thế không được phúc lợi gì cả. Tại sao? Vì sau khi đức Như Lai thọ trai tại nhà ông ta thì Ngài nhập Niết-bàn.
Phật dạy A-nan:
– Chớ nói như vậy, chớ nói như vậy! Hiện nay, Châu-na được lợi lớn, được sống lâu, được sắc đẹp, được sức khỏe, được tiếng tốt, sống thì được nhiều của báu, thác được sanh cõi trời, cầu chi có nấy. Tại sao vậy? Vì người cúng dường cho Phật lúc mới thành đạo, cũng như người cúng dường cho Phật lúc nhập Niết-bàn, công đức của hai người ấy không hơn không kém. Vậy ông hãy đến nói với Châu-na như sau: “Tôi đã tự thân nghe Phật nói, tự thân thọ lời Phật dạy như sau: ‘Ông Châu-na thiết trai cúng dường Phật mà được lợi lớn, được quả báo lớn.’”
Khi ấy, ngài A-nan vâng lời đến nói với Châu-na như sau:
– Tôi tự thân nghe Phật nói, tự thân thọ lời Phật dạy như sau: “Ông Châuna thiết trai cúng dường Phật nay được lợi lớn, quả báo lớn! Vì sao? Vì người cúng dường Phật khi mới thành đạo và người cúng dường Phật lúc sắp nhập Niết-bàn, cả hai công đức ấy như nhau, không khác."
Thế rồi, ngài đọc bài kệ:
Thọ trai nhà Châu-na,
Tôi nghe Phật dạy rằng,
Bệnh tình Phật rất nặng,
Mạng sống đã sắp tàn.
Tuy ăn nấm chiên-đàn,
Nhưng bệnh vẫn gia tăng,
Mang bệnh mà lên đường,
Dần đến thành Câu-di.
Khi ấy, đức Phật đứng dậy vừa đi tiếp được một đoạn đường ngắn thì Ngài dừng lại dưới một gốc cây và bảo A-nan:
– Ta đau lưng quá, ông hãy xếp chỗ cho Ta nghỉ!
– Vâng!
A-nan liền sửa soạn chỗ cho đức Như Lai nghỉ. Sau đó, A-nan đảnh lễ dưới chân Phật và ngồi xuống một bên.
Bấy giờ, có đệ tử của một vị A-la-hán tên là Phúc Quý, từ thành Câu-thi-nakiệt, nhắm đến thành Ba-bà, khi đi được nửa đường bỗng trông thấy Phật ngồi dưới gốc cây, dung mạo đoan chánh, các căn đều tịch tịnh, tâm ý điều nhu, vắng lặng bậc nhất, ví như rồng lớn, cũng như hồ nước trong, không cáu bẩn; thấy xong, ông liền sanh thiện tâm hoan hỷ, bèn đến chỗ Phật ngự, đầu mặt đảnh lễ dưới chân Phật, rồi ngồi xuống một bên và thưa:
– Kính bạch Thế Tôn, người xuất gia thích sự nhàn tịnh, khi ở chỗ thanh vắng chuyên tu thì thật kỳ lạ! Dù có đoàn xe năm trăm chiếc chạy qua bên họ, họ vẫn không hay biết, thầy tôi có lần im lặng ngồi dưới một gốc cây bên đường giữa hai thành Câu-thi-na-kiệt và Ba-bà, lúc đó có đoàn xe năm trăm chiếc đi qua, tiếng xe chạy ầm ầm, ngài vẫn tỉnh thức nhưng mà không nghe. Khi ấy, có một người đến hỏi thầy tôi: “Nãy giờ, ông có thấy đoàn xe chạy ngang qua đây không?” Đáp: “Không thấy!” Hỏi: “Có nghe không?” Đáp: “Không nghe!” Hỏi: “Ông ở đây hay ở đâu?” Đáp: “Ở đây!” Hỏi: “Ông thức hay ngủ?” Đáp: “Thức!” Người ấy im lặng cho là việc hy hữu. Người xuất gia chuyên tu tinh tấn, nhất tâm đến nỗi xe chạy ầm ầm, tỉnh thức nhưng mà không nghe và nói với thầy tôi: “Vừa rồi có năm trăm cỗ xe chạy qua đường này, tiếng xe chạy chấn động như thế mà cũng không nghe, có đâu lại nghe chuyện khác!” Nói xong, người ấy đảnh lễ thầy tôi với tâm niệm hoan hỷ và đi ra.
Phật bảo Phúc Quý:
– Nay Ta hỏi ông, hãy tùy ý mà đáp: “Đoàn xe chạy ầm ầm chấn động như thế, tỉnh thức mà không nghe; có tiếng sấm sét vang động cả đất trời, tỉnh thức nhưng mà không nghe, trong hai trường hợp đó cái nào khó hơn?”
Phúc Quý bạch Phật rằng:
– Ngàn vạn cỗ xe sao bằng sấm sét? Không nghe tiếng xe chưa hẳn là khó, sấm sét vang động trời đất, tỉnh giác mà không nghe mới là khó.
Phật bảo Phúc Quý:
– Ta có lần ở thảo lư, thuộc thôn A-việt, lúc đó có một vầng mây lạ xuất hiện, tiếp theo là sấm sét vang động, làm chết bốn con bò đực và hai anh em người đi cày, lúc ấy mọi người đều tụ tập lại đông đảo; lúc ấy, Ta ra khỏi thảo lư để đi kinh hành một cách thong thả, đồng thời trong đám đông ấy, có một người đến chỗ Ta cúi đầu đảnh lễ, rồi theo Ta kinh hành; dù biết nhưng Ta vẫn cố hỏi: “Người ta tụ tập làm gì thế?” Người ấy hỏi Ta: “Nãy giờ Ông ở đâu? Thức hay ngủ?” Đáp: “Ở đây và không ngủ!” Người kia tán thán cho là việc hy hữu, chưa từng thấy ai được định tĩnh như Phật. Với tiếng sấm sét vang động cả trời đất như thế mà Ngài vẫn định tĩnh và tỉnh thức mà không nghe.
Thế rồi, Phúc Quý bạch Phật:
– Hồi nãy, có một vầng mây lạ xuất hiện, tiếp theo là sấm sét vang động cả đất trời, giết chết bốn con bò đực và hai anh em người đi cày, đó là lý do mà người ta tụ tập đông đảo như vậy.
Lúc đó, người kia tâm hồn vui vẻ vì được pháp hỷ, lễ Phật đi ra.
Lúc ấy, Phúc Quý có mang theo hai tấm vải màu vàng, trị giá cả trăm ngàn, từ chỗ ngồi đứng dậy, quỳ gối, vòng tay và bạch Phật:
– Nay con xin dâng hai tấm vải quý này lên đức Thế Tôn, cúi xin Ngài xót thương mà nhận lãnh!
Phật bảo Phúc Quý:
– Ông hãy dâng cho Ta một tấm, còn một tấm đem cúng cho A-nan!
Khi ấy, Phúc Quý vâng lời Phật, một tấm dâng cho đức Như Lai, một tấm cho A-nan. Đức Phật vì thương xót ông ta mà nhận lãnh. Lúc đó, Phúc Quý đảnh lễ Phật và ngồi xuống một bên. Bấy giờ, Phật lần lượt thuyết pháp, chỉ bày sự lợi ích vui mừng về bố thí, trì giới và phước báu sanh thiên, đồng thời chỉ rõ ái dục là tai hại lớn, là nhơ nhớp, lậu hoặc là pháp chướng đạo, giải thoát là trên hết. Khi Phật biết tâm ý của Phúc Quý đã vui vẻ, thuần thục, không còn năm ấm cái, dễ bề khai hóa, mới theo thông lệ của chư Phật mà giảng tiếp cho ông về khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế. Khi đó, Phúc Quý liền phát lòng tin thanh tịnh, cũng như tấm vải trắng sạch nên rất dễ nhuộm màu, ngay tại chỗ ngồi ông ta xa lìa trần cấu, phát sanh pháp nhãn về các pháp, thấy pháp và chứng pháp, quyết định ở trong chánh đạo, không còn bị sa vào ác đạo, thành tựu pháp vô úy nên bạch Phật:
– Nay con xin quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, cúi xin đức Như Lai hãy chấp nhận cho con làm ưu-bà-tắc trong Chánh pháp của Ngài! Từ nay trở về sau con trọn đời không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối và không uống rượu, cúi mong Thế Tôn cho con làm ưu-bà-tắc trong Chánh pháp.
Và ông thưa tiếp:
– Khi nào Phật đến giáo hóa tại thành Ba-bà, xin Ngài quá bước đến xóm nhà nghèo của con! Vì sao? Vì con muốn đem hết vật sở hữu trong nhà con như thức ăn, thức uống, giường chõng, y phục, thuốc men để dâng cúng Thế Tôn, một khi đã được Ngài thuận lãnh thì cả nhà con được an vui.
Phật dạy:
– Ông nói đúng!
Bấy giờ, Phật nói pháp cho Phúc Quý nghe, trình bày những điều lợi ích, vui mừng, khi ông nghe xong, liền đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật một cách vui mừng rồi ra đi.
Khi Phúc Quý ra về chưa bao lâu thì ngài A-nan lại đem tấm vải vàng dâng lên đức Như Lai, lúc đó đức Như Lai vì thương xót A-nan nên nhận lãnh, rồi đắp tấm vải ấy lên mình. Bấy giờ, dung mạo của Thế Tôn thì ung dung, uy quang rực rỡ, các căn tịch tịnh, nét mặt vui tươi, ngài A-nan trông thấy tự nghĩ: “Ta được hầu gần Phật hai mươi lăm năm nay, chưa bao giờ thấy nét mặt của Phật tươi sáng như hôm nay.” Ngài liền từ chỗ ngồi đứng dậy, gối hữu chấm đất, chắp tay bạch Phật:
– Con được hầu Phật hai mươi lăm năm nay, chưa bao giờ thấy ánh sáng của Phật màu sắc khác thường như hôm nay, không biết có lý do gì chăng? Con muốn biết ý nghĩa đó?
Phật bảo A-nan:
– Có hai nhân duyên khiến ánh sáng của Như Lai có màu sắc khác hơn lúc bình thường: (1) Khi Phật mới thành đạo Vô thượng Chánh đẳng giác; (2) Khi Phật xả bỏ tuổi thọ, sắp vào Niết-bàn. Này A-nan, vì hai lý do đó nên ánh sáng có màu sắc khác thường.
Bấy giờ, đức Thế Tôn liền nói bài kệ:
Y màu vàng sáng đẹp,
Mềm mại thật mới sạch,
Phúc Quý dâng Thế Tôn,
Như tuyết, hào quang trắng.
Phật bảo A-nan:
– Ta khát, cần uống nước, ông hãy đem nước lại cho Ta!
A-nan thưa:
– Vừa rồi có năm trăm cỗ xe đi qua con sông này, làm cho nước đục chưa lắng trong nên chỉ có thể rửa chân chớ không uống được.
Phật bảo A-nan đem nước lại đây, cho đến ba lần như thế. A-nan thưa:
– Nay chỉ có sông Câu-tôn cách đây không xa, nước vừa trong vừa mát có thể uống được, đồng thời có thể tắm gội được.
Khi ấy, có vị thần ở núi Tuyết, hết lòng tin đạo của Phật, liền lấy bát đựng đầy nước tám công đức, dâng lên Thế Tôn, Phật vì thương xót vị thần ấy mà nhận lãnh và nói bài kệ:
Phật dùng tám thứ tiếng,
Bảo A-nan lấy nước,
Ta khát, muốn uống nước,
Uống xong, đến Câu-thi.
Giọng hòa nhã, dịu dàng,
Lời nói đẹp lòng người,
Hầu hạ hai bên Phật,
Liền bạch đức Thế Tôn:
Có năm trăm cỗ xe,
Đã vượt qua bờ ấy,
Làm nước sông đục ngầu,
Uống e không được khỏe.
Sông Câu-tôn không xa,
Nước mát, rất trong sạch,
Đến đó lấy uống được,
Và có thể tắm gội.
Có vị thần núi Tuyết,
Dâng nước đức Như Lai,
Uống xong thêm khỏe mạnh,
Sư tử bước giữa chúng.
Sông ấy thần long ở,
Trong sạch không vẩn đục,
Tôn nhan như núi Tuyết,
Thong thả đến Câu-tôn.
Bấy giờ, đức Thế Tôn đi đến sông Câu-tôn, uống nước, tắm gội xong, Ngài cùng đại chúng đi tiếp được nửa đường thì Phật dừng lại dưới một gốc cây và bảo Châu-na:
– Ông hãy lấy y Tăng-già-lê, xếp thành bốn lớp và trải cho Ta nằm, Ta đau lưng quá nên muốn tạm nghỉ tại đây!
Châu-na vâng lời Phật trải chỗ ngồi xong, Phật bèn ngồi. Châu-na đảnh lễ xong cũng ngồi xuống một bên và bạch Phật:
– Tôi muốn nhập Niết-bàn! Tôi muốn nhập Niết-bàn!
Phật dạy:
– Nếu thấy là hợp thời!
Tức thì Châu-na bèn ở trước Phật liền nhập Niết-bàn, khi đó Phật nói bài kệ:
Phật đến sông Câu-tôn,
Trong mát không vẩn đục,
Đức Thế Tôn xuống sông,
Tắm xong sang bờ kia.
Thủ lãnh của đại chúng,
Liền bảo ngài Châu-na,
Nay Ta thân đau nhức,
Ông mau trải chỗ nằm.
Châu-na vâng lời Phật,
Trải y thành bốn lớp,
Đức Như Lai tạm nghỉ.
Châu-na ở trước Phật,
Liền thưa đức Thế Tôn,
Tôi muốn nhập Niết-bàn,
Nơi không còn thương ghét,
Nay phải đến chỗ ấy.
Biển công đức vô lượng,
Đức tối thắng bảo rằng,
Việc làm ông đã xong,
Nên biết là hợp thời.
Thấy Phật đã cho phép,
Châu-na càng tinh tấn,
Liền chấm dứt tuổi thọ,
Như đèn hết lửa tắt.
Bấy giờ, ngài A-nan từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật bạch rằng:
– Sau khi Phật diệt độ, phép táng phải như thế nào?
Phật bảo A-nan:
– Ông hãy yên tâm lo đạo nghiệp, việc ấy có hàng cư sĩ sẵn lòng lo liệu!
Ngài A-nan hỏi đôi ba lần:
– Sau khi Phật diệt độ, phép táng phải như thế nào?
Phật dạy:
– Muốn biết phép táng đức Như Lai như thế nào, hãy theo phép táng của Chuyển Luân Thánh Vương!
Ngài A-nan thưa:
– Phép táng Chuyển Luân Thánh Vương như thế nào?
Phật bảo A-nan:
– Phép táng Chuyển Luân Thánh Vương, trước hết là lấy nước thơm tắm gội thi thể rồi dùng vải bông quấn lại, tiếp theo lấy vải trắng quấn thi thể năm trăm lớp và đặt vào trong kim quan đã tẩm dầu, rồi đặt kim quan ấy vào trong một cái quách lớn bằng sắt, sau hết đặt cái quách sắt này vào trong một cái quách lớn bằng gỗ chiên-đàn khác. Khi xong, chất đầy củi thơm lên trên mà trà-tỳ. Trà-tỳ xong, thâu nhặt Xá-lợi, dựng tháp, treo phan, thờ tại ngã tư đường để dân chúng trong nước đi ngang qua trông thấy tháp Chuyển Luân Vương, nhớ lại sự trị vì chân chánh của ngài, hầu được nhiều lợi ích. A-nan! Ông muốn táng Ta thì trước hết lấy nước hương tắm gội thi thể, rồi lấy vải bông mới quấn thân lại, sau đó lấy vải trắng quấn năm trăm lớp và đặt thi thể ấy vào trong một kim quan đã được tẩm dầu, rồi đặt kim quan này vào trong một cái quách bằng sắt, sau cùng đặt cái quách bằng sắt này vào trong một cái quách bằng gỗ hương chiên-đàn. Khi xong, chất đầy củi thơm lên mà trà-tỳ. Trà-tỳ xong, nhặt lấy Xálợi, dựng tháp, treo phan, thờ tại ngã tư đường để những người đi ngang qua trông thấy tháp Phật mà tưởng nhớ đức Như Lai đã dùng Chánh pháp giáo hóa chúng sanh, ngõ hầu sống được phước lợi, thác được sanh thiên. Khi ấy, đức Thế Tôn lại nhân ý nghĩa này mà nói bài kệ:
A-nan liền đứng dậy,
Quỳ xuống bạch Thế Tôn,
Khi Như Lai diệt độ,
Phải tẩm táng thế nào?
A-nan! Hãy yên tâm,
Tư duy về đạo hạnh,
Hàng cư sĩ trong nước,
Sẽ sẵn sàng lo liệu.
A-nan thỉnh ba lần,
Phật dạy táng Chuyển Luân,
Muốn tẩm táng Như Lai,
Vải trong, quan quách ngoài.
Dựng tháp tại ngã tư,
Để lợi ích chúng sanh,
Những ai đã kính lễ,
Đều được phước vô lượng.
Phật bảo A-nan:
– Trong thiên hạ có bốn hạng người đáng được dựng tháp, đốt hương rải hoa, treo phan, kết tụ, trỗi nhạc cúng dường. Bốn hạng ấy là ai? (1) Như Lai; (2) Bích-chi Phật; (3) Thanh văn; (4) Chuyển Luân Vương. Bốn hạng trên đây đáng được dựng tháp, đốt hương, rải hoa, treo phan, trỗi nhạc cúng dường. Bấy giờ, đức Thế Tôn đọc bài kệ:
Tháp thứ nhất là Phật,
Bích-chi Phật, Thanh văn,
Và Chuyển Luân Thánh Vương,
Thống lãnh bốn thiên hạ.
Bốn hạng được cúng dường,
Đức Như Lai trình bày,
Phật, Bích-chi, Thanh văn,
Và tháp Chuyển Luân Vương.
Bấy giờ, Phật bảo A-nan cùng đi đến thành Câu-thi-na giữa cây Song Thọ, thuộc bộ tộc Mạt-la, A-nan đáp: “Vâng!” Tức thì đức Thế Tôn cùng đại chúng theo hầu khởi sự cuộc hành trình. Trên đường đi, có một Phạm chí từ thành Câu-thi-na đến thành Ba-bà, từ xa trông thấy đức Thế Tôn dung mạo đoan chánh, các căn tịch tịnh, thấy xong ông rất hoan hỷ, liền phát thiện tâm, đến trước chỗ Phật, sau khi hỏi xong ngồi xuống một bên và thưa:
– Thôn tôi cách đây không xa, kính mong Cù-đàm hãy đến đó nghỉ đêm, sáng mai thọ trai xong, rồi hãy đến thành Câu-thi-na!
Phật bảo Phạm chí:
– Thôi, thôi, ngươi đã cúng dường Ta rồi đấy!
Khi ấy, ông Phạm chí ân cần thưa thỉnh ba lần mà đức Phật vẫn từ chối và bảo Phạm Chí:
– Ông A-nan ở đằng sau kia, ngươi hãy đến đó trình bày ý nguyện của mình đi!
Tức thì Phạm chí vâng lời Phật đến chỗ A-nan, sau khi hỏi han xong, đứng qua một bên và thưa:
– Thôn tôi ở cách đây không xa, tôi muốn đức Cù-đàm hãy đến đó nghỉ đêm, sáng mai thọ trai xong, rồi sẽ đến thành Câu-thi-na!
A-nan đáp:
– Thôi, thôi, Phạm chí! Ngươi đã cúng dường rồi đó.
Phạm chí khi ấy hết lòng thưa thỉnh ba lần như thế nhưng ngài A-nan đều đáp: “Trời quá nóng bức mà thôn kia lại xa, hơn nữa đức Như Lai quá mệt, không đủ sức để đi đến đó."
Bấy giờ, đức Thế Tôn nhận thấy ý nghĩa này mà nói bài kệ:
Tịnh nhãn trên đường đi,
Mỏi mệt về Song Thọ,
Phạm chí xa thấy Phật,
Mau đến để cúi đầu.
Thôn tôi ở gần đây,
Xin tạm nghỉ một đêm,
Sáng mai xin cúng dường,
Sau đó đến Câu-thi.
Phạm chí! Ta mỏi mệt,
Đường xa không thể đi,
A-nan ở đằng sau,
Hãy đến đó để thưa.
Phạm chí vâng lời Phật,
Liền đến chỗ A-nan,
Xin hãy đến thôn tôi,
Sáng, thọ trai rồi đi.
A-nan đáp: Thôi, thôi,
Trời nóng không đến được,
Ba lần thỉnh không được,
Buồn bã, tâm chẳng vui.
Lạ thay pháp hữu vi,
Biến đổi, không ổn định,
Nay giữa cây Song Thọ,
Diệt ngã, thân vô lậu.
Phật, Bích-chi, Thanh văn,
Tất cả đều hoại diệt,
Vô thường không lựa chọn,
Như lửa đốt núi rừng.
Lúc bấy giờ, Phật vào thành Câu-thi-na, Ngài đến nơi sanh quán đời trước, giữa cây Song Thọ, thuộc bộ tộc Mạt-la và bảo A-nan:
– Ông hãy sửa soạn chỗ cho Ta nằm, giữa cây Song Thọ, đầu quay về hướng Bắc, mặt quay về hướng Nam! Tại sao thế? Vì giáo pháp Ta sẽ được truyền bá và tồn tại lâu dài ở phương Bắc.
A-nan đáp:
– Vâng!
Tức thì A-nan lo sửa soạn chỗ nằm, đầu quay về hướng Bắc. Sau khi sửa soạn xong, đức Thế Tôn nằm nghỉ và tự lấy y Tăng-già-lê xếp thành bốn lớp đắp lên mình, Ngài nằm nghiêng về bên phải, như sư tử chúa, hai chân chồng lên nhau. Lúc đó giữa đám cây Song Thọ, có các quỷ thần hết lòng tin Phật lấy các thứ hoa trái mùa rải khắp mặt đất, khi ấy Phật bảo A-nan:
– Các thần Song Thọ này dùng hoa trái mùa dâng cúng cho Ta như thế chẳng phải là cúng dường Như Lai.
Ngài A-nan thưa:
– Thế nào mới gọi là cúng dường đức Như Lai?
Phật bảo A-nan:
– Người nào biết lãnh thọ và thực hành Chánh pháp thì mới gọi là cúng dường Như Lai.
Khi ấy, Phật nhận thấy ý nghĩa đó mà nói bài kệ:
Phật giữa cây Song Thọ,
Nằm yên, tâm chẳng động,
Thọ thần tâm thanh tịnh,
Lấy hoa rải lên Phật.
A-nan bạch Phật rằng,
Sao mới gọi cúng dường?
Biết lãnh thọ, thực hành,
Hoa giải thoát cúng dường.
Hoa vàng như bánh xe,
Rải Phật chưa phải cúng,
Ấm, giới, nhập, vô ngã,
Là cúng dường bậc nhất.
Lúc ấy, Phạm-ma-na ở trước Phật đang cầm quạt hầu Phật, Phật bảo Phạm-ma-na:
– Ông chớ đứng trước Ta!
Ngài A-nan nghe như thế liền nghĩ thầm: “Ông Phạm-ma-na này thường hầu hạ hai bên Phật, cung cấp điều cần thiết, cung kính đức Như Lai không bao giờ chán nản, hôm nay là ngày cuối cùng, phải để cho ông ta săn sóc, sao lại đuổi đi là ý gì?” Ngay lúc đó, ngài A-nan y phục chỉnh tề, đến trước Phật thưa:
– Ông Phạm-ma-na này thường hầu hạ hai bên Phật, cung cấp điều cần thiết, cung kính đức Như Lai không bao giờ chán nản và luôn luôn thỏa mãn, hôm nay là ngày cuối cùng phải để cho ông ta hầu hạ, sao Như Lai lại đuổi đi là vì lý do gì?
Phật bảo A-nan:
– Chung quanh thành Câu-thi-na này, cách xa mười hai do-tuần là các vị thiên thần ở, chật ních nhà cửa, các vị đại thiên thần ấy đều trách vị Tỳ-kheo này rằng: “Sao lại đứng trước Phật trong giờ phút cuối cùng này. Phật sắp vào Niết-bàn, chúng ta muốn đến chiêm bái một lần nhưng vì vị Tỳ-kheo ấy với oai đức lớn lao, ánh sáng chói rực che lấp tất cả, khiến cho chúng ta không thể đến gần Phật để lễ bái cúng dường.” Này A-nan, vì thế mà Ta bảo ông ấy đi.
A-nan bạch Phật:
– Chẳng hay vị Tỳ-kheo đó xưa kia tích lũy công đức gì, tu hạnh nghiệp gì mà nay có uy đức như thế?
Phật bảo A-nan:
– Về lâu xa trong quá khứ, cách đây chín mươi mốt kiếp, lúc đó có đức Phật ra đời, hiệu là Tỳ-bà-thi, vị Tỳ-kheo ấy đem tâm hoan hỷ, cầm cây đuốc đỏ soi sáng tháp Phật, nhờ đó mà ông ta được ánh sáng uy linh, chiếu sáng cả hai mươi tám tầng trời, ánh sáng của chư thiên không thể sánh kịp.
Bấy giờ, A-nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, vén áo vai phải quỳ xuống chắp tay bạch Phật:
– Xin Phật chớ diệt độ tại vùng đất hoang vu, chật hẹp này! Vì sao? Vì hiện nay có các nước lớn như Chiêm-bà, Tỳ-xá-ly, thành Vương-xá, nước Bạt-kỳ, nước Xá-vệ, nước Ca-duy-la-vệ, thành Ba-la-nại, ở đó dân cư đông đúc, nhiều người hâm mộ Phật pháp, nếu Phật diệt độ tại các địa phương trên, chắc chắn được nhiều người cung kính cúng dường Xá-lợi.
Phật dạy:
– Thôi, thôi, A-nan chớ nghĩ thế, chớ cho đây là vùng hẻo lánh chật hẹp. Tại sao? Vì khi xưa tại quốc độ này có một vị vua tên là Đại Thiện Kiến, thành này lúc đó tên là Câu-xá-bà-đề, đô thành của Đại vương dài bốn trăm tám mươi dặm, rộng hai trăm tám mươi dặm. Bấy giờ, lúa gạo phì nhiêu, dư dả, dân cư đông đúc, thành của nhà vua có bảy lớp với bảy lớp lan can bao quanh, chạm trổ đẹp đẽ, linh báu treo xen kẽ nhau, móng thành sâu ba nhẫn, bề cao mười hai nhẫn, lâu đài trên thành cao mười hai nhẫn, mỗi cây cột to ba nhẫn.
Nếu thành bằng vàng thì cửa bằng bạc, thành bằng lưu ly thì cửa bằng thủy tinh, thành bằng thủy tinh thì cửa bằng lưu ly, quanh thành được trang trí bằng bốn thứ báu, với lan can xen kẽ cũng bằng bốn thứ báu.
Với lầu bằng vàng thì treo linh bằng bạc, với lầu bằng bạc thì treo linh bằng vàng. Có bảy lớp hào báu, trong hào mọc đầy hoa, hoa ưu-bát-la, bát-đầu-ma, câu-vật-đầu, hoa phân-đà-lợi, đáy ao trải toàn là cát vàng, hai bên bờ ao có cây đa-lân, hễ cây bằng vàng thì lá hoa và trái bằng bạc, cây bằng bạc thì lá hoa và trái bằng vàng, cây bằng thủy tinh thì lá hoa và trái bằng lưu ly. Lại nữa, giữa những cây có những ao tắm, nước ao trong trẻo, vừa ngọt vừa lạt, trong sạch không cáu bẩn, dùng gạch bằng bốn thứ báu xây chung quanh mé ao.
Với cây thang bằng vàng thì tam cấp bằng bạc, với cây thang bằng bạc thì tam cấp bằng vàng, với cây thang bằng lưu ly thì tam cấp bằng thủy tinh, với cây thang bằng thủy tinh thì tam cấp bằng lưu ly; lại có lan can bao bọc chung quanh với khoảng cách bằng nhau và liên kết với nhau, bất cứ chỗ nào trong thành ấy đều có cây đa-lân. Với cây bằng vàng thì lá hoa và trái bằng bạc, với cây bằng bạc thì lá hoa và trái bằng vàng, cây bằng thủy tinh thì lá hoa và trái bằng lưu ly, cây bằng lưu ly thì lá hoa và trái bằng thủy tinh. Giữa những cây này có bốn ao báu, gồm có bốn thứ hoa; đường sá bằng phẳng khang trang ngay hàng thẳng lối, gió thổi các thứ hoa rơi lả tả hai bên đường, từ bốn phương gió hiu hiu thổi đến làm dao động các cây báu phát ra âm thanh dịu dàng, giống như nhạc trời. Nhân dân nước ấy, trẻ già trai gái đều đùa giỡn dưới cây đa-lân để giải trí. Hơn nữa, nước ấy có mười loại tiếng, là tiếng tù và, tiếng trống, tiếng vũ, tiếng ca, tiếng thổi, tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng xe, tiếng ăn uống, tiếng cười giỡn.
Bấy giờ, Vua Đại Thiện Kiến có đầy đủ bảy thứ báu và bốn đức, cai trị bốn châu thiên hạ. Bảy thứ báu là gì? (1) Xe vàng báu; (2) Voi trắng báu; (3) Ngựa xanh báu; (4) Thần châu báu; (5) Ngọc nữ báu; (6) Cư sĩ báu; (7) Chủ binh báu.
Thế nào là Vua Đại Thiện Kiến thành tựu về xe vàng báu? Vào ngày rằm trăng tròn, nhà vua tắm gội nước hương, lên ngồi trên bảo điện, có thể nữ bao quanh, tự nhiên có xe báu xuất hiện trước mặt, vành xe có ngàn căm đầy đủ ánh sáng, màu sắc do thợ trời làm, không phải thế gian có. Xe toàn bằng vàng ròng, đường kính bánh xe bằng một trượng tư, khi ấy, Vua Đại Thiện Kiến tự nghĩ: Ta từng nghe các bậc Tôn túc kỳ cựu nói: “Có vị vua thuộc dòng Sát-đế-lợi, có nước rưới đầu, đến ngày rằm trăng tròn, tắm gội nước thơm xong, lên ngồi trên bảo điện, có thể nữ bao quanh, bỗng có xe vàng xuất hiện trước mặt, xe có ngàn căm, ánh sáng, màu sắc đầy đủ, do thợ trời làm, không phải thế gian có. Xe toàn bằng vàng ròng, đường kính bánh xe bằng một trượng tư, do đó gọi là Chuyển Luân Thánh Vương.” Nay ta đã có xe báu hiện đến, há không phải là đây chăng? Vậy ta hãy thử xem xe báu đó như thế nào?
Bấy giờ, Vua Đại Thiện Kiến liền triệu tập bốn binh chủng, đến trước xe vàng, vén áo vai hữu, gối hữu chấm đất, dùng tay mặt vỗ lên xe và nói: “Ngươi hãy theo đúng pháp mà chạy về hướng Đông, không nên trái với thông lệ.” Tức thì xe chạy về hướng Đông. Vua lúc đó đi theo luân bảo, đồng thời có bốn binh chủng theo hộ giá. Hơn nữa, trước mặt xe báu có bốn vị thần dẫn đường, hễ đến chỗ nào xe báu ngừng thì nhà vua cũng dừng xe lại.
Khi ấy, các tiểu quốc vương ở phương Đông thấy nhà vua ngự giá đến, họ bèn đem bát vàng đựng lúa bạc, đem bát bạc đựng lúa vàng đi đến trước nhà vua, cúi đầu tâu:
“Quý hóa thay! Đại vương đã ngự giá đến đây, phương Đông này đất rộng phì nhiêu, dân cư đông đúc và nhiều của báu. Hơn nữa, dân chúng tính tình nhân hậu, hòa nhã, hiếu thuận và trung trực. Vậy xin Đại vương hãy cai trị xứ này, các hạ thần sẽ hầu hạ và cung cấp những điều cần thiết!”
Lúc đó, Vua Đại Thiện Kiến nói:
“Này các khanh, thôi thôi, như thế là các khanh đã cúng dường ta rồi đó! Vậy các khanh hãy lấy Chánh pháp mà trị dân, nhất là không nên thiên lệch, đồng thời hãy làm thế nào cho những điều phi pháp không xảy ra trong nước! Đây gọi là chính sách cai trị của ta.”
Bấy giờ, các tiểu vương bèn phụng mạng và theo hộ giá nhà vua đi kinh lý khắp các tiểu quốc, đến tận bờ biển phương Đông, rồi lần lượt đi về tận phương Nam, phương Tây và phương Bắc. Hễ xe báu của nhà vua đi đến đâu, các vị tiểu quốc vương ở đấy đều hiến dâng lãnh thổ của mình như tiểu vương ở phương Đông đã làm.
Lúc đó, Vua Đại Thiện Kiến theo xe vàng báu đi kinh lý khắp bốn biển, dùng Chánh đạo để giáo hóa và an ủi dân chúng. Sau khi xong, trở về nước và ngự giá tại thành Câu-xá-bà-đề. Khi ấy bảo luân ở giữa hư không, phía trên cửa cung điện. Bấy giờ, Vua Đại Thiện Kiến trong lòng hớn hở và nói: “Xe báu này thật là điềm lành cho ta, ta nay chính là Chuyển Luân Thánh Vương.” Đó là sự thành tựu về xe báu.
Thế nào là sự thành tựu về voi báu? Vào sáng sớm, Vua Đại Thiện Kiến lên ngự trên chánh điện thì bỗng nhiên có voi báu xuất hiện trước mặt, lông toàn màu trắng, bảy chỗ đều bằng phẳng, với sức mạnh có thể bay đi trên đầu, có màu hỗn hợp, có sáu ngà nhọn hoắt, các kẽ răng được trám kín bằng vàng ròng, khi nhà vua trông thấy, ngài tự nghĩ: “Con voi này rất hiền lương, nếu có người khéo huấn luyện nó thì có thể cưỡi được.” Tức thời, nhà vua ra lệnh tập thử, cuối cùng mọi việc đều hoàn hảo.
Bấy giờ, Vua Đại Thiện Kiến muốn đích thân mình thí nghiệm, lập tức ngài leo lên lưng voi, vào sáng sớm cưỡi voi ra khỏi thành, đi khắp cả bốn biển rồi trở về kinh đô mà vẫn kịp giờ ăn sáng. Lúc đó, Vua Đại Thiện Kiến trong lòng hớn hở và nói: “Voi báu trắng này thật là điềm lành cho ta, ta nay chính là Chuyển Luân Thánh Vương.” Đó là sự thành tựu về voi báu.
Thế nào là sự thành tựu về ngựa xanh báu? Vào sáng sớm, Vua Đại Thiện Kiến lên ngồi trên chánh điện thì bỗng nhiên ngựa xanh báu xuất hiện, ngựa màu xanh cam, lông và đuôi màu châu ngọc, đầu và cổ giống như voi, với sức mạnh có thể bay trong hư không, khi nhà vua trông thấy, ngài tự nghĩ: “Con ngựa xanh này rất hiền lương, nếu có người khéo huấn luyện thì có thể cưỡi được.” Lập tức vua ra lệnh tập thử và cuối cùng mọi việc đều hoàn hảo. Bấy giờ, nhà vua muốn đích thân mình cưỡi thử, ngài liền leo lên lưng ngựa, vào sáng sớm, cưỡi ngựa ra khỏi thành, đi khắp cả bốn biển rồi trở lại kinh đô mà vẫn kịp giờ ăn sáng. Khi ấy, Vua Đại Thiện Kiến trong lòng hớn hở và nói: “Ngựa báu xanh này thật là điềm lành cho ta, ta nay chính là Chuyển Luân Thánh Vương.” Đó là sự thành tựu về ngựa báu.
Thế nào là sự thành tựu về thần châu báu? Vào sáng sớm, Vua Đại Thiện Kiến lên ngự trên chánh điện, thời thần châu báu bỗng nhiên xuất hiện trước mặt, màu sắc trong suốt, không có tỳ vết. Khi trông thấy thần châu báu, nhà vua tự nghĩ: “Hạt châu này rất là đẹp, nếu có ánh sáng thì có thể chiếu sáng được trong cung điện.” Lúc đó, nhà vua muốn thí nghiệm hạt châu này, ngài liền triệu tập bốn binh chủng, lấy hạt châu này đặt trên một tràng cao, vào giữa đêm tối, đem cái tràng này ra khỏi thành, ánh sáng của hạt châu chiếu sáng khắp cả quần chúng, giống như ánh sáng mặt trời rọi khắp tất cả dân chúng, ánh sáng xuất hiện ở trong thành, mọi người đều thức dậy làm việc, vì họ tưởng là ban ngày. Bấy giờ, Vua Đại Thiện Kiến trong lòng hớn hở và nói: “Thần châu báu này thật là điềm lành cho ta, ta nay chính là Chuyển Luân Thánh Vương.” Đó là sự thành tựu về thần châu báu.
Thế nào là sự thành tựu về ngọc nữ báu? Vào sáng sớm, Vua Đại Thiện Kiến lên ngự trên chánh điện thì ngọc nữ bỗng nhiên xuất hiện trước mặt, nhan sắc đẹp đẽ, dung mạo đoan trang, không cao, không thấp, không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không cứng, không mềm, về mùa đông thân ấm áp, về mùa hạ thân mát mẻ, toàn thể các lỗ chân lông đều tỏa ra mùi thơm chiên-đàn, miệng thường phát ra mùi thơm sen xanh, nói năng tao nhã, cử chỉ dịu dàng, đi đứng nằm ngồi đều phù hợp tế hạnh. Khi đó, Chuyển Luân Thánh Vương đã trông thấy ngọc nữ nhưng không có tâm niệm đam mê, huống hồ có ý niệm muốn gần gũi. Khi nhà vua trông thấy ngọc nữ, trong lòng ngài hớn hở và nói: “Ngọc nữ báu này thật là điềm lành cho ta, ta nay chính là Chuyển Luân Thánh Vương.” Đó là sự thành tựu về ngọc nữ báu.
Thế nào là sự thành tựu về cư sĩ báu? Vào sáng sớm, Vua Đại Thiện Kiến lên ngự trên chánh điện thì bỗng nhiên cư sĩ báu xuất hiện trước mặt, kho tàng của báu tự nhiên đầy đủ, giàu sang vô lượng, vị cư sĩ này nhờ phúc đức gieo trồng đời trước nên đôi mắt có thể trông thấy suốt những khoáng sản, bảo vật còn tiềm tàng trong lòng đất, hoặc có chủ, hoặc không chủ, tất cả đều thấy biết. Nếu là vật có chủ thì ủng hộ, nếu là vật vô chủ thì lấy về dâng cho nhà vua sử dụng. Khi ấy, vị cư sĩ này đến thưa với nhà vua:
“Tâu Đại vương, Đại vương chớ có bận tâm, tôi sẽ cung ứng thích nghi những điều cần thiết cho Đại vương!”
Giờ đây, đức vua muốn thử cư sĩ báu này, liền ra lệnh chuẩn bị thuyền bè để dạo chơi trên mặt nước.
Nhà vua nói:
“Này cư sĩ, ta nay cần vàng bạc, vậy ngươi hãy mau cấp cho ta đi!”
Cư sĩ đáp:
“Đại vương hãy chờ một chút!"
Khi thuyền đến gần bờ thì nhà vua liền hối thúc:
“Nay ta cần vàng, ước gì mà được ngay bây giờ!”
Lúc đó, cư sĩ báu bị nhà vua hối thúc quá, liền quỳ trên thuyền thò hai tay xuống nước thì của báu dính theo tay lên, ví như sâu bọ bò theo thân cây. Cũng thế, cư sĩ này khi thò đôi tay xuống nước thì của báu theo tay lên, chỉ trong chốc lát đã đầy cả một thuyền. Cư sĩ thưa:
“Tâu Đại vương, ngài cần dùng bao nhiêu của báu? Như vậy đã đủ chưa?”
Vua Đại Thiện Kiến nói:
“Thôi đi, như vậy e đủ rồi, ta không cần nữa đâu. Nãy giờ ta thử ngươi đấy. Thế là ngươi đã cúng dường ta rồi.”
Lúc ấy, cư sĩ nghe vua nói, liền ném bảo vật trở lại trong nước. Bấy giờ, Vua Đại Thiện Kiến trong lòng hớn hở và nói: “Vị cư sĩ này thật là điềm lành cho ta, ta nay chính là Chuyển Luân Thánh Vương.” Đó là sự thành tựu về cư sĩ báu.
Thế nào là sự thành tựu về chủ binh báu? Vào sáng sớm, Vua Đại Thiện Kiến lên ngự trên chánh điện, chủ binh báu bỗng nhiên xuất hiện, mưu trí đầy đủ, thao lược toàn tài, anh dũng hiên ngang, liền đến chỗ vua ngự nói: “Tâu Đại vương, Đại vương chớ có lo âu, hạ thần đủ khả năng dẹp loạn.” Lúc đó, Chuyển Luân Thánh Vương muốn thử chủ binh này, liền triệu tập bốn binh chủng và bảo: “Ngươi hãy sử dụng binh chủng đi! Hãy ra lệnh cho người nào chưa tập hợp thì tập hợp, nếu đã tập hợp thì hãy nghỉ, nếu chưa nghiêm thì nghiêm, nếu đã nghiêm thì giải tán, nếu chưa đi thì hãy đi, đã đi rồi thì đứng lại.”
Khi chủ binh nghe vua bảo xong, liền ra lệnh cho bốn binh chủng: “Những người nào chưa tập hợp thì tập hợp, tập hợp rồi thì nghỉ, nếu chưa nghiêm thì hãy nghiêm, nếu đã nghiêm thì giải tán, nếu chưa đi thì hãy đi, đã đi rồi thì đứng lại.” Khi Vua Đại Thiện Kiến trông thấy chủ binh thì trong lòng hớn hở và nói: “Chủ binh báu này thật là điềm lành cho ta, ta nay chính là Chuyển Luân Thánh Vương.” Đó là vị Chuyển Luân Thánh Vương thành tựu về bảy báu.
Bốn thần túc là gì? (1) Trường thọ không chết yểu, không ai có thể so sánh kịp; (2) Thân thể khỏe mạnh, không bệnh hoạn; (3) Nhan sắc đẹp đẽ, dung mạo đoan chánh, không ai có thể sánh kịp; (4) Đầy dẫy kho tàng của báu, không ai có thể so sánh kịp. Đó là vị Chuyển Luân Thánh Vương thành tựu về bảy báu công đức.
Này A-nan! Khi Vua Đại Thiện Kiến lên ngôi được một thời gian khá lâu, nhà vua ngự uyển ở phía sau cung điện để du ngoạn. Vua liền bảo: “Này, người đánh xe, ngươi hãy đánh xe đi chầm chậm. Tại sao vậy? Vì ta muốn quan sát tường tận cái cảnh thanh bình an lạc của quốc độ và nhân dân.”
Khi đó, những người đứng xem hai bên lề đường trông thấy nhà vua, họ nói với người hầu: “Này, ông hãy đi từ từ để cho chúng tôi chiêm ngưỡng kỹ tôn nhan uy đức của Thánh vương!”
Này A-nan! Bấy giờ, Vua Đại Thiện Kiến yêu thương tất cả mọi người cũng như cha mẹ thương con, ngược lại, dân chúng ngưỡng mộ nhà vua cũng như con kính mến cha. Do đó, dân chúng có bao nhiêu của báu đều đem hiến dâng cho nhà vua và nói:
“Cúi xin Đại vương hãy nhận lãnh các vật cống hiến này để ngài tùy ý sử dụng!”
Nhà vua đáp:
“Thôi đi các người, ta đã có các của báu rồi, các người hãy tùy nghi sử dụng!”
Có một thời gian khác, Vua Đại Thiện Kiến tự nghĩ: “Ta nay muốn lập cung điện” liền có dân chúng xin đến làm thay. Nhà vua bảo: “Ta cho như vậy là đã được, các ngươi đã cúng dường ta rồi. Hơn nữa, nay ta sẵn có của báu, đủ để lo liệu.” Dân chúng lúc đó lại van xin một lần nữa để kiến tạo cung điện. Nhà vua bảo: “Tùy ý các ngươi muốn!” Bấy giờ, quốc dân được lệnh liền đem tám vạn bốn ngàn chiếc xe chở đầy vàng bạc đến thành Câu-xá-bà-đề để tạo lập pháp điện.
Lúc đó, Thiên tử Diệu Tượng, thuộc cõi trời Đao-lợi thứ hai, tự nghĩ thầm: “Chỉ có ta mới có thể tạo lập pháp điện cho Vua Đại Thiện Kiến."
Này A-nan, khi ấy, Thiên tử Diệu Tượng bèn tạo lập pháp điện dài sáu mươi dặm, rộng ba mươi dặm được trang trí bằng bốn thứ báu, nền móng cung điện bằng phẳng, tường xây bằng bảy lớp gạch báu, pháp điện có tám vạn bốn ngàn cây cột. Với cột bằng vàng thì cái đấu kê cột bằng bạc, cây cột bằng bạc thì cái đấu kê cột bằng vàng, cây cột bằng lưu ly thì cái đấu kê cột bằng thủy tinh… Chạy vòng quanh pháp điện có bốn lớp lan can đều do bốn thứ báu tạo thành, đồng thời có bốn con đường tam cấp đều là bốn thứ báu tạo nên. Trên pháp điện có tám vạn bốn ngàn lầu báu, với lầu báu vàng thì các cửa bằng bạc, với lầu bằng bạc thì các cửa bằng vàng, lầu bằng thủy tinh thì các cửa bằng bạc, cửa bằng bạc thì giường bằng vàng, mền chiếu mềm mại, được dệt bằng vàng, những thứ này trải khắp trên tòa; cũng vậy, lầu giường cũng bằng thủy tinh, pha lê, ánh sáng cung điện chói lòa mắt người, cũng như ánh sáng gay gắt của mặt trời, không thể nhìn được.
Khi ấy, Vua Đại Thiện Kiến tự nghĩ: “Ta nay có thể tạo lập vườn, ao đa-lân ở hai bên cung điện này.” Ngài liền kiến lập vườn ao, ngang dọc một do-tuần, lại nghĩ: “Trước pháp điện, ta hãy lập một ao pháp.” Ngài liền lập một ao pháp, ngang dọc một do-tuần. Nước trong ao lắng trong sạch sẽ, không cáu bẩn, dùng gạch bằng bốn thứ báu để xây chung quanh, bốn mé ao đều có lan can chạy vòng quanh, đều do bốn thứ báu như vàng, bạc, thủy tinh, lưu ly hỗn hợp tạo thành, nước trong ao đồng thời sanh các thứ hoa như hoa ưu-bát-la, hoa bátđầu-ma, hoa câu-vật-đầu, hoa phân-đà-lợi phát ra mùi hương vi diệu, phảng phất khắp bốn phương, trên bờ bốn mé ao, đều có hoa a-hê-vật-đa, chiêm-bặc, ba-la-la, tu-mạn-đà, bà-sư-ca, đàn-câu-ma-lê, khiến cho người qua đường và người giữa ao khi tắm gội, vui chơi mát mẻ, tùy theo ý muốn, như cần nước uống thì cho nước uống, cần thức ăn thì cho thức ăn, cần y phục thì cho y phục, cần xe ngựa thì cho xe ngựa, cần hoa hương của báu thì cho hoa hương của báu, không trái với ý muốn của họ
Này A-nan, bấy giờ Vua Đại Thiện Kiến có tám vạn bốn ngàn con voi, dùng vàng bạc để trang sức, và dùng châu báu làm dây dàm thì con tư tượng vương là bậc nhất. Trong số tám vạn bốn ngàn con ngựa được trang sức bằng vàng bạc, dùng châu báu làm dây dàm thì lực mã vương là bậc nhất. Trong số tám vạn bốn ngàn chiếc xe được trang sức bằng bốn thứ báu, và da sư tử làm dây kéo thì xe báu là bậc nhất. Trong số tám vạn bốn ngàn hạt châu thì thần châu là bậc nhất. Trong số tám vạn bốn ngàn ngọc nữ thì ngọc nữ báu là bậc nhất, trong số tám vạn bốn ngàn cư sĩ thì cư sĩ báu là bậc nhất. Trong số tám vạn bốn ngàn Sát-đế-lợi thì chủ binh báu là bậc nhất. Trong số tám vạn bốn ngàn thành trì thì thành trì Câu-xá-bà-đề là bậc nhất. Trong số tám vạn bốn ngàn cung điện thì Chánh Pháp điện là bậc nhất. Trong số tám vạn bốn ngàn ngôi lầu thì Đại Chánh lầu là bậc nhất. Trong số tám vạn bốn ngàn chiếc giường, tất cả đều do vàng bạc và các thứ báu tạo thành, đồng thời có mền, chiếu, nệm mềm mại để trải trên đó là bậc nhất. Trong số tám vạn bốn ngàn ức y phục thì y phục sơ-ma, câu-thi, kiếp-ba là bậc nhất. Hơn nữa, lại có tám vạn bốn ngàn thức ăn cung cấp mỗi ngày, mùi vị khác nhau.
Này A-nan, khi Vua Đại Thiện Kiến cưỡi con tượng vương, trong số tám vạn bốn ngàn con, vào sáng sớm đi ra khỏi thành Câu-thi, kinh lý khắp thiên hạ và bốn biển, chỉ trong khoảnh khắc rồi trở lại kinh đô mà vẫn kịp giờ ăn sáng. Có tám vạn bốn ngàn con ngựa mà ngồi trên lực mã báu, vào sáng sớm ra khỏi thành đi kinh lý khắp thiên hạ và bốn biển chỉ trong khoảnh khắc rồi lại trở về kinh thành mà vẫn kịp bữa ăn sáng. Có tám vạn bốn ngàn xe mà cưỡi xe vàng được ngựa báu kéo vào sáng sớm ra khỏi thành đi kinh lý khắp thiên hạ và bốn biển chỉ trong khoảnh khắc rồi lại trở về thành kịp giờ ăn sáng. Hoặc lúc lấy châu báu trong số tám vạn bốn ngàn hạt châu chiếu sáng trong cung, cả ngày lẫn đêm đều sáng. Trong số tám vạn bốn ngàn ngọc nữ thì có ngọc nữ báu thiện hiền theo hầu hai bên. Trong số tám vạn bốn ngàn cư sĩ thì đều giao cho cư sĩ báu lo liệu mọi điều cần thiết. Với tám vạn bốn ngàn Sát-đế-lợi thì mọi việc dẹp loạn đều giao cho chủ binh báu. Với tám vạn bốn ngàn thành trì thì nhà vua thường đóng đô ở Câu-thi. Với tám vạn bốn ngàn cung điện thì thường ngụ ở Chánh Pháp điện. Với tám vạn bốn ngàn ngôi lầu thì nhà vua thường ở lầu Đại Chánh. Với tám vạn bốn ngàn bảo tòa, nhà vua thường ngồi trên bảo tòa bằng pha lê để tham thiền. Với tám vạn bốn ngàn ức y phục thì dùng loại y phục thượng hạng để trang sức và tùy ý mà mặc, đồng thời vì để biết hổ thẹn. Với tám vạn bốn ngàn thức ăn thì nhà vua thường dùng thức ăn là cơm tự nhiên, vì để biết đủ.
Khi tám vạn bốn ngàn con voi hiện đến trước nhà vua, chúng giẫm đạp xung đột làm cho chúng sanh bị tổn thương không thể kể hết. Khi ấy nhà vua tự nghĩ: “Nếu những con voi này thường xuyên đến đây thì sẽ gây nhiều sự tổn thương, vậy từ nay về sau, cứ một trăm năm sẽ đến một con. Như thế cứ xoay vần tuần tự, hễ đúng một trăm năm thì hiện đến một con và cứ như vậy mà tiếp diễn.
Bấy giờ, đức Phật bảo A-nan:
– Vua Đại Thiện Kiến lúc đó tự nghĩ thầm: “Ta đã chứa công đức gì, tu hành điều lành gì mà nay được quả báo tốt đẹp, cao cả như thế này?” Nhà vua lại nhớ: Nhờ ba nhân duyên mà được phúc báu ấy. Ba nhân duyên gì? (1) Bố thí; (2) Trì giới; (3) Thiền tư. Do ba nhân duyên này mà nay được phúc báu như trên. Nhà vua lại suy nghĩ: “Nay ta đã hưởng phúc báu nhân gian, vậy ta hãy tu về phúc báu cõi trời, hãy tự hạn chế, tránh chỗ ồn ào, đồng thời ở những nơi yên tĩnh để tu luyện.”
Khi ấy, vua liền bảo cho ngọc nữ biết:
“Ta nay đã hưởng phúc báu nhân gian, vậy ta cần phải tu thêm về phúc báu cõi trời, phải tự hạn chế, tránh chỗ ồn ào, đồng thời ở những nơi thanh vắng để tu luyện.”
Ngọc nữ đáp:
“Vâng!”
Lúc đó ngọc nữ vâng lệnh, liền ra lệnh cho những người trong ngoài, từ nay về sau miễn sự hầu hạ. Khi ấy vua lên pháp điện vào lầu vàng mà quán, ngồi trên long sàng bằng bạc tư duy về những ác, bất thiện pháp, tham lam và dâm dục. Có giác có quán, vị ấy ly sanh hỷ lạc chứng được Thiền thứ nhất. Từ bỏ giác quán, trong lòng tin tưởng, vui vẻ, giữ tâm chuyên nhất, không giác không quán, định sanh hỷ lạc, chứng được Thiền thứ hai. Xả hỷ nắm giữ sự chuyên tâm bất loạn, tự biết cái lạc của thân, chỗ cầu của bậc Hiền thánh, giữ niệm lạc hạnh, chứng được Thiền thứ ba. Xả bỏ khổ vui, trước tiên từ bỏ ưu hỷ, không khổ không vui, giữ niệm thanh tịnh, chứng được Thiền thứ tư.
Lúc đó, Vua Đại Thiện Kiến từ long sàng bằng bạc, đứng dậy, ra khỏi sự quán niệm ở lầu bằng vàng để đến lại lầu Đại Chánh và ngồi trên giường lưu ly mà tu tập về từ tâm. Đầy khắp một phương và các phương khác cũng vậy, mở rộng khắp nơi vô lượng, không hại, trừ các sân hận, tâm không ganh ghét, không ác cảm, điềm tĩnh, từ ái, nhu hòa để tự vui; sự xả tâm buồn vui cũng lại như thế.
Bấy giờ, ngọc nữ báu thầm nghĩ: “Đã lâu ta không diện kiến đức vua, vậy nay ta hãy ra mắt ngài một lần.” Ngọc nữ Thiện Hiền ra lệnh cho tám vạn bốn ngàn thể nữ: “Các ngươi hãy tắm gội sạch sẽ, xoa dầu thơm, trang sức y phục. Vì sao? Vì đã lâu ta không diện kiến đức vua, vậy chúng ta nay phải ra mắt ngài một lần.” Cung nữ nghe xong, tất cả đều trang sức y phục, tắm gội sạch sẽ. Ngọc nữ lại bảo chủ binh báu hãy triệu tập bốn binh chủng và nói: “Từ lâu ta không yết kiến đức vua, vậy nay chúng ta phải ra mắt ngài một lần.” Lúc đó, thần chủ binh liền triệu tập bốn binh chủng và thưa với ngọc nữ rằng: “Binh chủng đã tập hợp xong, nay đã đến lúc.” Khi ấy, ngọc nữ hướng dẫn tám vạn bốn ngàn thể nữ và có bốn binh chủng hộ giá, đi đến vườn đa-lân bằng vàng, đoàn người làm ồn ào, gây tiếng động đến tai nhà vua, sau khi nghe xong, ngài liền đến cửa sổ nhìn xem thì ngọc nữ liền tiến lên đứng bên cửa sổ. Lúc đó, nhà vua trông thấy ngọc nữ liền bảo: “Ngươi hãy đứng đó đừng tiến lên, vì ta sắp ra.” Bấy giờ, Vua Đại Thiện Kiến rời khỏi chỗ ngồi bằng pha lê, ra khỏi lầu Đại Chánh, bước xuống điện Chánh Pháp và cùng với ngọc nữ đi đến vườn đa-lân, tiến lên chỗ ngồi và an tọa tại đấy.
Lúc đó, Vua Đại Thiện Kiến sắc mặt tươi đẹp khác hơn lúc bình thường. Tức thì ngọc nữ Thiện Hiền tự nghĩ thầm: “Nay Đại vương nhan sắc tươi đẹp khác hơn lúc bình thường là điềm gì đây?”
Khi ấy ngọc nữ bèn thưa::
“Tâu Đại vương, nay nhan sắc ngài khác thường, chắc không phải là điềm gì khác hơn là muốn xả bỏ tuổi thọ chăng? Vậy nay đây, tám vạn bốn ngàn con voi quý, con voi trắng là quý nhất, được trang sức bằng vàng bạc, lục lạc bằng ngọc quý là của chính ngài đấy, xin ngài chút lưu ý để cùng nhau vui thú, chớ vội qua đời mà bỏ vạn dân phải cô quạnh. Lại nữa, trong số tám vạn bốn ngàn cỗ xe, xe báu là số một. Trong số tám vạn bốn ngàn châu báu, thần báu là số một. Trong số tám vạn bốn ngàn ngọc nữ, ngọc nữ báu là số một. Trong số tám vạn bốn ngàn cư sĩ, cư sĩ báu là số một. Trong số tám vạn bốn ngàn Sát-đế-lợi, chủ binh báu là số một. Trong số tám vạn bốn ngàn thành, thành Câu-thi là số một. Trong số tám vạn bốn ngàn cung điện, cung điện Chánh Pháp là số một. Trong số tám vạn bốn ngàn lâu đài, lâu đài Đại Chánh là số một. Trong số tám vạn bốn ngàn chỗ ngồi, chỗ ngồi trang trí bằng của báu là số một. Trong số tám vạn bốn ngàn ức y phục, loại y phục mềm mại là số một. Trong số tám vạn bốn ngàn thức ăn, mỗi vị đều khác lạ. Tất cả những thứ báu ấy đều là của Đại vương đấy, xin ngài chút lưu ý để cùng hưởng vui thú, chớ vội qua đời mà bỏ muôn dân phải cô quạnh!”
Khi đó, Vua Đại Thiện Kiến trả lời ngọc nữ rằng:
“Từ trước đến nay, ngươi đã cung phụng ta một cách từ ái, nhu hòa, kính thuận, chưa bao giờ có những lời nói sơ suất, sao nay ngươi lại có những lời nói ấy?"
Ngọc nữ tâu:
“Chẳng hay lời nói ấy có gì không thuận chăng?”
Vua nói:
“Lời ngươi vừa nói, các thứ voi, ngựa, xe báu, cung điện, đền đài, y phục thượng hạng, thức ăn quý báu kia đều là vô thường, không thể giữ gìn lâu được mà khuyên ta phải lưu giữ, như thế há là thuận sao?”
Ngọc nữ tâu:
“Chẳng hay phải nói thế nào mới thuận?"
Vua bảo:
“Nếu như ngươi nói: ‘Voi, ngựa, xe báu, cung điện, đền đài, y phục thượng hạng, thức ăn quý báu, các thứ này đều là vô thường, không thể giữ gìn lâu được, xin ngài không nên lưu luyến làm chi cho nhọc tâm tổn sức! Tại sao? Vì mạng sống Đại vương không bao lâu nữa sẽ chấm dứt để qua đời khác. Trên đời này hễ có sanh thì có tử, có hợp thì có tan, đâu phải sống đời ở đây được! Vậy ngài hãy cắt đứt ân ái mà giữ ý đạo.’ Đây chính là lời nói kính thuận.”
Này A-nan! Khi ngọc nữ nghe nhà vua dạy xong, khóc lóc, buồn rầu, ngậm ngùi nhắc lại lời vua: “Như voi, ngựa, xe báu, cung điện, đền đài, y phục thượng hạng, thức ăn quý báu, các thứ này đều là vô thường, không thể giữ gìn lâu được, xin ngài không nên lưu luyến làm chi cho nhọc tâm tổn sức! Tại sao? Vì mạng sống Đại vương không bao lâu nữa sẽ chấm dứt để qua đời khác. Trên đời này hễ có sanh thì có tử, có hợp thì có tan, đâu phải sống đời ở đây được! Vậy ngài hãy cắt đứt ân ái mà giữ ý đạo.”
Này A-nan! Trong khi ngọc nữ nói lời vỗ về ấy, thời Vua Đại Thiện Kiến bỗng nhiên băng hà. Cũng như vị tráng sĩ, trong một bữa ăn ngon không có khổ não sau đó mạng chung. Sự băng hà của nhà vua cũng nhanh chóng, nhẹ nhàng và đơn giản như thế. Sau khi Vua Đại Thiện Kiến băng hà bảy ngày thì các thứ xe báu, ngọc báu tự nhiên biến mất; voi báu, ngựa báu, ngọc nữ báu, cư sĩ báu, chủ binh báu cùng chết trong ngày; thành trì pháp điện, lầu quán, đồ trang sức báu, vườn kim đa-lân đều biến thành cây đất.
Phật bảo A-nan:
– Các pháp hữu vi này đều vô thường biến dịch, chung cuộc trở về với sự tự diệt, những kẻ phàm phu cứ tham muốn mãi mãi không biết nhàm chán, làm cho tiêu tan nhân mạng, say mê ân ái, không hề biết đủ, chỉ có người nào được Thánh trí, thấy rõ đạo lý thì mới biết đủ.
Này A-nan! Ta tự nhớ đã từng sáu lần làm Chuyển Luân Thánh Vương và bỏ xác tại đây, nay Ta thành Vô thượng Chánh giác lại cũng muốn bỏ xác tại đây. Từ nay về sau Ta đã dứt hẳn sanh tử, không còn nơi nào là chỗ bỏ xác Ta nữa, đây là lần cuối cùng, không còn có thân sau.
Bấy giờ, đức Thế Tôn ngự tại thành Câu-thi-na-kiệt, nơi sanh quán đời trước, ở trong vườn Sa-la, giữa hai cây Song Thọ, sắp sửa nhập Niết-bàn. Ngài bảo A-nan hãy vào thành Câu-thi-na-kiệt báo tin cho dân chúng thuộc dòng Mạt-la hay rằng: “Này chư Hiền cần biết, đức Như Lai định nửa đêm nay sẽ vào Niết-bàn, tại giữa cây Song Thọ, trong rừng Sa-la. Các người nên kịp thời đến thưa thỉnh những điều còn nghi ngờ và trực tiếp nghe Phật chỉ dạy để sau khỏi ăn năn.” Lúc đó, A-nan vâng lời Phật dạy, liền đứng dậy khóc lóc đảnh lễ dưới chân Phật và dắt theo một Tỳ-kheo khác ra đi.
Khi vào thành Câu-thi-na-kiệt, gặp năm trăm người Mạt-la, nhân có chút việc tập hợp lại một chỗ, lúc đó họ thấy A-nan đến liền đứng lên làm lễ và đứng sang một bên mà thưa:
– Chẳng hay Tôn giả có việc chi mà phải vào thành lúc trời tối thế này?
A-nan rơi lệ nói:
– Ta vì lợi ích cho các người mà đến báo tin cho các người hay là đức Như Lai vào lúc giữa đêm nay, Ngài sẽ vào Niết-bàn, các ngươi nên kịp thời đến đó để thưa hỏi những điều hoài nghi và trực tiếp nghe Phật chỉ dạy để sau khỏi ăn năn.
Khi nghe xong, các người Mạt-la cất tiếng kêu than, vật vã xuống đất, có người ngất đi, tỉnh lại đôi lần, ví như cây lớn tróc gốc thì các nhánh nhóc đều gãy đổ. Họ đồng than: “Tại sao Phật diệt độ quá sớm? Tại sao Phật diệt độ quá sớm? ‘Con mắt của chúng sanh’ đã diệt mất thì chúng sanh sẽ bị sanh tử lâu dài!” Lúc đó, A-nan an ủi họ: “Các ngươi chớ buồn! Trời đất, muôn vật hễ có sanh tất có diệt, muốn cho các pháp hữu vi được tồn tại mãi mãi là điều không thể có được. Phật há chẳng dạy: ‘Có hợp ắt có tan có sanh ắt có diệt’ ấy sao?”
Khi ấy, các người Mạt-la đều bảo nhau về nhà, đem cả quyến thuộc và năm trăm khổ vải trắng cùng đi đến rừng Sa-la Song Thọ. Họ đi về nhà xong, đem cả quyến thuộc và năm trăm tấm vải trắng đi ra khỏi thành Câu-thi-na-kiệt, đến giữa rừng Sa-la, dưới gốc cây Song Thọ và tới chỗ A-nan. A-nan xa thấy bóng họ, thầm nghĩ: “Họ quá đông, nếu để vào từng người một thì không nghe được đầy đủ, hơn nữa đức Như Lai sắp diệt độ rồi, ta nên bảo họ hôm nay đồng một lượt đến yết kiến Phật.”
Sau đó, A-nan liền dắt năm trăm Mạt-la và quyến thuộc đồng đến trước Phật đảnh lễ, đứng qua một bên và bạch:
– Nay có các Mạt-la và quyến thuộc xin hỏi đức Thế Tôn nằm ngồi có tăng giảm gì không?
Phật đáp:
– Đã làm phiền các người đến thăm Ta, Ta chúc các ngươi sống lâu, không có bệnh hoạn.
Này A-nan! Hãy dẫn năm trăm Mạt-la và quyến thuộc đến trước Thế Tôn!
Họ cúi đầu đảnh lễ và ngồi xuống một bên. Khi ấy, đức Thế Tôn vì họ mà dạy lý vô thường, và chỉ cho những điều lợi ích vui mừng. Khi nghe pháp xong, các Mạt-la liền đem năm trăm khổ vải trắng dâng lên cúng Phật, Phật vì thương họ mà nhận lãnh. Các Mạt-la đứng dậy, đảnh lễ và lui ra.
Lúc đó, trong thành Câu-thi-na-kiệt có một Phạm chí tên là Tu-bạt, là bậc kỳ cựu, trí thức đã một trăm hai mươi tuổi, nhân nghe Sa-môn Cù-đàm đêm nay sẽ diệt độ tại giữa cây Song Thọ. Ông tự nghĩ: “Ta đối với giáo pháp còn những điều nghi, chỉ có đức Như Lai mới thấu rõ ý ta. Ta nên kịp thời cố gắng đến Phật.” Ngay trong đêm đó, ông cố gắng ra khỏi thành Câu-thi-na-kiệt, hướng về phía cây Song Thọ, đến chỗ Tôn giả A-nan, sau khi chào hỏi xong và thưa:
– Tôi hay tin Sa-môn Cù-đàm nội trong đêm nay sẽ nhập Niết-bàn, cho nên tôi đến đây xin bái yết Ngài một lần chót. Hơn nữa, tôi có vài điều nghi ngờ mong được đức Cù-đàm giải quyết cho. Ngài có khỏe không, tôi vào bái yết được không?
A-nan đáp:
– Thôi, thôi, đừng, Tu-bạt! Phật đang bệnh, không chịu nhọc nổi đâu.
Tu-bạt cố nài đến ba lần và nói: “Tôi nghe đức Như Lai ra đời, cũng như hoa Ưu-đàm rất lâu mới xuất hiện nên đến đây xin được bái yết, và giải quyết những điều hoài nghi của tôi.” Ba lần Tu-bạt thưa, ba lần A-nan từ chối và nói: “Phật đang bệnh không chịu nhọc nổi đâu.”
Lúc đó, Phật nghe được và bảo A-nan:
– Ông không nên ngăn chặn, hãy để cho ông ấy vào, vì ông ấy muốn giải quyết điều nghi ngờ thì không có gì phiền phức cả. Vả lại, ông ấy nghe pháp Ta thì chắc chắn sẽ được giải thoát!
A-nan liền bảo Tu-bạt cứ vào tùy ý. Tu-bạt liền vào, chào hỏi Phật xong, ngồi xuống một phía và thưa:
– Tôi có điều nghi về giáo pháp, liệu Ngài có khỏe để giải quyết cho những điều nghi một lần chăng?
Phật đáp:
– Tùy ý ngươi cứ hỏi!
Tu-bạt hỏi:
– Thưa Cù-đàm, tại sao có những giáo pháp khác tự xưng là bậc thầy, như các ông Phật-lan-na Ca-diếp, Mạt-gia-lê Kiều-xá-lê, A-phù-đà Sí-xá-kim-bà-la, Ba-phù Ca-chiên, Tát-nhã Tỳ-da-la-phất, Ni-kiền-tử… Những vị này đều có giáo pháp riêng, đức Sa-môn Cù-đàm có biết hết hay không biết hết?
Phật đáp:
– Thôi, thôi, khỏi nói! Những giáo lý ấy Ta đều hiểu cả, nay Ta sẽ vì ngươi mà nói đến pháp thâm diệu, ngươi hãy lắng nghe, lắng nghe, hãy suy nghĩ kỹ về pháp này!
Tu-bạt thưa:
– Vâng!
Phật dạy:
– Nếu trong giáo pháp nào không có pháp bát Thánh đạo thì không có quả Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba và thứ tư. Này Tu-bạt, vì trong giáo pháp có bát Thánh đạo nên có bốn quả Sa-môn thứ nhất, thứ nhì, thứ ba và thứ tư. Này Tu-bạt, nay trong giáo pháp Ta có bát Thánh đạo, có Sa-môn quả thứ nhất, thứ nhì, thứ ba và thứ tư. Trái lại, trong giáo pháp của ngoại đạo không có quả vị Sa-môn.
Bấy giờ, đức Phật vì Tu-bạt mà dạy bài kệ:
Ta, hai mươi chín tuổi,
Xuất gia tầm chánh đạo,
Từ khi Ta thành Phật,
Nay đã năm mươi năm.
Tu hành giới, định, tuệ,
Độc cư, Ta suy nghĩ,
Nay Ta giảng pháp yếu,
Ngoại đạo không Sa-môn.
Phật bảo:
– Này Tu-bạt, nếu các Tỳ-kheo lo kiềm hãm tâm lại để tu hành thì cõi thế gian này, quả vị A-la-hán không bao giờ mất hẳn.
Lúc đó, Tu-bạt thưa với A-nan:
– Những người đã, đang và sẽ hành Phạm hạnh theo đức Sa-môn Cù-đàm thì có ích lợi.
A-nan đáp:
– Thưa Tôn giả, Tôn giả muốn tu hành Phạm hạnh theo đức Như Lai cũng được lợi ích lớn.
Tu-bạt nói:
– Tôi vừa được diện kiến đức Như Lai để hỏi các điều nghi ngờ, cũng được lợi ích lắm chứ, đức Như Lai vừa dùng lối thọ ký cho đệ tử mà thọ ký cho tôi.
Tu-bạt lại bạch Phật:
– Tôi nay có được phép ở trong giáo pháp của Như Lai mà xuất gia thọ giới Cụ túc hay không?
Phật đáp:
– Này Tu-bạt! Nếu có người Phạm chí tu học theo pháp khác, nay muốn dự vào pháp của Ta để tu hành thì phải trải qua bốn tháng thử thách, hầu xét xem coi hành vi họ, chí nguyện họ, tánh nết họ; nếu thấy đủ tư cách không gì thiếu sót thì mới cho phép họ ở trong giáo pháp Ta thọ giới Cụ túc. Này Tu-bạt nên biết, tuy vậy, còn tùy theo hành vi của mỗi người.
Tu-bạt thưa:
– Nếu như thế thì hàng ngoại đạo học theo giáo lý khác, phải ở trong giáo pháp của Ngài tập sự thử trải qua bốn tháng để xét xem hành động họ, chí nguyện họ, tư cách họ như thế nào; nếu thấy đủ tư cách, không thiếu oai nghi, không có gì thiếu sót thì mới được thọ Cụ túc. Nay tôi có thể ở trong Chánh pháp của Phật phục dịch bốn năm, một khi đã đầy đủ các oai nghi, không còn sơ suất và thiếu sót, xin được thọ giới Cụ túc!
Phật bảo:
– Này Tu-bạt, như trước Ta đã nói là còn tùy theo hành vi của mỗi người. Ngay trong đêm đó, ông Tu-bạt được xuất gia thọ giới, thanh tịnh tu hành, tự mình chứng ngộ ngay trong hiện tại, sanh tử đã hết, Phạm hạnh đã thành, việc làm đã xong, được trí tuệ như thật, không còn tái sanh. Khi gần nửa đêm, ông chứng quả A-la-hán và diệt độ trước Phật. Ông là đệ tử cuối cùng của Phật.
Khi ấy, A-nan đứng hầu sau Phật, không tự ngăn nổi cơn bi lụy, vỗ giường mà khóc. Ngậm ngùi than rằng: “Đức Thế Tôn tại sao diệt độ sớm quá! Đức Thế Tôn diệt độ sớm quá! Đại pháp chìm đắm quá sớm! Nếu ‘con mắt của thế gian’ mà diệt mất thì chúng sanh sẽ bị đọa lạc lâu dài. Vì sao? Vì ta nhờ Phật xuất gia, nay mới chỉ lên được bậc Hữu học, đạo nghiệp chưa thành mà đức Như Lai đã diệt độ!” Khi đó, dù đức Thế Tôn đã biết nhưng mà vẫn cố hỏi: “Tỳ-kheo A-nan đâu rồi?” Các Tỳ-kheo thưa:
– Bạch đức Như Lai, Tỳ-kheo A-nan đang buồn khóc sau lưng Ngài, không thể ngăn được, còn xúc động mạnh, và ngậm ngùi nói: “Đức Thế Tôn tại sao diệt độ mau quá, đại pháp chìm đắm lẹ quá, nếu ‘con mắt thế gian’ diệt mất thì chúng sanh mãi mãi bị đọa lạc. Vì sao thế? Vì ta nhờ ơn Phật xuất gia, nay mới chỉ lên được hữu học, đạo nghiệp chưa thành mà Phật đã diệt độ trước!”
Phật dạy A-nan:
– Thôi đi! Chớ có buồn phiền than khóc, từ trước đến nay ngươi hầu hạ Ta, với cử chỉ hiền hòa, khiêm tốn, lời nói lễ độ đúng pháp, thân, khẩu, ý đều đúng pháp vô lượng không hai. A-nan, ấy là ông đã cúng dường Ta, công đức ông rất lớn, nếu có sự cúng dường nào của chư Thiên, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-lamôn cũng không sao sánh được! Ông hãy cố gắng lên, ngày thành đạo không còn bao lâu nữa!
Bấy giờ, đức Thế Tôn nói:
– Này các Tỳ-kheo, đệ tử hầu hạ chư Phật quá khứ cũng như A-nan, đệ tử hầu hạ chư Phật vị lai cũng chỉ như A-nan. Nhưng, đệ tử hầu hạ chư Phật quá khứ, Phật có dạy mới biết; trái lại, A-nan thì khi Phật vừa đưa mắt thì đã biết Phật muốn gì. Đó là điểm đặc biệt chưa từng có của A-nan, các ông phải ghi nhớ.
Hơn nữa, Chuyển Luân Thánh Vương có bốn điều kỳ lạ ít có. Bốn điều gì? Khi Thánh vương đi đứng, khi Thánh vương ngồi, nằm thì cả quốc dân, cận vệ đều đến nghinh đón; họ thấy nhà vua thì trong lòng vui mừng; được nghe nhà vua dạy thì vui mừng; họ chiêm ngưỡng tôn nhan nhà vua không biết chán. Vua Chuyển Luân khi đi đứng, ngồi và nằm, trong nước thần dân hết thảy đều đến chỗ vua, thấy vua vui mừng; nghe vua dạy cũng vui mừng; chiêm ngưỡng uy nhan của vua không chán. Đó là bốn điều kỳ lạ ít có của Chuyển Luân Thánh Vương. Còn đối với A-nan, nay đây cũng có bốn điều kỳ đặc. Bốn điều gì?
Khi A-nan im lặng đi vào chúng Tỳ-kheo, chúng Tỳ-kheo trông thấy đều hoan hỷ; thuyết pháp cho chúng Tỳ-kheo nghe, họ nghe đều hoan hỷ; ngắm nhìn nghi dung, đều hoan hỷ; nghe thuyết pháp không nhàm chán. Khi A-nan đi vào chúng Tỳ-kheo-ni, chúng ưu-bà-tắc, vào chúng ưu-bà-di, hễ nơi nào được trông thấy A-nan cũng đều hoan hỷ; được nghe A-nan thuyết pháp cũng hoan hỷ; họ trông thấy nghi dung, đều hoan hỷ; và nghe lời thuyết pháp không nhàm chán. Đó là bốn điều kỳ đặc chưa từng có của A-nan.
Bấy giờ A-nan, vén áo lộ vai phải, gối phải chấm đất bạch Phật rằng:
– Thưa Thế Tôn, hôm nay các Sa-môn khắp nơi, gồm có những vị kỳ cựu, đa văn, thông hiểu kinh luật, đức hạnh thanh cao, thường đến bái yết Phật, nhân đó con được lễ kính, hỏi han, gần gũi nhưng sau khi Phật diệt độ rồi, họ không đến nữa, con làm sao có dịp để gặp gỡ hỏi han như thế?
Phật dạy:
– Này A-nan, ngươi chớ lo, các hàng đệ tử sẽ có bốn chỗ để tưởng nhớ. Bốn chỗ nào? (1) Tưởng nhớ chỗ có Phật sanh, ghi nhớ không quên, sanh lòng luyến mộ; (2) Tưởng nhớ chỗ Phật mới thành đạo mà vui mừng muốn thấy, ghi nhớ không quên, sanh lòng luyến mộ; (3) Tưởng nhớ chỗ Phật chuyển pháp luân lần đầu, vui mừng muốn thấy, ghi nhớ không quên, sanh lòng luyến mộ; (4) Tưởng nhớ chỗ Phật vào Niết-bàn, vui mừng muốn thấy, ghi nhớ không quên, sanh lòng luyến mộ.
Này A-nan, sau khi Ta nhập Niết-bàn, các đệ tử dù nam hay nữ nhớ tới khi Phật giáng sanh, có những công đức như thế; khi Phật đắc đạo, có những thần lực như thế; khi Phật chuyển pháp luân, có những sự hóa độ như thế; khi Phật sắp diệt độ, có những lời di chúc như thế; rồi mỗi người đều nên đi đến bốn nơi đó. Sau khi lễ kính, xây dựng chùa tháp thì sau khi thác đều được sanh về cõi trời, trừ những người đắc đạo.
Phật dạy:
– Này A-nan, sau khi Ta diệt độ, có các người dòng họ Thích đến cầu đạo hãy nhận cho họ xuất gia, thọ giới Cụ túc chớ để lâu. Cho đến những người tu học theo giáo pháp khác đến cầu đạo, cũng nhận cho họ xuất gia, thọ giới Cụ túc chớ có để trải qua bốn tháng thử thách. Vì sao? Vì những người kia vốn có học sẵn các luận thuyết khác, nếu để lâu thì những sự hiểu biết sai lầm trước đây của họ sẽ có cơ hội tái phát.
Bấy giờ A-nan quỳ xuống, chắp tay tiến đến trước thưa:
– Bạch Thế Tôn, sau khi Phật diệt độ, có những Tỳ-kheo xiển nộ, ngỗ nghịch, tự chuyên ương ngạnh, phải đối xử với họ như thế nào?
Phật dạy:
– A-nan, sau khi Ta diệt độ, có những hạng xiển nộ Tỳ-kheo, không theo oai nghi, không chấp thuận sự chỉ dạy, các ông hãy đem họ mà xử trị theo pháp Phạm-đàn, là thông báo cho các Tỳ-kheo, không ai được nói chuyện với họ, hoặc tới lui, dạy dỗ, cộng tác với Tỳ-kheo đó!
Khi đó A-nan lại thưa:
– Bạch Thế Tôn, sau khi Phật diệt độ, có những người nữ đến xin thụ giáo thì làm sao?
Phật dạy:
– Chớ cho họ gặp!
– Giả sử phải gặp thì làm sao?
– Chớ nói chuyện với họ!
– Giả sử phải nói chuyện với họ thì làm sao?
– Lo thu nhiếp tâm ý!
Này A-nan, ngươi cho rằng sau khi Phật diệt độ, các ngươi không chỗ nương tựa, không ai che chở, chớ nghĩ như thế, nên biết những kinh, luật mà Ta đã dạy, từ khi thành Phật đến nay là chỗ nương tựa, che chở cho ngươi đó.
Này A-nan, từ nay trở đi cho phép các Tỳ-kheo tùy nghi bỏ các giới nhỏ nhặt, hãy lễ độ, trên dưới hòa thuận với nhau, đó là pháp kính thuận của người xuất gia.
Phật bảo:
– Này các Tỳ-kheo, các ông đối với Phật pháp, chúng Tăng và Chánh đạo, có gì nghi ngờ nữa không? Ai nghi thì mau hỏi đi cho kịp thời để sau này khỏi ăn năn. Giờ đây, Ta vẫn còn và sẽ giải quyết cho.
Khi đó các Tỳ-kheo đều im lặng.
Phật hỏi lần thứ hai, thứ ba, các Thầy Tỳ-kheo lúc đó cũng đều im lặng.
Phật lại dạy:
– Nếu các ngươi e ngại không dám hỏi, hãy nhờ các vị hiểu biết hỏi giúp cho kịp thời để sau khỏi ăn năn.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo cũng vẫn im lặng. A-nan thưa:
– Con tin trong đại chúng này, ai nấy đều có lòng tin thanh tịnh, không còn ai hoài nghi về Phật, Tăng nữa.
Phật dạy:
– Này A-nan, Ta tự biết trong đại chúng này, dù có một vị Tỳ-kheo nhỏ nhất, cũng thấy được dấu đạo, không còn đọa vào đường ác, chỉ còn bảy lần sanh lại cõi Dục này là diệt hết khổ.
Bấy giờ, đức Thế Tôn liền thọ ký cho một ngàn hai trăm vị đệ tử chứng được đạo quả.
Khi ấy, đức Thế Tôn trịch y uất-đa-la-tăng để lộ cánh tay sắc vàng, bảo các Tỳ-kheo:
– Các ông nên nghĩ rằng đức Như Lai xuất hiện ở đời cũng như hoa Ưuđàm-bát-la xuất hiện vậy.
Lúc đó, đức Thế Tôn, diễn lại ý nghĩa ấy mà nói bài kệ:
Cánh tay hữu sắc vàng,
Phật hiện như Linh Thụy,
Đến, đi đều vô thường,
Hiện, diệt, không buông lung.
Thế nên, các Tỳ-kheo không nên phóng dật, Ta chính nhờ không buông lung mà thành Chánh giác, vô lượng điều lành đều nhờ không buông lung mà có được. Tất cả vạn vật đều vô thường, đó là lời dạy cuối cùng của đức Như Lai.
Khi ấy, Phật liền vào định Sơ thiền, rồi từ định Sơ thiền ra để vào định Nhị thiền, rồi từ định Nhị thiền ra để vào định Tam thiền, rồi từ định Tam thiền ra để vào định Tứ thiền, rồi từ định Tứ thiền ra để vào định Không xứ, rồi từ định Không xứ ra để vào định Thức xứ, rồi từ định Thức xứ ra để vào định Bất dụng, rồi từ định Bất dụng ra để vào định Hữu tưởng vô tưởng, rồi từ định Hữu tưởng vô tưởng ra để vào định Diệt tưởng.
Lúc đó, A-nan hỏi A-na-luật:
– Đức Thế Tôn đã nhập Niết-bàn ư?
A-na-luật đáp:
– Chưa! Đức Thế Tôn hiện đang ở trong định Diệt tưởng. Tôi lúc trước được ở gần Phật nghe rằng, khi Phật từ định Tứ thiền ra mới vào Niết-bàn.
Lúc ấy, đức Thế Tôn từ định Diệt tưởng ra để vào định Hữu tưởng vô tưởng, từ định Hữu tưởng vô tưởng ra để vào định Bất dụng, rồi từ định Bất dụng ra để vào định Thức xứ, rồi từ định Thức xứ ra để vào định Không xứ, rồi từ định Không xứ ra để vào Tứ thiền, rồi từ Tứ thiền ra để vào Tam thiền, rồi từ Tam thiền ra để vào Nhị thiền, rồi từ Nhị thiền ra để vào Sơ thiền, rồi từ Sơ thiền ra vào Nhị thiền, rồi từ Nhị thiền ra vào Tam thiền, rồi từ Tam thiền ra vào Tứ thiền, rồi từ Tứ thiền ra, Phật nhập Niết-bàn. Ngay lúc đó, quả đất chấn động mạnh, trời, người đều kinh hoàng, những chúng sanh ở cõi tối tăm, mặt trời, mặt trăng không chiếu đến, đều được soi sáng, trông thấy lẫn nhau, và bảo nhau: “Người kia sanh đến đây, người kia sanh đến đây mới có ánh sáng chiếu khắp như thế, hơn cả ánh sáng của chư thiên Đao-lợi.”
Bấy giờ, chư thiên Đao-lợi ở giữa hư không dùng hoa văn-đà-là, hoa ưubát-la, hoa bát-đầu-ba, hoa câu-ma-đầu, hoa phân-đà-lợi rải trên Như Lai và hội chúng, và bột hương chiên-đàn rải trên Phật và đại chúng.
Khi Phật diệt độ rồi, Phạm thiên vương, ở giữa hư không dùng bài kệ tán thán Phật:
Tất cả loài sanh linh,
Đều phải bỏ thân mạng,
Phật là đấng Vô Thượng,
Thế gian không ai bằng,
Bậc Đại Hùng, Như Lai,
Có thần lực vô úy,
Phật nên ở đời lâu,
Nhưng nay nhập Niết-bàn.
Bấy giờ, Thích-đề-hoàn-nhân lại dùng bài kệ tán Phật:
Ấm, hành đều vô thường,
Chỉ vì pháp hưng suy.
Sống, không ai không chết,
Phật diệt là an lạc.
Trong lúc đó, Vua Tỳ-sa-môn cũng dùng bài kệ tán thán Phật:
Cây phước chốn tòng lâm,
Sa-la phước vô thượng
Là ruộng lành nhận cúng,
Nơi Song Thọ diệt độ.
Bấy giờ, A-na-luật lại dùng bài kệ tán Phật:
Phật dùng vô vi trú,
Không dùng hơi ra vào.
Vốn đến từ tịch diệt,
Mất cũng linh diệu thế.
Bấy giờ, Tỳ-kheo Phạm-ma-na lại dùng bài kệ tán Phật:
Chẳng dùng tâm mạn, lười,
Tự tu tuệ vô thượng,
Không chấp, không nhiễm ô,
Bậc Vô Thượng lìa ác.
Bấy giờ, Tỳ-kheo A-nan lại dùng bài kệ tán thán đức Phật:
Trời người đều kinh hoàng,
Toàn thân lông dựng ngược.
Tất cả đều thành tựu,
Bậc Chánh Giác diệt độ.
Bấy giờ, thần Kim-tỳ-la lại dùng bài kệ tán thán đức Phật:
Thế gian mất che chở,
Chúng sanh mãi mù lòa,
Không còn ai thấy Phật,
Bậc Sư Tử Giữa Người.
Bấy giờ, Lực Sĩ Mật Tích lại dùng bài kệ tán Phật:
Các thiên, nhơn, Ma, Phạm,
Đời này và đời sau,
Không còn thấy được Phật,
Bậc Sư Tử Giữa Người.
Bấy giờ, Phật mẫu Ma-da lại dùng kệ tán Phật:
Phật sanh vườn Tỳ-ni,
Đạo Ngài truyền rộng khắp,
Trở về chốn vốn sanh,
Bỏ hẳn thân vô thường.
Bấy giờ, thần Song Thọ lại dùng kệ tán Phật:
Lúc nào tôi lại lấy,
Hoa trái mùa cúng Phật,
Đủ thập lực công đức,
Như Lai đã diệt độ.
Bấy giờ, thần Sa-la viên lâm lại dùng kệ tán Phật:
Cõi này diệu lạc nhất,
Phật sanh trưởng ở đây,
Ở đây chuyển pháp luân,
Lại ở đây diệt độ.
Bấy giờ, Tứ Thiên vương lại dùng kệ tán Phật:
Như Lai trí vô thượng,
Thường nói pháp vô thường,
Giải khổ cho chúng sanh,
Cuối cùng vào tịch diệt.
Bấy giờ, Đao-lợi Thiên vương lại dùng kệ tán Phật:
Qua muôn ngàn ức kiếp,
Mong thành đạo vô thượng,
Giải khổ cho chúng sanh,
Cuối cùng vào tịch diệt.
Bấy giờ, Diệm Thiên vương lại dùng kệ tán Phật:
Đây là y tối hậu,
Dùng quấn thân Như Lai.
Nay Phật đã diệt độ,
Y này sẽ cúng ai?
Bấy giờ, Đâu-suất-đà Thiên vương lại dùng kệ tán Phật:
Đây là thân cuối cùng,
Ấm, giới diệt nơi đây.
Không tâm tưởng lo mừng,
Không còn lo già chết.
Khi ấy, Hóa Tự Tại Thiên vương lại dùng kệ tán Phật:
Phật vào giữa đêm nay,
Nằm nghiêng hông bên phải.
Tại vườn Sa-la này,
Thích Sư Tử diệt độ.
Lúc đó, Tha Hóa Tự Tại Thiên vương lại dùng kệ tán Phật:
Thế gian mãi tối tăm,
Trăng sao đều mờ lặn,
Bị vô thường che kín,
Mất hẳn mặt trời trí.
Bấy giờ, các Tỳ-kheo dùng kệ tán Phật:
Thân này như bèo bọt,
Mỏng manh có gì vui!
Phật được thân Kim cang,
Còn bị vô thường phá.
Thân Kim cang chư Phật,
Đều về với vô thường.
Tan mau như tuyết non,
Huống những chúng sanh khác..
Sau khi Phật nhập Niết-bàn, các Tỳ-kheo buồn bã than khóc vô cùng, gieo mình xuống đất, lăn lóc kêu gào, không thể kiềm chế được và nói: “Đức Như Lai tại sao diệt độ sớm quá! Đức Thế Tôn diệt độ sớm quá! Đại pháp tại sao chìm đắm sớm quá! Chúng sanh mãi đau khổ, mắt thế gian đã diệt. Ví như cây lớn đã tróc gốc thì nhánh nhóc đều bị gãy đổ. Cũng như rắn bị chém, lăn lộn trên đất, ngơ ngác không biết đến nơi đâu.” Bấy giờ các Tỳ-kheo cũng thế, buồn bã vô cùng, gieo mình xuống đất, lăn lóc kêu gào, không thể tự kiềm chế được và than thở rằng: “Đức Như Lai tại sao diệt độ quá sớm! Đức Thế Tôn tại sao diệt độ quá sớm! Đại pháp tại sao mai một quá mau! Chúng sanh mãi đau khổ, mắt thế gian đã diệt.”
Bấy giờ, Trưởng lão A-na-luật bảo các Tỳ-kheo:
– Thôi đi, thôi đi, chớ buồn, kẻo có hàng chư thiên trên hư không nhìn xuống họ chê trách!
Lúc đó, các Tỳ-kheo hỏi A-na-luật:
– Trên hư không có bao nhiêu chư thiên?
A-na-luật đáp:
– Đầy cả hư không, đâu có thể tính lường được? Tất cả đều đang ở trên hư không, lăn lộn bồi hồi, đau đớn buồn bã, rơi lệ mà nói: “Đức Như Lai tại sao diệt độ quá sớm! Đức Thế Tôn tại sao diệt độ quá sớm! Đại pháp chìm đắm quá sớm! Chúng sanh mãi đau khổ, mắt thế gian đã diệt. Ví như cây lớn đã bị tróc gốc thì nhánh nhóc đều bị gãy đổ, lại như rắn bị chém, lăn lóc trên đất, ngẩn ngơ không biết đến nơi đâu."
Lúc đó, chư thiên cũng lại như vậy, họ ở trong hư không, lăn lộn bồi hồi, đau đớn buồn bã nói:
– Đức Như Lai tại sao diệt độ quá sớm! Đức Thế Tôn tại sao diệt độ quá sớm! Đại pháp tại sao mai một quá sớm! Chúng sanh mãi đau khổ, mắt thế gian đã diệt.
Các Tỳ-kheo đến hết đêm thì đã hiểu được. Sau khi giảng pháp ngữ xong, Trưởng lão A-na-luật bảo Tôn giả A-nan:
– Ông hãy vào thành báo tin cho dân chúng dòng Mạt-la biết là Phật đã diệt độ, nếu như họ có muốn cúng dường thì hãy mau đến cho kịp!
Khi ấy A-nan vâng lời đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật, dắt theo một Tỳ-kheo khóc lóc vào thành. Xa xa, A-nan trông thấy năm trăm Mạt-la nhân có một chút duyên sự nhóm họp tại một nơi; khi thấy A-nan đến, họ đều đứng dậy làm lễ nghinh tiếp và hỏi A-nan:
– Thưa Tôn giả có việc gì đến đây sớm vậy?
A-nan đáp:
– Nay tôi vì muốn lợi ích cho các người nên đến đây sớm, các người nên biết đức Thế Tôn đã diệt độ đêm qua. Nếu như các người muốn cúng dường thì hãy đến đấy cho kịp.
Khi chúng Mạt-la nghe lời ấy xong, thảy đều xúc động, lau nước mắt nói:
– Sao Phật vào Niết-bàn sớm quá! “Con mắt của thế gian” tại sao diệt mất sớm quá!
A-nan khuyên:
– Thôi, thôi, các người chớ có buồn khóc, muốn cho pháp hữu vi không biến dịch thì không thể có được. Đức Phật đã dạy hễ có sanh thì có tử, có hợp thì có tan, tất cả ân ái đều là vô thường.
Khi đó, dân chúng Mạt-la bảo nhau:
– Chúng ta hãy về nhà sửa soạn hương hoa và các kỹ nhạc đi mau đến rừng cây Song Thọ để cúng dường Xá-lợi. Hết một ngày rồi đem Xá-lợi Phật để lên một cái kiệu, đồng thời cho tất cả đồng tử Mạt-la khiêng đi khắp bốn hướng thành, có tràng phan, xông hương, rải hoa, kỹ nhạc cúng dường; trước hết đưa vào thành cửa Đông, đi khắp các nẻo đường để cho dân chúng đều được cúng dường. Sau đó lại đưa ra thành cửa Tây, đi đến một đồi cao mà làm lễ Trà-tỳ.
Sau khi họ bàn luận như thế xong, mỗi người đều về nhà sắm sửa hương hoa và các thứ kỹ nhạc để đến rừng Sa-la Song Thọ cúng dường Xá-lợi Phật. Hết một ngày xong họ đặt Xá-lợi Phật trên một cái kiệu, tất cả dân chúng Mạt-la đều đến khiêng kiệu nhưng khiêng không nổi.
Khi ấy, Tôn giả A-na-luật bảo:
– Này các Mạt-la, các người hãy thôi đi! Nhọc công vô ích! Nay chư thiên muốn đến khiêng kiệu.
Các Mạt-la nói:
– Chư thiên muốn khiêng kiệu này để làm gì?
A-na-luật đáp:
– Theo ý các người thì muốn dùng hương hoa, kỹ nhạc cúng dường Xá-lợi suốt một ngày rồi đem Xá-lợi đặt lên kiệu, thanh niên Mạt-la khiêng bốn góc kiệu, treo phan, cầm phướn, xông hương, rải hoa, trỗi nhạc cúng dường. Đưa vào thành cửa Đông, đi khắp các nẻo đường để cho dân chúng đều được cúng dường. Sau đó ra cửa thành phía Tây, đưa đến một đồi cao làm lễ Trà-tỳ. Theo ý chư thiên thì muốn lưu Xá-lợi lại trong bảy ngày để kính lễ cúng dường bằng các thứ hương hoa, kỹ nhạc, sau đó mới thỉnh Xá-lợi Phật đặt lên kiệu, bốn góc kiệu các thanh niên Mạt-la khiêng, treo phan, cầm phướn, xông hương, rải hoa, trỗi nhạc cúng dường Xá-lợi, vào thành cửa Đông, đi khắp các nẻo đường để cho dân chúng đều được cúng dường. Sau đó mới đưa vào thành cửa Bắc, qua sông Ni-liên-thiền đi đến chùa Thiên Quan mà làm lễ Trà-tỳ. Đó là ý chư thiên khiến kiệu bất động.
Người Mạt-la nói:
– Hay lắm, xin tùy ý chư thiên!
Khi đó, dân chúng Mạt-la bèn bảo nhau rằng: “Trước hết chúng ta nên vào thành quét dọn, sửa soạn, tưới nước các nẻo đường và xông hương, sau đó trở lại đây cúng dường Xá-lợi Phật trong bảy ngày.”
Các Mạt-la cùng nhau vào thành, đến các ngả đường quét dọn, sửa soạn, tưới nước xông hương, và sau đó ra khỏi thành. Tại rừng Song Thọ dùng hương hoa, kỹ nhạc cúng dường Xá-lợi Phật. Trọn bảy ngày xong vào lúc chiều tối ngày thứ bảy, họ thỉnh Xá-lợi Phật đặt lên kiệu, các thanh niên Mạt-la khiêng bốn góc kiệu, treo phan, cầm phướn, xông hương, rải hoa, trỗi các kỹ nhạc cúng dường, thứ lớp thong thả đi.
Lúc ấy, các vị trời Đao-lợi dùng hoa văn-đà-la, hoa ưu-bát-la, hoa ba-đầuma, hoa câu-vật-đầu, hoa phân-đà-lợi và bột chiên-đàn rải trên Xá-lợi. Khắp các nẻo đường chư thiên trỗi nhạc, quỷ thần ca xướng tiễn đưa.
Lúc đó, các Mạt-la bảo nhau rằng: “Hãy dừng lại nhạc của loài người, hãy thỉnh nhạc của chư thiên mà cúng dường Xá-lợi!” Bấy giờ, dân chúng Mạt-la khiêng kiệu đi dần vào cửa thành phía Đông, đến mỗi ngả đường thì dừng lại đốt hương, rải hoa, trỗi nhạc cúng dường.
Khi ấy, có nàng Lộ-di thuộc dòng Mạt-la, vốn hết lòng tin Phật, cầm một đóa hoa vàng lớn như bánh xe đến cúng dường Xá-lợi. Và lúc đó, có một bà lão cất tiếng tán thán như sau: “Các Mạt-la này được lợi ích lớn. Cuối cùng Như Lai diệt độ tại đây, hãy gọi dân chúng cả nước mau đến cúng dường!”
Khi dân chúng Mạt-la cúng dường xong, ra cửa thành phía Bắc, qua sông Ni-liên-thiền, rồi đến chùa Thiên Quan để kiệu Phật xuống đất và thưa với A-nan:
– Chúng tôi giờ đây nên cúng dường bằng cách nào nữa?
Ngài A-nan bảo:
– Tôi tự thân theo hầu Phật, tự thân nghe nhận lời Phật dạy, nghe và ghi: “Nếu muốn táng Xá-lợi Phật, hãy theo như cách táng cho Chuyển Luân Thánh Vương!”
Họ hỏi tiếp:
– Cách táng cho Chuyển Luân Thánh Vương như thế nào?
– Theo cách táng cho Chuyển Luân Thánh Vương, trước hết là lấy nước thơm tắm rửa thi thể, rồi dùng năm trăm tấm vải tân-kiếp quấn quanh thân thể, sau đó, đặt thi thể Ngài vào trong kim quan, lấy dầu mè tưới vào, rồi đặt kim quan này vào trong một cái quách lớn thứ hai bằng sắt rồi lấy một cái quách bằng gỗ chiên-đàn bọc ở ngoài. Chất lên trên đó các hương liệu nổi tiếng và các áo vải dày mà trà-tỳ. Thu nhặt Xá-lợi, xây tháp tại ngã tư đường, dựng cột treo phan để cho dân chúng mỗi khi đi qua đều trông thấy vua mà tưởng nhớ và kính mộ sự giáo hóa chân chính của nhà vua để được nhiều sự lợi ích. Thế Tôn đã dạy: “Này A-nan! Nay ngươi muốn táng Ta thì trước hết dùng nước hương tắm rửa thi thể, sau đó dùng năm trăm tấm vải trắng quấn khắp thân Ta năm trăm lớp, kế tiếp đặt thi thể vào trong kim quan rồi tưới dầu mè vào, đặt kim quan này vào trong cái quách lớn bằng sắt thứ hai, kế tiếp lại đặt cái quách này vào trong một cái quách khác bằng gỗ hương chiên-đàn. Xong rồi chất các loại hương liệu nổi tiếng và vải dày lên trên đó mà trà-tỳ. Sau đó thu nhặt Xá-lợi, dựng tháp tại ngã tư đường đồng thời treo tràng phan, phướn để mọi người đi đường đều trông thấy tháp Phật để tưởng nhớ và kính mộ công đức giáo hóa của đức Như Lai, đấng Pháp Vương. Nhờ đó, khi sống được phước lợi, khi chết được sanh thiên, ngoài ra còn được đắc đạo.”
Lúc đó, dân chúng Mạt-la bảo nhau: “Chúng ta hãy về thành lo sửa soạn đầy đủ dụng cụ tẩm táng đức Như Lai, như vải trắng mới, nước hương, hoa, dầu thơm, quan quách.” Tức thì, họ liền vào thành sắm đủ các dụng cụ tẩm táng. Khi xong, họ trở lại chùa Thiên Quan dùng nước thơm tắm gội kim thân Phật, lấy vải trắng mới quấn khắp kim thân Phật năm trăm lớp. Sau đó đặt thánh thể vào kim quan đã tẩm dầu thơm, lại đặt kim quan này vào trong cái quách lớn bằng sắt thứ hai và cuối cùng là đặt cái quách này vào trong cái quách khác bằng gỗ hương chiên-đàn. Khi xong chất đầy các loại hương liệu nổi tiếng lên trên mà trà-tỳ.
Khi ấy, có vị đại thần dòng Mạt-la tên là Lộ-di, tay cầm cây đuốc lớn châm lửa vào giàn hỏa thiêu kim thân Phật nhưng lạ thay, không cháy! Kế đó, lại có những trưởng lão Mạt-la cũng cầm lửa châm theo nhưng lửa vẫn không cháy. Ngài A-na-luật bảo chúng Mạt-la: “Thôi đi các người! Không phải các người đốt được đâu, lửa không cháy là vì ý chư thiên vậy.” Mạt-la hỏi: “Tại sao chư thiên khiến cho lửa không cháy?” A-na-luật đáp: “Vì chư thiên nhận thấy ngài Đại Ca-diếp đang dẫn năm trăm đệ tử từ nước Ba-bà đang đi nửa đường để về cho kịp giờ thấy thân Phật khi chưa trà-tỳ. Vì chư thiên biết ý nên làm cho lửa không cháy.” Mạt-la nói: “Xin để toại ý!”
Lúc đó, ngài Đại Ca-diếp dắt năm trăm đệ tử từ nước Ba-bà đi về, trên đường đi gặp một gã Ni-kiền-tử trong tay cầm một đóa hoa văn-đà-la, ngài Đại Ca-diếp từ xa trông thấy bèn lại gần hỏi:
– Này ông bạn, từ đâu lại đây?
– Tôi từ thành Câu-thi lại.
– Bạn có biết Thầy tôi không?
– Biết!
– Thầy tôi còn sống không?
– Đã diệt độ cách đây bảy ngày. Tôi từ đó lại nên tôi nhận được đóa hoa trời này.
Ca-diếp nghe xong buồn bã không vui. Còn năm trăm vị Tỳ-kheo nghe Phật diệt độ thì đều buồn khóc, lăn lóc kêu than không thể ngăn được, rơi lệ và nói: “Đức Như Lai tại sao diệt độ sớm quá! Đức Thế Tôn tại sao diệt độ sớm quá! Đại pháp sao lại chìm lặn sớm quá! ‘Con mắt thế gian’ diệt mất thì chúng sanh sẽ bị đau khổ lâu dài! Ví như cây lớn đã bị tróc gốc thì nhánh nhóc phải bị gãy đổ. Ai nấy cũng như rắn bị chặt, quay cuồng, lăn lóc, ngẩn ngơ không biết gì cả.”
Lúc ấy, trong chúng có một vị Tỳ-kheo tên là Bạt-nan-đà, thuộc dòng họ Thích, bảo các Tỳ-kheo rằng: “Các người chớ có buồn, đức Thế Tôn diệt độ thì chúng ta được tự do. Ông già ấy trước đây thường bảo chúng ta làm thế này, không nên làm thế kia nhưng từ nay về sau thì tùy ý chúng ta hành động.” Ngài Đại Ca-diếp lúc đó nghe nói như thế trong lòng buồn bã không vui, mới bảo các Tỳ-kheo chỉnh trang y bát đi mau đến cây Song Thọ để được thấy thân Phật trước khi trà-tỳ. Khi ấy, các Tỳ-kheo nghe ngài Đại Ca-diếp nói xong đứng dậy theo ngài đến thành Câu-thi, qua sông Ni-liên-thiền, đến chùa Thiên Quan và đi ngay đến chỗ ngài A-nan, sau khi hỏi han xong đứng qua một bên và hỏi:
– Thưa Tôn giả A-nan, chúng tôi muốn thấy thân Xá-lợi Phật trước khi tràtỳ có thể được không?
A-nan đáp:
– Tuy chưa trà-tỳ nhưng mà khó thấy được. Tại sao? Vì thân Phật được tắm nước hương, ngoài thì quấn năm trăm lớp vải trắng và đặt trong một kim quan, đồng thời kim quan ấy được đặt trong một cái quách bằng sắt, và cái quách này được đặt trong một cái quách khác bằng gỗ hương chiên-đàn, do đó thân Phật khó thấy được.
Ngài Ca-diếp xin ba lần như thế nhưng ngài A-nan vẫn trả lời một câu như cũ là khó thấy được. Chẳng biết làm sao, ngài Ca-diếp lúc đó mới hướng về giàn hỏa mà chiêm bái, chính lúc ấy bỗng nhiên từ trong lòng quan quách, Phật duỗi hai bàn chân ra ngoài để cho ngài Ca-diếp thấy. Đồng thời ngài Ca-diếp nhận thấy chân Phật có màu sắc lạ, lấy làm lạ bèn hỏi A-nan:
– Thân Phật vốn sắc vàng, tại sao chân Ngài có màu sắc khác như thế này?
A-nan đáp:
– Trước đây có một bà già vì tiếc thương Phật, rờ vào chân Phật, và làm rơi nước mắt trên chân Phật cho nên có màu sắc khác như thế!
Ngài Ca-diếp nghe xong, trong lòng không vui. Thế rồi, ngài Ca-diếp hướng về giàn hỏa đảnh lễ thân Xá-lợi Phật. Khi ấy bốn chúng và chư thiên trên hư không cũng đồng thời làm lễ. Lúc đó bỗng nhiên chân Phật biến mất! Ngài Đại Ca-diếp vừa đi quanh giàn hỏa ba vòng vừa đọc bài kệ tán thán như sau:
Tôi nay cúi đầu lễ
Đức Đạo sư Vô thượng,
Thánh trí không thể lường,
Thánh trí cao tột đỉnh.
Bậc Sa-môn Tối Cao,
Tối thượng không tỳ vết,
Thanh tịnh không tham ái,
Bậc Thầy giữa trời, người,
Tôi nay xin kính lễ,
Đấng mạnh nhất giữa người.
Khổ hạnh chẳng ai bằng,
Từ bỏ để dạy người,
Kính lễ đấng Thế Tôn,
Không nhiễm, không trần cấu.
Dứt sạch tham, sân, si,
Vui trong hạnh không tịch,
Kính lễ đấng Thập Lực,
Độc nhất không ai bằng.
Giải thoát là tối thượng,
Phúc trí cao tột bực,
Kính lễ đấng Trí Tịnh,
Bậc giác ngộ Tứ đế.
Vô thượng giữa Sa-môn,
Khiến bỏ tà về chánh,
Kính lễ đấng Tịch Tịnh,
Thế Tôn thường tịch diệt.
Không bứt rứt, tỳ vết,
Thân tâm thường vắng lặng,
Kính lễ đấng Thanh Tịnh,
Loại trừ mọi nhiễm ô.
Tuệ nhãn không hạn lượng,
Cam lồ, tiếng oai vang,
Kính lễ đấng Vô Thượng,
Hy hữu khó nghĩ bàn.
Tiếng nói như sư tử,
Ở rừng không khiếp sợ,
Hàng ma, vượt bốn tánh.
Cho nên tôi đảnh lễ.
Khi ngài Đại Ca-diếp có oai đức lớn lao và đủ bốn biện tài, vừa đọc xong bài kệ trên thì hỏa đàn của Phật không đốt tự nhiên bừng cháy. Dân chúng Mạt-la bảo nhau: “Ngọn lửa cháy mạnh quá khó dập tắt, e cháy tiêu hết Xá-lợi! Chúng ta phải lấy nước ở đâu để tưới?” Lúc đó, có vị thần Sa-la hết lòng tin Phật, đang hầu một bên, dùng thần lực làm tắt ngọn lửa. Khi ấy dân chúng Mạtla bảo nhau: “Chúng ta hãy đi hái hết hoa thơm ở chung quanh thành Câu-thi cách đây mười hai do-tuần đem về dâng cúng Xá-lợi Phật.” Tức thì, họ liền đi đến bên thành và hái hết hoa thơm về cúng dường Phật.
Bấy giờ, dân chúng Mạt-la nước Ba-bà nghe Phật diệt độ tại Song Thọ, tự nghĩ: “Ta nay nên đến đó cầu xin phần Xá-lợi về nước ta dựng tháp cúng dường.”
Khi ấy họ liền hạ lệnh đem bốn thứ binh: tượng binh, mã binh, xa binh, bộ binh đi đến thành Câu-thi, và cử sứ giả đến nói:
– Chúng tôi nghe đức Phật diệt độ tại đây, Phật cũng là thầy chúng tôi, vì lòng kính mộ Ngài, chúng tôi đến xin phần Xá-lợi về nước dựng tháp cúng dường.
Vua nước Câu-thi đáp:
– Thật vậy, đúng như lời ngài nói nhưng vì đức Thế Tôn đã đến đây và diệt độ tại đây, nhân dân nước tôi tự do cúng dường, các ngài từ phương xa đến đây cầu Xá-lợi; nhưng rất tiếc, việc ấy hẳn là không được!
Đồng thời dân chúng dòng Bạt-ly thuộc nước Già-la-phả, dân chúng dòng Câu-lợi thuộc nước La-ma-già, dân chúng dòng Bà-la-môn nước Tỳ-lưu-đồ, dân chúng dòng Thích-ca thuộc nước Ca-duy-la-vệ, dân chúng dòng Ly-xa thuộc nước Tỳ-xá-ly và Vua A-xà- thế thuộc nước Ma-kiệt-đà, nghe đức Như Lai diệt độ tại Song Thọ, ở thành Câu-thi đều tự nghĩ: “Ta nay nên qua đó để cầu lấy phần Xá-lợi.” Quốc vương A-xà-thế và các vị ấy bèn hạ lệnh trong nước đem bốn thứ binh: Tượng, mã, xa và bộ binh tiến qua sông Hằng. Vua A-xà-thế cử Bà-la-môn Hương Tánh và nói: “Ngươi hãy nhân danh ta, vào thành Câu-thi thăm hỏi các vị Mạt-la… có khỏe mạnh, có bình thường không, và nói ta cùng các vị xưa nay vốn kính nhau, láng giềng hòa nghị chưa có xảy ra sự tranh tụng. Nay ta nghe đức Như Lai diệt độ tại quý quốc, đối với đức Thế Tôn, ta hết lòng tôn kính nên chẳng quản xa xôi đến đây cầu xin Xá-lợi, đem về nước dựng tháp cúng dường. Nếu nhận lời, ta sẽ hiến quốc bảo cho.”
Bấy giờ, Bà-la-môn Hương Tánh vâng lệnh nhà vua đến thành Câu-thi nói với các Mạt-la rằng: “Vua nước Ma-Kiệt vấn an Đại vương, có khỏe mạnh, có bình thường không? Nhà vua đối với ngài hết lòng tôn kính, láng giềng hòa nghị, chưa hề xảy ra sự tranh tụng, nhân nghe đức Như Lai diệt độ tại quý quốc, đối với đức Thế Tôn, vua thật hết lòng cung kính, cho nên từ phương xa đến đây cầu xin phần Xá-lợi của Phật để đem về nước dựng tháp cúng dường, nếu nhận lời nhà vua sẽ hiến quốc bảo cho.” Lúc đó, các Mạt-la đáp: “Quả thật như thế, đúng như lời ngài vừa trình bày; nhưng vì đức Thế-Tôn đã giáng lâm và diệt độ tại đây thì nhân dân nước tôi tự lo cúng dường, xin khỏi phiền quý ngài từ phương xa đến đây, việc cấp Xá-lợi là không thể được.”
Lúc đó, các quốc vương bèn triệu tập các quần thần lại thảo luận như sau:
Chúng ta hòa nghị,
Xa đến cúi đầu,
Khiêm tốn yêu cầu,
Nhưng không chấp nhận.
Bốn binh đã sẵn,
Không tiếc thân mạng,
Dùng nghĩa không được,
Tất phải dùng sức.
Khi ấy, vua nước Câu-thi cũng triệu tập quần thần để thảo luận, trả lời rằng:
Các người xa nhọc,
Khuất phục cầu xin,
Như Lai di thể,
Nhưng không cho được.
Họ muốn dùng binh,
Ta đây cũng sẵn,
Chống trả đến cùng,
Chưa từng biết sợ.
Thấy vậy, Bà-la-môn Hương Tánh, lúc đó đứng ra hiểu dụ mọi người: “Chư Hiền suốt đời nhận lãnh lời dạy của Phật, miệng thì tụng lời Phật dạy, tâm địa hiền hòa, ý chí nhân từ, thường mong cho tất cả chúng sanh đều được an lành, nay chẳng lẽ vì giành Xá-lợi Phật mà trở lại tàn hại lẫn nhau? Hơn nữa, di thể Như Lai, nếu muốn có lợi ích sâu xa thì Xá-lợi hiện tại nên chia ra thành nhiều phần.” Mọi người đều khen là phải. Họ lại bàn tán: “Nên nhờ ai đủ sức phân chia giúp?” Tất cả đều cho Bà-la-môn Hương Tánh là người nhân trí quân bình, có thể phân chia được.
Bấy giờ, các quốc vương liền bảo ông Hương Tánh: “Ông hãy chia Xá-lợi Phật thành tám phần đồng đều cho chúng tôi!”
Lúc đó, Hương Tánh nghe các vua nói xong đi ngay đến chỗ Xá-lợi, cúi đầu đảnh lễ xong, từ từ tiến đến, đem răng trên của Phật để riêng một bên, sai sứ giả đem răng trên của Phật đến cho Vua A-xà-thế, ông Hương Tánh bảo sứ giả rằng: “Ngươi hãy nhân danh ta, tâu: ‘Thưa Đại vương có được khỏe mạnh, đi đứng có bình thường không? Xá-lợi chưa đến tay chắc Đại vương trông lắm! Nay tôi giao cho sứ giả răng trên của Như Lai để kịp cúng dường, cho thỏa mãn sự khát vọng của Đại vương. Sáng mai, khi chia xong Xá-lợi, tôi sẽ đích thân dâng lên ngài.’” Sứ giả vâng lời Hương Tánh xong liền đến chỗ Vua A-xà-thế mà tâu: “Ngài Hương Tánh xin hỏi: ‘Đại vương có được khỏe mạnh, đi đứng có bình thường không? Xá-lợi chưa đến tay chắc Đại vương trông lắm! Nay ngài giao tôi răng trên của Phật để kịp cúng dường, hầu thỏa lòng mong đợi của Đại vương! Sáng mai, khi chia Xá-lợi xong, ngài Hương Tánh trở về và đích thân dâng lên Đại vương.’”
Bấy giờ, ông Hương Tánh lấy một cái bình và dùng bát đá, chia đều Xá-lợi ra làm tám phần bằng nhau. Vừa xong, ông xin mọi người cái bình đó để dựng tháp thờ tại nhà riêng.
Các Bà-la-môn đều bảo: “Thật là có trí! Thật là hợp thời!” Tất cả đều cùng đồng ý cho ông. Lúc đó, người trong thôn Tất-bát cũng đến xin mọi người phần tro còn lại để dựng tháp cúng dường, mọi người lúc đó đều chấp nhận.
Bấy giờ, người nước Câu-thi được Xá-lợi, liền dựng tháp trong nước cúng dường. Và các người thuộc nước Ba-bà, Gia-la, La-ma-gia, Tỳ-lưu-đề, Ca-duyla-vệ, Tỳ-xá-ly, vua nước Ma-kiệt là A-xà-thế… khi được phần Xá-lợi liền trở về nước lo xây tháp cúng dường, còn ông Hương Tánh Bà-la-môn thì đem cái bình dùng chia Xá-lợi về nhà dựng tháp cúng dường. Đồng thời, dân chúng thôn Tất-bát đem phần tro còn lại về dựng tháp cúng dường.
Như vậy, Xá-lợi Phật được chia thờ tại tám tháp, tháp thứ chín thờ cái bình, tháp thứ mười thờ tro, tháp thứ mười một thờ tóc Phật khi còn tại thế.
Phật đản sanh, xuất gia, thành đạo và diệt độ lúc nào? Và những ngày tháng nào? Như Lai đản sanh, xuất gia, thành đạo vô thượng và nhập Niết-bàn vào lúc sao mai mọc, nhằm ngày mồng tám tháng Hai.
Khi nào Phật đản sanh,
Xuất gia tìm chân lý,
Thành tựu đạo vô thượng,
Và nhập đại Niết-bàn?
Sao mai mọc, Phật sanh,
Xuất gia tìm chân lý,
Thành tựu đạo vô thượng,
Và nhập đại Niết-bàn.
Mồng tám Như Lai sanh,
Xuất gia tìm chân lý,
Thành tựu đạo vô thượng,
Và nhập đại Niết-bàn.
Mồng tám, Nhị Túc sanh,
Xuất gia tìm chân lý,
Thành tựu đạo vô thượng,
Và nhập đại Niết-bàn.
Tháng Hai, Như Lai sanh,
Xuất gia tìm chân lý.
Thành tựu đạo vô thượng,
Và nhập đại Niết-bàn.
Tháng Hai, Nhị Túc sanh,
Xuất gia tìm chân lý,
Thành tựu đạo vô thượng,
Và nhập đại Niết-bàn.
Hoa Sa-la nở rộ,
Đủ màu sáng chói nhau,
Ở nơi chỗ đản sanh,
Đức Như Lai diệt độ.
Đại Từ nhập Niết-bàn,
Nhiều người xưng tán lễ,
Vượt hết mọi sợ hãi,
Quyết định nhập Niết-bàn.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.