Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »
Kinh Tiểu Bộ Quyển 3
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch
§545. CHUYỆN BẬC ĐẠI TRÍ NĀRADA KASSAPA (Mahānāradakassapajātaka)[59] (J. VI. 219)
Một vì vua xứ Videha...
Câu chuyện này bậc Đạo sư kể khi Ngài trú ngụ tại lạc viên Laṭṭhivana (Rừng Mía) về việc quy y của Tôn giả Uruvela Kassapa (Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp).
Lúc bấy giờ, uy danh của bậc Đạo sư về việc hoằng dương Chánh pháp đã bắt đầu lừng lẫy. Sau khi Ngài giáo hóa các vị tu khổ hạnh khác cùng Tôn giả Uruvela Kassapa, Ngài liền đi đến lạc viên Laṭṭhivana với cả ngàn Tỷ-kheo vây quanh, các vị này trước đây là những đạo sĩ khổ hạnh. Ngài muốn thuyết phục vua nước Magadha (Ma-kiệt-đà) giữ lời hứa cúng dường tinh xá Veḷuvana (Trúc Lâm). Và lúc ấy, vua nước Magadha cùng đến với đoàn triều thần đông đến mười hai vạn người.
Sau khi đảnh lễ đức Phật xong, vua ngồi xuống, rồi một vấn đề được đưa ra tranh luận giữa các Bà-la-môn và các gia chủ trong đoàn tùy tùng của vua: “Phải chăng Tôn giả Uruvela Kassapa phục tùng sự giáo hóa của bậc Đại Sa-môn, hay là bậc Đại Sa-môn phục tùng sự hướng đạo tu hành của Tôn giả Uruvela Kassapa?” Lúc ấy, đức Thế Tôn nghĩ thầm: “Ta sẽ cho hội chúng thấy rằng Kassapa đã phục tùng sự giáo hóa của Ta.” Rồi Ngài ngâm kệ này:
Thấy gì Hiền giả Kassapa,
Người ở rừng Uruvela,
Lừng lẫy tiếng tăm về khổ hạnh,[60]
Sao ông từ bỏ lửa thiêng xưa?
Kassapa hỡi, nghe Ta hỏi,
Sao bỏ tế đàn với lửa kia?
Lúc ấy, vị Trưởng lão đã hiểu rõ ý nghĩa câu hỏi của đức Phật liền đáp kệ này:
Tế lễ nói lên ngũ dục trần,
Sắc, thanh, hương, vị với giai nhân,
Và khi biết những điều như thế,
Chỉ thấy trong đời sống thế gian,
Đều bất tịnh, con không thích thú,
Tế đàn dâng lễ cúng thiên thần.
Rồi để tỏ ra mình là đệ tử Phật, vị Tỷ-kheo này đặt đầu lên chân đức Phật và nói:
– Đức Thế Tôn là Đạo sư của con, con là đệ tử của Ngài.
Nói xong ông bay lên không bảy lần đến ngọn một cây cọ dừa (tāla), hai cây cọ dừa cho đến bảy cây cọ dừa rồi trở xuống đảnh lễ đức Thế Tôn và ngồi qua một bên. Hội chúng trông thấy việc hy hữu như thế liền tán thán uy danh của bậc Đạo sư, đồng nói to:
– Cao cả thay thần lực của đức Phật! Nên mặc dù đã tin tưởng vững chắc vào uy lực của mình, mặc dù tự cho mình là Thánh nhân, Tôn giả Uruvela Kassapa cũng đã phá bỏ mọi vọng chấp sai lầm và xin quy y với đức Như Lai.
Bậc Đạo sư đáp:
– Việc ấy cũng không kỳ diệu gì khi ngày nay Ta đã đạt thắng trí viên mãn và giáo hóa vị này, vì ngày xưa, khi Ta còn là một Bà-la-môn tên gọi Nārada và còn tham đắm dục lạc, Ta cũng đã phá tan mọi vọng chấp sai lạc của ông ấy và khiến ông ấy phải quy phục.
Rồi theo lời thỉnh cầu của thính chúng. Ngài kể câu chuyện sau đây.
***
Ngày xưa, ở thành Mithilā trong quốc độ Videha có một vị minh quân trị vì rất đúng pháp tên là Aṁgati.[61] Lúc bấy giờ, chánh hậu của ngài đang mang thai một công chúa xinh đẹp đầy ân phúc tên gọi Rujā,[62] có công hạnh rất lớn và là người đã phát đại nguyện suốt một trăm ngàn kiếp. Mười sáu ngàn phi tần kia của ngài đều không có con. Vì thế, công chúa này rất được yêu quý nâng niu.
Hằng ngày, ngài thường ra lệnh ban cho nàng hai mươi lăm giỏ đầy hoa các loại và xiêm y lộng lẫy để nàng trang sức, lại ban cho nàng một ngàn đồng tiền để nàng bố thí các thức ăn uống tràn trề, mỗi tháng hai lần.
Lúc bấy giờ, ngài có ba vị cận thần tên gọi Vijaya, Sunāma và Alāta. Vào một ngày rằm tháng tư, cả kinh thành và cung điện được trang hoàng lộng lẫy như cảnh thiên giới. Sau khi đức vua đã tắm gội, xức dầu thơm và trang sức đủ loại ngọc ngà trân bảo, ngài cùng các cận thần ngự lên thượng lầu, mở cửa sổ nhìn mặt trăng tròn đang lên cao dần trên bầu trời quang đãng. Ngài bảo các cận thần:
– Đêm trăng này thật thú vị quá, các khanh muốn cùng ta hưởng lạc thú gì chăng?
***
Bậc Đạo sư giải thích việc này như sau:
1153. Một vì vua xứ Videha,
Tên gọi Aṁgati, thuở xưa,
Có lắm cỗ xe, tài sản quý,
Binh hùng tướng mạnh kể sao vừa.
1154. Một đêm trăng sáng ngày mười lăm,
Canh một sắp qua, ánh nguyệt rằm,
Tháng thứ tư mùa mưa mới đến,
Vua liền tụ họp các quần thần.
1155. Vijaya, tướng Alāta,
Cùng với đại thần Sunāma,
Là các Trí nhân, tươi nét mặt,
Thông minh, kinh nghiệm đủ phò vua.
1156. Videha hỏi chúng triều đình:
“Hãy nói ý mình muốn, mỗi khanh,
Nay đúng tháng tư, đêm mãn nguyệt,
Mây mờ không phủ ánh trăng thanh,
Đêm nay ta có gì vui thú,
Tiêu khiển thời giờ ấy thật nhanh?”
Cứ thế khi được vua hỏi đến, mỗi vị cận thần nói lên nguyện ước của lòng mình.
Bậc Đạo sư giải thích việc này như sau:
1157. Tướng Alāta vội tâu liền:
“Bệ hạ! Xin cho tập hợp binh,
Tất cả vui tươi thêm khí thế,
Binh hùng, tướng mạnh, đấu tài tình.
1158. Theo ý hạ thần, ta chiến chinh,
Lượng đông vô số chàng hùng binh,
Ta đi thu phục người chưa phục,
Và xứ nào chưa phụ thuộc mình.”
1159. Vừa nghe lời của Alāta,
Sunāma bèn vội nói là:
“Bệ hạ! Kẻ thù tất cả đã,
Quy hàng, dưới trướng của ngài mà.
1160. Kẻ thù đã bỏ hết gươm đao,
Họ đã chịu theo, chịu cúi đầu,
Đại lễ hôm nay rất đặc biệt,
Hạ thần không thích đánh binh nhau.
1161. Xin hãy làm liền, khẩn cấp mang,
Thật nhiều ẩm thực, món cao sang,
Đại vương, xin hãy vui say dục,
Vũ điệu, hát ca, các loại đàn.”
1162. Nghe xong lời của Sunāma,
Vijaya bèn vội nói là:
“Tất cả dục thường luôn đủ sẵn,
Khi cần là phục vụ nhà vua.
1163. Bệ hạ thích vui các dục nào,
Thì ngài đạt được dễ làm sao!
Tuy rằng có chúng luôn không khó,
Nhưng ý đó thần nghĩ chẳng cao.
1164. Chúng ta nên hầu cận Sa-môn,
Hay vị Bà-la-môn hiểu thông,
Thánh điển am tường, rõ nghĩa lý,
Dẹp ngay nghi hoặc của ta xong.”
1165. Nghe xong lời của Vijaya,
Vua Aṁgati mới phán là:
“Theo ý Vijaya khẩn tấu,
Trẫm nay cũng thấy hỷ hoan ngay!
1166. Chúng ta nên hầu cận Sa-môn,
Hay vị Bà-la-môn hiểu thông,
Thánh điển am tường, rõ nghĩa lý,
Dẹp ngay nghi hoặc của ta xong.
1167. Tất cả thực thi ý kiến này,
Vậy hầu cận trí giả nào đây?
Vị mà thánh điển đầy thông hiểu,
Nghĩa lý am tường, dẹp mối nghi.”
1168. Nghe lời Vua Videha khuyên,
Tướng Alāta bèn tấu liền:
“Vườn Lộc Uyển kia có đạo sĩ,
Được xem là bậc Trí tinh chuyên.
1169. Vị Guṇa dòng Kassapa,
Học cao, thuyết pháp thật tài ba,
Đông nhiều đệ tử, ngài nên đến,
Vị ấy phá tan nghi của ta.”
1170. Nghe qua lời của Alāta,
Vua thúc giục liền quan thủ xa:
“Ngươi hãy đưa xa giá thắng sẵn,
Chúng ta đi Migadāya.”
1171. Xa giá của vua được thắng nhanh,
Bằng ngà voi đẹp, bạc viền quanh,
Nhiều đồ bóng láng và tinh sạch,
Xa giá trắng xinh tựa mặt trăng.
1172. Tứ mã thắng đây là giống Sindh,
Sắc màu hoa súng trắng xinh xinh,
Chúng phi như gió và thuần thục,
Lại có đeo đai, lục lạc vàng.
1173. Sắc màu xa giá trắng tinh anh,
Lọng, mã, quạt cùng trắng bạch thanh,
Vua với đại thần cùng khởi tiến,
Ngài trông rực rỡ tựa vầng trăng.
1174. Nhiều kẻ theo hầu cho anh quân,
Đế vương vĩ đại thật oai hùng!
Bao nhiêu dũng sĩ trên lưng ngựa,
Mạnh mẽ bên mình mang giáo gươm.
1175. Đi trong chốc lát đến nơi kia,
Vị Khattiya bước xuống xe,
Vua Videha cùng các tướng,
Bộ hành tới lõa thể Guṇa.
1176. Lúc ấy tại đây tựu rất đông,
Có nhiều gia chủ, Bà-la-môn,
Nhưng vua cũng vẫn không ra lệnh,
Bảo họ lui ra khỏi đất vườn.
Ngài ngồi qua một bên, được vây quanh bởi thính chúng gồm đủ hạng người như vậy, rồi ngài làm lễ yết kiến vị ẩn sĩ kia.
Bậc Đạo sư giải thích vấn đề này như sau:
1177. Sau đó vua ngồi ở một bên,
Dưới là một chiếc gối êm êm,
Đặt trên chiếc thảm nhiều màu sắc,
Nhẹ trải ra mời ngài ngự lên.
1178. Khi đã ngự an chỗ ấy xong,
Đức vua thân thiện hỏi thăm ông:
“Thưa ngài, nuôi sống ra sao vậy?
Thân được điều hay gió mạnh không?
1179. Nếp sống của ngài có khó khăn?
Việc đi khất thực đủ ngài ăn?
Bệnh đau ít ỏi phải không ạ?
Đôi mắt có suy giảm, yếu chăng?”
1180. Đạo sĩ Guṇa đáp hỷ hoan,
Khi Videha rất quan tâm,
“Đại vương, bần đạo mạng nuôi đủ,
Hai việc kia đều được ổn an.
1181. Xin hỏi Đại vương Videha,
Những vùng biên giới giương oai ra?
Các con vật kéo xe không bệnh?
Các cỗ xe đều nhanh, chạy xa?
Thân ngài không bệnh nào trầm trọng,
Mà khiến cho ngài khổ, thán ca?”
1182. Được hoan hỷ đáp, vua anh minh,
Thủ lãnh xa binh, yêu lý kinh,
Liên tục hỏi về nghĩa, giáo pháp,
Và phương cách áp dụng cho mình.
1183. “Kính thưa Tôn giả Kassapa,
Khi một con người đối mẹ cha,
Đối với vợ con, thầy dạy học,
Thế nào là đúng pháp, hài hòa?
1184. Cư xử thế nào với trưởng tôn,
Với Sa-môn, các Bà-la-môn,
Và quân binh với cả dân chúng,
Xin hỏi làm sao mới chánh chân?
1185. Thế nào người đúng pháp lâm chung,
Họ được đi về chốn phúc cung?
Còn những người tà pháp lúc chết,
Lại rơi địa ngục lúc sau cùng?”
Vì lúc ấy không có một vị Phật Chánh Đẳng Giác xuất hiện, cũng không có một vị Độc Giác Phật, một vị Thánh đệ tử của chư Phật hay một bậc đại trí nào nên vua hỏi liên tiếp các vấn đề đáng được nêu ra của một vị quốc vương cho một đạo sĩ lõa thể không hiểu biết gì và lại mù quáng tựa trẻ thơ. Vừa khi được hỏi như vậy, ông đã không trả lời phù hợp câu hỏi mà nhân cơ hội tâu ngay:
– Tâu Đại vương, xin Đại vương nghe đây!
Rồi ông tuyên thuyết tà pháp của mình như kẻ dùng cây đánh con bò trong khi nó đang đi, hay giống kẻ đang ném rác rưởi vào bát cơm.
***
Bậc Đạo sư giải thích vấn đề như sau:
1186. Nghe xong lời của Videha,
Đạo sĩ Kassapa nói là:
“Bệ hạ, xin nghe bần đạo đáp,
Đây điều chân thật, chẳng sai ngoa.
1187. Không hề có quả ác hay lành,
Cho những ai theo pháp thực hành,
Không có đời sau, tâu Bệ hạ!
Bởi ai từ đấy đến đây sanh?
1188. Tâu Bệ hạ! Không có tổ tông,
Từ đâu có mẹ, cha, hay ông?
Không người được gọi là thầy dạy,
Vì có ai thuần được kẻ ngông?
1189. Chúng sinh bình đẳng và tương đương,
Nên chẳng có người kính trưởng tôn,
Không có sức cường hoặc nỗ lực,
Từ đâu nhân loại khởi sinh, vươn?
Các chúng sinh thì theo định mệnh,
Như thuyền theo bánh lái mà nương.
1190. Con người được nhận phần nên nhận,
Như thế từ đâu quả thí sanh?
Bệ hạ! Không hề có quả thí,
Sự tinh tấn trở thành vô năng.
1191. Vật thí được người ngu phát ban,
Được người có trí nhận thu phần.
Những người bất lực, thực hành thí,
Kẻ ngốc nghĩ rằng mình Trí nhân.
Sau khi diễn giảng sự vô ích của bố thí, ông lại tiếp tục giải thích tội chướng không có công năng tạo nghiệp quả:
1192. Bảy uẩn thân bền, không vỡ, động,
Đó là hỏa, địa, thủy và phong,
Cộng thêm lạc, khổ, cùng đời sống,
Chẳng thấy điều làm chúng vỡ tung.
1193. Nếu dùng gươm chặt, xuyên bằng đao,
Giữa bảy uẩn thân cũng chẳng sao,
Không một thân nào bị sát hại,
Không điều làm chúng chết, rời nhau.
1194. Ai nắm đầu người rồi xuống tay,
Dùng thanh gươm bén chặt đầu ngay,
Cũng không phải chặt thân người ấy,
Quả ác từ đâu sanh khởi đây?
1195. Tám mươi bốn đại kiếp luân hồi,
Qua hết, chúng sanh sẽ sạch thôi,
Chưa đến thời gian đằng đẵng ấy,
Sạch trong chẳng được, dù rèn tôi.
1196. Dù đã làm nhiều điều tốt hay,
Thời chưa đến, họ chẳng trong ngay,
Dù cho làm ác nhiều đi nữa,
Họ cũng không qua thời hạn này.
1197. Tám mươi bốn đại kiếp trôi qua,
Lần lượt có trong sạch của ta,
Không thể nào ta vượt định mệnh,
Giống như biển chẳng vượt bờ xa.
Cứ thế, kẻ theo “thuyết Đoạn kiến” ấy đã dốc lòng bám quanh, củng cố lý lẽ riêng của chính mình.
1198. Nghe lời đạo sĩ nói vừa xong,
Alāta bèn vội mở lòng:
“Theo những lời mà Đại đức thuyết,
Thì tôi cũng thỏa niềm trông mong.
1199. Tôi nhớ kiếp vừa sống trước đây,
Trong luân hồi của bản thân này,
Tôi là một thợ săn thành phố,
Kẻ giết bò, tên Piṅgala.
1200. Tại thành Bārāṇasī giàu,
Tội ác tôi gây tạo biết bao,
Tôi đã giết đi nhiều mạng sống,
Các loài súc vật heo, dê, trâu.
1201. Chết từ nơi ấy, đến đây sinh,
Vào một gia đình tướng phú vinh,
Quả ác rõ ràng là chẳng có,
Tôi không đến địa ngục hành hình.”
1202. Bấy giờ, nô lệ Bījaka,
Là gã nghèo hèn, rách rưới qua,
Đến chỗ của Guṇa đạo sĩ,
Gã này giữ Bố-tát ngày trai.
1203. Nghe xong lời của Kassapa,
Cả đáp lời từ Alāta,
Gã vội thở dài và bức xúc,
Khóc liền, nước mắt tuôn trào ra.
1204. Vua Vedeha hỏi gã nô:
“Vì sao ngươi khóc, nói nguyên do,
Điều chi ngươi đã nghe hay thấy,
Cảm thọ thế nào? Hãy đáp cho!”
1205. Nghe xong lời của Vedeha,
Nô lệ Bījaka đáp là:
“Cảm thọ khổ đau con chẳng có,
Đại vương! Xin hãy lắng nghe qua.
1206. Con nhớ kiếp rồi con được sanh,
Bản thân thọ sung sướng, vui an,
Con là triệu phú tên Bhāva,
Ở Sāketa, thích đức lành.
1207. Tâm thuần, con thích phát ban ra,
Đại phú, Bà-la-môn ngợi ca,
Con nhớ bản thân con rất rõ,
Chưa từng tạo nghiệp ác, điều tà.
1208. Tâu đức vua, từ đó chết đi,
Con vào trong bụng một nô tỳ,
Người này nghèo khổ, đội khuân nước,
Con lúc sanh ra đã khổ nguy.
1209. Dù phải lâm vào cảnh khó khăn,
Con đây nguyện sống cho công bằng,
Ai mà thiếu thốn, đang mong mỏi,
Con sớt chia liền nửa bữa ăn.
1210. Vào mùng mười bốn và mười lăm,
Luôn giữ gìn trai giới tịnh thanh,
Cũng chẳng giết sinh linh, hại chúng,
Cử kiêng trộm cắp, gắng tu tâm.
1211. Có lẽ là toàn hạnh nghiệp trồng,
Tích công bồi đức, quả bằng không,
Con cho là giới kia vô ích,
Như tướng Alāta nói xong.
1212. Có lẽ con đây vận xấu chê,
Như người lừa bịp chưa lành nghề,
Còn Alāta thì may mắn,
Bài bạc khéo chơi đã vững nghề.
1213. Con chẳng nhìn đâu thấy cửa đi,
Đến nơi cõi phúc, cảnh vui vầy,
Đại vương! Chính bởi nguyên do đó,
Nghe đạo sĩ xong, khóc lệ đầy.”
1214. Nghe Bījaka trình tâu xong,
Vua Aṁgati liền phán rằng,
“Không có cửa vào cõi lạc phúc,
Bījaka chờ định mệnh mà mong!
1215. Dẫu là hạnh phúc hoặc bi ai,
Thật sự là do định mệnh bày,
Tất cả nhờ luân hồi được tịnh,
Thời chưa đến, chớ vội người ơi!
1216. Trẫm bận việc lành mãi, trước đây,
Bà-la-môn, phú gia trình hoài,
Trẫm còn chỉ phán xử nhiều việc,
Nên lãng quên bao dục lạc đầy.”
Nói vậy xong, vua tạ từ ẩn sĩ:
– Thưa Tôn giả Kassapa, từ lâu nay trẫm thật là xao lãng, nhưng bây giờ trẫm đã tìm ra được một vị sư trưởng. Vậy từ nay trẫm sẽ tuân theo lời dạy của Tôn giả, trẫm sẽ an hưởng dục lạc mà thôi, dù có nghe thuyết pháp cũng không ngăn cản được trẫm đâu. Xin Tôn giả ở lại, trẫm đi đây!
Và vua nói:
1217. “Thưa Tôn giả, hẹn gặp ngài sau,
Nếu có dịp nào hội ngộ nhau.”
Vua nói xong rồi liền cất bước,
Trở về cung điện Videha.
Thoạt tiên, khi vua đến viếng Guṇa, ngài chào vị này rất cung kính rồi nêu câu hỏi ra, nhưng khi ngài giã từ, ngài chẳng chào hỏi gì nữa. Vì Guṇa không đúng như danh truyền, vì bất xứng nên chẳng được đảnh lễ, vả lại càng ít được cúng dường thức ăn, v.v… Qua đêm đó, rạng sáng ngày hôm sau, vua triệu tập quần thần lại và bảo:
– Các khanh hãy chuẩn bị đủ mọi thứ dục lạc, từ nay trẫm sẽ chỉ theo đuổi dục lạc, các khanh đừng nói việc gì khác trước mặt trẫm, hãy để những vị này vị kia ra chấp chánh trị dân!
Và từ đó vua chìm đắm trong việc hưởng lạc.
***
Bậc Đạo sư giải thích việc này như sau:
1218. Sau khi đêm ấy đã dần tan,
Vua Aṁgati lại vội vàng,
Cho triệu đại thần đến điện họp,
Và rồi vua khởi phán lời rằng:
1219. “Truyền bày biện tại Candaka,
Dục lạc luôn đầy cung điện ta,
Chớ để ai vào yết kiến, hỏi,
Dù là vì việc công hay tư.
1220. Vijaya với Sunāma,
Thêm một tướng tài Alāta,
Ba vị đều rành việc phán xử,
Nên ngồi giải quyết mọi kêu ca.”
1221. Vedeha phán điều này xong,
Tràn ngập biết bao dục ở lòng,
Không phải bận phiền việc chấp chánh,
Không tìm gia phú, Bà-la-môn.
1222. Sau đó vào đêm mười bốn kia,
Có nàng công chúa tên Rujā,
Được Vua Vedeha yêu quý,
Công chúa bèn thưa nhũ mẫu là:
1223. “Xin hãy mau trang điểm giúp con!
Nô tỳ làm đẹp nhanh cho con!
Mai là thiên nhật, rằm, trăng sáng,
Con sẽ vào cung gặp phụ hoàng.”
1224. Các nô tỳ đến, mang tràng hoa,
Lại có chiên-đàn quý giá thoa,
Ma-ni, xà cừ, trân bảo đẹp,
Và thêm tấm vải thắm nhiều màu.
1225. Công chúa ngồi trên chiếc ghế vàng,
Bao nhiêu tỳ nữ vây quanh nàng,
Điểm trang, phục sức cho công chúa,
Tôn dáng nàng thêm rực rỡ, sang.
1226. Rujā đầy đủ mọi tư trang,
Đi giữa các nô tỳ của nàng,
Khi tiến vào cung Candaka,
Tựa như ánh chớp giữa mây ngàn.
1227. Khi đến gần vua, nàng Rujā,
Là người chuộng luật, lễ vua cha,
Sau rồi an tọa kề bên ấy,
Trên một ghế xinh có khảm vàng.
1228. Và Vedeha thấy con ngoan,
Ở giữa các nô tỳ một đoàn,
Công chúa tựa thần tiên rạng rỡ,
Vua cha bèn nói những lời rằng:
1229. “Con thích cái hồ ở nội cung,
Có hay xuống giỡn vui, vừa lòng?
Họ thường đem đến con đầy đủ,
Các loại cao lương mỹ vị không?
1230. Thiếu nữ thường hay hái các bông,
Rồi xâu chúng lại thành từng vòng,
Tự làm nhà nhỏ, khu riêng biệt,
Thích thú vui đùa, giỡn chạy rông?
1231. Còn thứ gì con thiếu thốn chăng?
Bảo người lập tức mang cho con,
Này con, công chúa mặt thuần sáng,
Hãy nghĩ, dù cho tựa hái trăng!”
1232. Nghe xong lời nói Vedeha,
Công chúa Rujā mới đáp là:
“Toàn bộ thứ này đều đủ cả,
Vì con ở cạnh đức vua cha!
1233. Ngài mai thiên nhật, ngày mười lăm,
Xin bảo đem cho con một ngàn,
Có số tiền vua cha tặng ấy,
Con đây thí mọi kẻ bần hàn.”
1234. Nghe xong lời nói của Rujā,
Vua Aṁgati vội bảo là:
“Lợi ích, quả sanh đâu chẳng thấy,
Vì con, bao của cải tiêu pha.
1235. Vào ngày trai giới, con hành trì,
Giữ giới, thường không ăn uống chi,
Việc chẳng uống ăn là luật định,
Kẻ không ăn uống, phước sanh gì?
1236. Thật sự, bản thân Bījaka,
Nghe xong lời của Kassapa,
Thở dài, bức xúc liền than khóc,
Nước mắt không ngừng lã chã sa.
1237. Rujā đang sống thì con ngoan,
Đừng bỏ thọ dùng các bữa ăn!
Con quý yêu, đời sau chẳng có!
Điều vô ích mà cực chi con?”
1238. Nghe Vedeha nói xong rồi,
Rujā, nàng công chúa rạng ngời,
Người biết việc nào sau hoặc trước,
Bèn trình lên phụ vương đôi lời:
1239. “Trước kia con có nghe điều này,
Con cũng đã từng chứng kiến đây,
ʻAi hễ gần thân với kẻ dốt,
Trở thành như kẻ dốt, ngu si.ʼ
1240. Đã ngu mà đến với người ngu,
Thì sẽ thêm ngu xuẩn, chẳng vơi,
Alāta và Bījaka,
Họ ngu là phải, Phụ vương ơi!”
Sau khi cả hai trách nhau như vậy, nàng giải thích để vua cha thoát khỏi tà kiến:
1241. Phụ vương, người có trí tuệ hơn,
Thông suốt, rõ rành về lý chơn,
Sao lại theo tà kiến kém cỏi,
Như là đứa trẻ, rất ngây thơ?
1242. Nếu trong sạch được qua luân hồi,
Thì Guṇa tu vô nghĩa rồi!
Kẻ muội ngu hành kiểu lõa thể,
Như thiêu thân thấy lửa vào thôi.
1243. Khi trước theo tà kiến nói rằng:
“Qua luân hồi sẽ được trong thanh”
Nhiều người vô trí làm không đúng,
Tai hại trói vây, tội đã làm.
Bây giờ muốn thoát, quả là khó!
Tựa cá mắc câu dính chặt hàm.
Nàng đưa thêm ví dụ:
1244. Con sẽ nêu thêm ví dụ vào,
Phụ vương đạt lợi ích lớn lao,
Vì nhờ ví dụ mà người trí,
Hiểu được rõ ràng ý nghĩa sâu.
1245. Như con tàu của các thương buôn,
Chuyên chở nặng nề, vô lượng luôn,
Quá tải trọng tàu nên bị khiến,
Tàu chìm xuống đáy biển tan hoang.
1246. Và cũng vậy khi có một người,
Tích dần điều ác, chẳng buông lơi,
Đến khi điều ác kia nhiều quá,
Địa ngục phải vào, khổ chẳng nguôi.
1247. Xin tâu Chúa tể địa cầu này,
Tội ác Alāta chửa dày,
Ông chất chứa thêm nhiều ác nữa,
Theo đây ông đọa cảnh bi ai.
1248. Xin tâu Chúa tể địa cầu này,
Phước báu ông làm lúc trước đây,
Có quả sanh cho ông ấy hưởng,
Chính là ông được sướng vui vầy.
1249. Phước báu của ông cạn kiệt dần,
Do vui trong những việc vô lương,
Sau khi từ bỏ con đường chánh,
Ông đuổi theo sai hướng, trái đường.
1250. Như đòn cân ở thế thăng bằng,
Khi chẳng có gì trên đĩa cân,
Nhưng lúc đặt vào một vật nặng,
Đầu cân lập tức được nâng lên.
1251. Và cũng vậy khi có một người,
Tích dần điều thiện, chẳng buông lơi,
Như Bījaka hướng thiên giới,
Thích thú nhiều nơi quả tốt vui.
Việc hiện nay phải chịu thân phận nô lệ không phải từ quả của thiện nghiệp kia. Ở đây nên hiểu là việc ác đã làm trong quá khứ của người này dẫn đến thân phận nô lệ. Nàng giải thích ý nghĩa này như sau:
1252. Hiện nay nô lệ Bījaka,
Nhận thấy đau khổ của gã ta,
Là bởi ác hành trong quá khứ,
Đến giờ gã thọ quả sanh ra.
1253. Tội ác gã kia cạn kiệt đi,
Do vui vì giữ giới thường khi,
Đã đi đến chỗ Kassapa,
Cha hỡi, đừng theo tà đạo chi!
Rồi nàng lại tiếp tục phô bày tội chướng của việc gây ác nghiệp cùng lợi ích của việc thân cận bạn lành:[63]
1254. Khi ta thân cận một người nào,
Người tốt hay là xấu dẫu sao,
Có giới hay là không có giới,
Ta theo ảnh hưởng ấy dần sau.[64]
1255. Dẫu người bạn của ta như nào,
Và mức độ thân cận cạn, sâu,
Ta cũng trở thành người thế ấy,
Đồng hành, chung sống sẽ như nhau.
1256. Kẻ nào thân thiết những tha nhân,
Hay kẻ mà đang tiếp xúc gần,
Như mũi tên kia đã tẩm độc,
Làm lan cả bó trong bao tên.
Vì sợ nhiễm lây mà bậc Trí,
Không làm bạn với ác, tà gian.
1257. Nếu người bọc xác cá hôi ươn,
Với dải kusa, cỏ cát tường,
Cỏ sẽ có mùi hôi thúi ấy,
Cũng vậy kết giao kẻ dại cuồng.
1258. Nhưng nếu người ta bọc cỏ hương,
Vào trong một chiếc lá thông thường,
Lá thơm mùi nhẹ nhàng êm dịu,
Cũng vậy kết giao bậc Trí nhân.
1259. Hiểu về cách lá bọc đồ hàng,
Biết ảnh hưởng nào cho bản thân,
Người trí chẳng đi theo kẻ ác,
Chỉ theo thân cận bậc Hiền lành.
Kẻ ác dẫn ta vào địa ngục,
Người hiền giúp đạt cõi vui an.
Sau khi thuyết pháp cho phụ vương qua sáu bài kệ ấy xong, công chúa bày tỏ nỗi khổ đau mà nàng phải chịu đựng trong các tiền thân xa xưa:
1260. Nhớ về chính bản thân luân hồi,
Bảy kiếp mà con đã nổi trôi,
Và vị lai, đi thêm bảy kiếp,
Khi nào con chết ở đây rồi.
1261. Đời thứ bảy xưa, tâu Phụ vương,
Con đây nam tử thợ rèn thường,
Sinh ra ở Rājagaha,
Thành phố thuộc vùng Magadha.
1262. Con đến bạn bè xấu, ác tâm,
Nên con làm việc ác nhiều lần,
Lại xâm phạm vợ người khác,
Cứ sống như là bất tử nhân.
1263. Nghiệp này được trữ và vùi yên,
Giống lửa dưới tro cháy dở dang,
Rồi cộng thêm vào bao nghiệp khác,
Con sanh ra tại nước Vaṁsa.
1264. Trong phú gia, thành Kosambī,
Nhà giàu, nhiều của, ít ai bì,
Con là nam tử độc duy ấy,
Thường được cưng chiều, rất quý yêu.
1265. Nơi đó con thân cận bạn lành,
Người này thích quả thiện lai sanh,
Đa văn túc trí, hay tương trợ,
Người đã giúp con có lạc an.
1266. Vào ngày mười bốn và mười lăm,
Trai giới nhiều đêm con trọn hành,
Nghiệp ấy được tàng lưu, tích trữ,
Như kho báu dưới nước, yên nằm.
1267. Rồi nhiều quả xấu ác sanh ra,
Từ nghiệp tạo nơi Magadha,
Quả dần xoay chuyển giờ con gặp,
Như đã uống ăn trúng độc tà.
1268. Chết đi từ đó, tâu vua cha,
Con đọa địa ngục Roruva,
Bị nấu nung lâu vì sở nghiệp,
Mỗi khi nhớ lại, tâm không an.
1269. Ngục kia con ở rất nhiều năm,
Phải chịu biết bao nỗi khổ nàn,
Con lại sanh làm dê đực thiến,
Tại Bheṇṇākaṭa,[65] Phụ hoàng!
Con dê đực nhỏ ấy có sức mạnh, bị người leo lên lưng và phải chở họ đi, nó cũng phải mang ách kéo cỗ xe nhỏ. Nàng nói rõ ý nghĩa này như sau:
1270. Con chở quý nam tử được cưng,
Bằng xe kéo với cả trên lưng,
Đó là bởi quả nghiệp không thiện,
Theo đuổi vợ người, con đã từng.
Sau khi chết ở đó, con đầu thai vào bụng một con khỉ trong rừng. Ngày con sinh ra đời, con được đem đến trình cho con khỉ đầu đàn, nó nắm lấy chặt và bảo: “Đưa cho ta, con trai!” Rồi nó cắn hạ căn của con cho đứt lìa dù con kêu thét lên.
Nàng diễn tả sự việc này qua vần kệ sau:
1271. Từ đó chết đi, con đến nơi,
Đầu thai làm khỉ rừng xa xôi,
Khỉ đầu đàn cắn hạ căn đứt,
Hậu quả do săn đuổi vợ người.
Kế đó, nàng thuật tiếp các tiền thân khác:
1272. Từ đó chết qua Dasaṇṇa,
Con làm bò đực, tâu vua cha,
Hiền lành, nhanh nhẹn, hạ căn thiến,
Chịu đựng lâu dài kéo cỗ xa.
Đây là quả của nghiệp khi trước,
Thân cận vợ người kiếp đã qua.
1273. Từ đó chết qua xứ Vajjī,
Làm con trong một danh gia kia,
Không là nam cũng chẳng là nữ,
Có được thân người chẳng dễ chi!
Đó là bởi quả nghiệp không thiện,
Theo đuổi vợ người, con xá chi.
1274. Rồi sanh ở Nandana viên,
Nơi đẹp tươi của Đao-lợi thiên,
Là một nữ thần xinh tuyệt thế,
Mỹ miều dung sắc như tâm nguyền.
1275. Xiêm áo của con rực đủ màu,
Bông tai ngọc báu điểm tô vào,
Con đây múa hát rất điêu luyện,
Theo Đế-thích làm một nữ hầu.
1276. Lúc con ở tại cung trời ấy,
Con nhớ rõ thông những kiếp này,
Và vị lai đi thêm bảy kiếp,
Khi nào con chết từ nơi đây.
1277. Điều tốt làm nơi Kosambī,
Chuyển xoay dần đến đúng thời kỳ,
Từ đây mà chết con sanh tới,
Thiên giới và nhân giới thường khi.
1278. Trong suốt bảy kiếp, thưa Phụ vương,
Con luôn được quý trọng, yêu thương,
Tuy trong kiếp thứ sáu con vẫn,
Không thoát khỏi thân phận nữ nương.
1279. Kiếp thứ bảy này như ước mong,
Trở thành thiên tử đại thần thông,
Con là thiên nam ở nơi ấy,
Uy thế tối cao, thiên chúng đông.
1280. Thiên nữ vẫn còn đang kết hoa,
Tại vườn thượng uyển Nandana,
Và rồi thiên tử tên Java,
Là vị nhận cho con chuỗi hoa.
1281. Thời gian một buổi trên trời bằng,
Mười sáu năm tròn cõi thế nhân,
Và một ngày đêm thiên giới ấy,
Bằng trăm năm chẵn của nhân gian.
1282. Nghiệp cứ đi như vậy với ta,
Cho dù vô số kiếp kinh qua,
Nghiệp kia dẫu thiện hay là ác,
Cũng vẫn không bị hủy hoại ra.
Rồi kế đó, nàng tuyên pháp tối thượng:
1283. Nam nhân muốn sẽ được thành người,
Mỗi kiếp sanh thân, mỗi một đời,
Nên tránh xa vợ của kẻ khác,
Tựa người chân sạch tránh bùn dơ.
1284. Nữ nhân muốn sẽ được thành người,
Mỗi kiếp sanh thân, mỗi một đời,
Nên kính trọng chồng cho đúng mực,
Như tỳ thiếp đối với thiên vương.
1285. Người ham của cải ở thiên đàng,
Hạnh phúc, thọ lâu, danh tiếng vang,
Thì phải lánh xa các việc ác,
Nên hành ba loại pháp đàng hoàng.
1286. Đó là thông qua ý, khẩu, thân,
Không phóng dật và hiểu rõ ràng,
Lợi lạc bản thân, sống ý nghĩa,
Cho dù là nữ hay là nam.
1287. Bất cứ một ai ở cõi này,
Có danh, mọi của cải tràn đầy,
Do hành ba pháp tốt khi trước,
Dù mỗi chúng sanh nghiệp khác sai.
1288. Thưa Phụ vương, xin tự gẫm suy,
Sao cha có những nữ nhân đây?
Trông như thần nữ khéo trang điểm,
Lại có áo choàng vàng thế này.
Nàng khuyên bảo vua cha như vậy.
***
Bậc Đạo sư giải thích sự việc như sau:
1289. Như vậy, Rujā công chúa ngoan,
Đã làm cho phụ vương hài lòng,
Vì nàng giải thích đạo hay rõ,
Và pháp cho vua cha bất thông.
Sau khi đã giảng pháp cho vua cha nghe suốt đêm đến rạng sáng ngày hôm sau, nàng bảo:
– Tâu Phụ vương, xin đừng nghe lời kẻ tà thuyết lõa thể kia mà hãy theo lời bạn lành như con đây đang tâu với Phụ vương rằng có đời này và đời sau, có nghiệp quả thiện, ác! Xin Phụ vương đừng lạc vào tà đạo!
Tuy nhiên, nàng vẫn chưa đủ khả năng giải thoát vua cha khỏi tà thuyết của ngài. Ngài chỉ đẹp ý khi nghe những lời lẽ êm dịu của con, vì các bậc cha mẹ tự nhiên yêu thích lời lẽ của con cái họ, nhưng họ lại không chịu từ bỏ những ý kiến riêng của mình. Thế là trong kinh thành vang lên lời đồn đãi: “Công chúa Rujā đang cố đánh tan các tà kiến bằng cách giảng Chánh pháp.” Và dân chúng rất hoan hỷ: “Công chúa hiền đức sẽ giải thoát vua cha khỏi tà thuyết và sẽ đem lại phồn vinh cho dân chúng.”
Tuy nhiên, dù công chúa chưa đủ khả năng làm vua cha tỉnh ngộ, nàng vẫn không ngã lòng, thoái chí mà vẫn quyết tâm tìm phương tiện đem lại chân hạnh phúc cho vua cha. Nàng chắp tay lên đỉnh đầu lễ bái khắp mười phương, nàng nguyện cầu:
– Trong thế gian này có vị Sa-môn và Bà-la-môn chân chính phù hộ người đời, có chư thiên ngự trị khắp nơi, lại có các vị Đại Phạm thiên, kính xin các vị đến giúp cho vua cha của tiện nữ từ bỏ tà kiến hoặc nếu quý vị không có đủ tự lực, xin quý vị đến đây theo uy lực và công đức của tiện nữ để xua tan tà thuyết này và đem lại hạnh phúc cho toàn thể thế gian!
Lúc bấy giờ, Bồ-tát là vị Đại Phạm thiên tên gọi Nārada. Các vị Bồ-tát đầy lòng từ bi, lân mẫn và uy lực thỉnh thoảng hay phóng nhãn quang nhìn người thiện, kẻ ác trên thế gian. Ngày hôm ấy, ngài nhìn xuống thế gian thấy công chúa đang cầu nguyện chư thiên ngự trị khắp nơi đến giải thoát vua cha khỏi tà thuyết, ngài nghĩ thầm: “Trừ ta ra không ai có thể xua tan tà thuyết được, ta phải đến ngay hôm nay tỏ lòng từ ái với công chúa và mang lại hạnh phúc cho đức vua cùng dân chúng. Ta sẽ khoác bộ áo nào đây? Các ẩn sĩ tu hành thường được người đời yêu kính, lời lẽ của các vị ấy thường được xem là đáng tín thọ, vậy ta sẽ khoác áo ẩn sĩ.”
Thế là ngài hóa ra hình tướng thế nhân rất khả ái với làn da như vàng ròng, mái tóc bện lại được ghim bằng cây kim vàng. Sau khi mặc y trong bằng vải nhuộm và y ngoài bằng vải thô từ sợi vỏ cây nhuộm, ngài lại khoác lên vai tấm da nai đen làm bằng bạc lấm tấm điểm sao vàng ánh, cầm bình bát khất thực bằng vàng đeo lủng lẳng bằng một chuỗi ngọc, trên vai ngài đặt chiếc đòn gánh bằng vàng có ba mấu, cầm bình nước bằng san hô được buộc bằng chuỗi ngọc trai. Với bộ trang phục ấy, ngài liền phi thân qua bầu trời chẳng khác nào vầng trăng sáng rực giữa không gian rồi bước vào thượng lầu của cung Candaka, đứng sừng sững trước mặt vua.
***
Bậc Đạo sư giải thích việc này như sau:
1290. Rồi Bồ-tát Nārada này,
Từ cõi Phạm thiên đến cõi người,
Quan sát xứ Jambudīpa,
Ngài nhìn thấy rõ Aṁgati.
1291. Ngài ngừng lại chỗ tòa lâu đài,
Phía trước nhà Vua Vedeha,
Khi thấy vị này đã đến chỗ,
Rujā lễ ẩn sĩ nơi đây.
Vua choáng váng trước vẻ huy hoàng của vị Phạm thiên nên không thể ngồi yên trên ngai vàng mà vội bước xuống đất, hỏi lý do ngài giáng lâm cùng danh hiệu, gia tộc của ngài.
Bậc Đạo sư giải thích sự việc như sau:
1292. Rồi vua liền xuống khỏi ngai mình,
Tâm trí ngạc nhiên đến thất kinh,
Để hỏi vị Nārada ấy,
Vua dùng lời lẽ sau thưa trình.
1293. Ngài đến từ đâu, dáng thánh thần,
Như vầng trăng chiếu sáng đêm trường,
Nói cho ta biết tên, gia tộc,
Người gọi là gì giữa thế nhân?
Nārada nghĩ thầm: “Vị vua này không tin tưởng có đời sau, vậy ta phải nói cho vua biết về đời sau.” Rồi ngài ngâm kệ:
1294. Ta đến đây từ hội chúng thiên,
Như vầng trăng chiếu sáng đêm đen,
Ta nêu danh tánh cùng gia tộc,
Kassapa, Nārada, họ tên.
Vua nghĩ thầm: “Lát nữa ta sẽ hỏi ngài về đời sau, bây giờ ta hãy hỏi ngài về mục đích việc giáng trần vi diệu này.”
1295. Điều như thế thật diệu kỳ thay,
Giữa khoảng không, ngài đi đứng tài!
Ta muốn hỏi ngài đây một việc,
Lý do ngài có thần thông này?
Nārada đáp:
1296. Chân thật, công bằng, chế ngự mình,
Rộng lòng bố thí đã lừng danh,
Nhờ công đức thực hành tinh tấn,
Như ý nguyện mình, ta lướt nhanh.
Ngay cả lúc ngài nói như vậy, vua cũng không thể tin vào đời sau bởi vì tà kiến đã ăn sâu, vua liền hỏi: “Có quả của phước thiện sao?” rồi ngâm kệ:
1297. Ngài đã nói điều kỳ diệu này
Là do phước thiện tựu thành đây,
Nếu điều này đúng như ngài nói,
Xin trả lời cho trẫm thẳng ngay!
Nārada đáp:
1298. Đây việc của ngài, hỡi Đại vương,
Hỏi ta điều cảm thấy nghi nan,
Hiển nhiên ta đáp cho ngài rõ,
Nhờ lý luận, bằng chứng rõ ràng.
Vua liền hỏi:
1299. Nārada, trẫm hỏi điều này,
Đừng trả lời sai câu hỏi đây,
Thật có chư thiên hay tổ phụ,
Đời sau như bọn chúng đồn vầy?
Nārada đáp:
1300. Thật có thiên thần với tổ tiên,
Đời sau như chúng vẫn nêu lên,
Nhưng người tham dục và mê đắm,
Không biết đời sau bởi đảo điên.
Khi nghe điều này, vua cười to và ngâm kệ:
1301. Nārada, nếu đã tin rằng,
Có cõi cho người chết trú thân,
Đưa trẫm năm trăm đồng bạc gấp,
Đời sau trẫm sẽ trả ngàn đồng.
Thế rồi bậc Đại sĩ đáp lời, khiển trách vua ngay giữa hội chúng:
1302. Ta đưa ngài đủ số năm trăm,
Nếu biết ngài hiền đức, rộng lòng,
Nhưng nếu ngài là người độc ác,
Đọa vào trong địa ngục đày thân,
Còn ai đòi được ngài đem trả,
Đời kế, ngàn đồng ấy được không?
1303. Khi một người thù ghét thiện lương,
Chỉ yêu tội lỗi lại hung tàn,
Trí nhân chẳng muốn cho vay mượn,
Kẻ nợ ấy không thể đáo hoàn.
1304. Khi người ta biết kẻ tài năng,
Đức hạnh, tinh chuyên lại rộng lòng,
Họ sẽ mời người kia mượn của,
Bằng nhiều lợi lạc họ đem dâng,
Khi người kia đã làm xong việc,
Người sẽ bồi hoàn nợ đã mang.
Vua bị quở trách như vậy vẫn chưa hiểu, còn hoang mang. Hội chúng rất hoan hỷ, reo to:
– Vị thiên có đại thần lực vi diệu sẽ giải thoát Đại vương khỏi tà kiến ngay hôm nay.
Và cả kinh thành chấn động lên. Rồi nhờ thần lực của bậc Đại sĩ, không một ai ở trong phạm vi bảy do-tuần quanh thành Mithilā không được nghe ngài thuyết pháp. Lúc ấy, bậc Đại sĩ suy nghĩ: “Nhà vua đã quá chấp thủ tà kiến, ta sẽ làm cho vua hiểu nỗi kinh hoàng của địa ngục mà bỏ tà kiến đi, sau đó ta sẽ trấn an vua bằng cõi chư thiên.” Rồi ngài bảo vua:
– Tâu Đại vương, nếu Đại vương không bỏ tà kiến ấy đi, Đại vương sẽ bị đọa vào địa ngục chịu thống khổ không ngừng.
Và ngài bắt đầu kể đến các loại địa ngục khác nhau:
1305. Đại vương, khi giã biệt đời này,
Ngài sẽ thấy diều, quạ cả bầy,
Vồ xé xác ngài trong địa ngục,
Và kên kên nữa, máu me đầy,
Còn ai bắt được ngài, đời kế,
Đem trả ngàn đồng ấy đã vay?
Sau khi tả địa ngục Diều Quạ xong, ngài nói tiếp:
– Nếu Đại vương không đọa vào đó, Đại vương phải ở trong địa ngục nằm giữa các cõi.
Rồi ngài ngâm kệ miêu tả địa ngục ấy:
1306. Ở đó tối tăm thật mịt mùng,
Và không vầng nhật hoặc vầng trăng,
Ngục này hỗn độn và kinh khủng,
Chẳng biết ngày đêm, chẳng tháng năm,
Còn kẻ nào mong đòi món nợ,
Ở nơi như vậy nữa hay chăng?
Sau khi tả địa ngục ở giữa các cõi ấy thật đầy đủ chi tiết, ngài bảo:
– Tâu Đại vương, nếu Đại vương không chịu từ bỏ tà thuyết ấy, không những Đại vương phải chịu khổ hình này mà còn nhiều khổ hình khác nữa.
Rồi ngài ngâm kệ:
1307. Con chó Sabala dáng khổng lồ,
Cùng Sāma lực lưỡng nhào vô,
Dùng răng cắn xé người tan xác,
Kẻ đọa từ đây đến ngục tù.
Các địa ngục kể tiếp cũng có cùng một quy luật như vậy, vì thế các địa ngục này và các cai ngục được ngài mô tả qua các bài kệ thật súc tích, những ngôn từ tượng hình như trong các đoạn trên:
1308. Vậy khi ở ngục bị tan thân,
Vì thú dữ hành hạ bạo hung,
Thân xác tả tơi, dòng máu chảy,
Còn ai đòi trả nợ ngàn đồng?
1309. Với cung tên, nhọn hoắt giáo gươm,
Quản ngục Kāḷūpakāḷa,
Đâm chém trọng thương người phải đọa,
Trước kia phạm tội ở nhân gian.
1310. Trong khi kẻ ấy chạy lang thang,
Trong ngục, bị đâm ở bụng, sườn,
Gan ruột nát tan dòng máu chảy,
Ai mong đòi nó một ngàn đồng?
1311. Trời mưa xuống các loại tên, đao,
Các khí cụ hành tội, cọc, lao,
Đám lửa rơi như than cháy bỏng,
Trời mưa đá tảng trút ào ào.
1312. Luồng gió nóng ran thật hãi hùng,
Thổi vào trong ngục mạnh không cùng,
Không vì vui thú dù giây lát,
Nó chạy quanh không chốn trú thân.
Còn ai muốn bắt người kia trả,
Đời kế ngàn đồng ấy được không?
1313. Bị buộc vào xe đang chạy nhanh,
Trên nền đất rực lửa hoành hành,
Biết bao gậy nhọn dài kìm thúc,
Ai muốn đòi ngàn bạc cho đành?
1314. Khi trèo lên ngọn núi kinh hoàng,
Bừng cháy các dao xé nát thân,
Máu chảy đầm đìa, ai sẽ muốn,
Đời sau đòi nó một ngàn chăng?
1315. Khi nó trèo lên một đống than,
Đỏ hừng như núi lửa kinh hoàng,
Toàn thân cháy, thét gào đau khổ,
Ai muốn đòi ngàn bạc ấy chăng?
1316-17. Lớp cây dày đặc đến tầng mây,
Có cọc sắt đâm hút máu ngay,
Người nữ, nam săn vợ kẻ khác,
Phải trèo lên đó, bị từng bầy,
Quỷ Diêm-la chúa luôn xua đuổi,
Mang các giáo dài ở dưới tay.
1318-19. Khi nó trèo lên cây vải bông,
Toàn thân đầy máu chảy ròng ròng,
Lột da, bị cháy, khổ kinh khiếp,
Bức bối thở than, bám ngọn bông,
Để đền tội ác xưa như vậy,
Ai muốn đòi tiền nợ cũ không?
1320-21. Có những rừng cao đến đám mây,
Lá rừng là kiếm sắt tràn đầy,
Thiết đao uống máu người đày đọa,
Khi nó trèo lên đám lá cây,
Thân nó bị cưa bằng kiếm sắt,
Nát tan, máu chảy hãi hùng thay!
Ai mong đòi nó trong đời kế,
Trả nợ ngàn đồng nó đã vay?
1322. Khi nó vừa ra khỏi ngục này,
Phủ đầy lá sắt giữa rừng cây,
Liền vào sông Vetaraṇī,
Ai muốn đòi tiền nợ cũ đây?
1323-24. Dòng sông xiết Vetaraṇī,
Khốc liệt, nước sôi sục ngập tràn,
Bao phủ lá, hoa sen bén nhọn,
Trong khi nó bị đuổi trên sông,
Máu me bao phủ, tay chân đứt,
Dòng nước Vetaraṇī hãi hùng,
Chẳng có một nơi nào trú ẩn,
Ai mong đòi nợ nó hay không?
Và giờ đây, sau khi nghe bậc Đại sĩ mô tả về địa ngục, vua cảm thấy rất sợ hãi, muốn tìm nơi an trú nên nói với ngài:
1325. Trẫm sợ tựa cây đang bị cưa,
Hoang mang, không biết hướng cho vừa,
Giày vò vì sợ, sợ kinh khủng!
Khi được nghe ngài nói kệ qua.
1326. Vật cháy gặp dòng nước mát trong,
Như cù lao giữa biển bão, đầy dông,
Như đèn khi tối đen đêm đến,
Ngài chính là nơi trú trẫm mong.
1327. Xin dạy trẫm kinh và nghĩa hay,
Trẫm đây quá khứ tội tràn đầy,
Xin ngài chỉ trẫm đạo thanh tịnh,
Tránh địa ngục kia, khỏi đọa đày!
Sau đó, bậc Đại sĩ dạy vua con đường thanh tịnh bằng cách nêu gương các bậc tiên vương đã hành trì chánh đạo:
1328. Như các Vua Dhataraṭṭha,
Vessāmitta, Aṭṭhaka,
Yāmataggi và Sivi,
Luôn cả Vua Usinnara,
Trước đây họ hết lòng hầu cận,
Các Sa-môn và Bà-la-môn.
1329. Tất cả họ cùng những Đại vương,
Đã lên cõi Đế-thích thiên đường,
Đức vua hãy tránh xa tà pháp,
Và nỗ lực hành pháp chánh chân!
1330. Hãy cho người bưng các đồ ăn,
Ngay tại cung vua rồi báo rằng,
Thành phố này ai đang đói, khát?
Ai cần hoa đẹp, dầu thơm hương?
Đang có vải nhiều, màu sắc khác,
Ai không đồ đến nhận y choàng.
1331. Ai nhận dù, giày dép đẹp, mềm,
Đi đường thuận tiện mát và êm,
Hãy cho thông báo trong thành phố,
Từ buổi sáng rồi đến tối đêm.
1332. Xin chớ bàn giao việc nhọc, bừa,
Cho người, bò, ngựa già, như xưa,
Xin vua ban bố sự chăm sóc,
Vì lúc mạnh làm xong việc qua.
Như vậy, bậc Đại sĩ sau khi thuyết giảng cho vua về bố thí và đức hạnh, thấy rằng vua sẽ hoan hỷ khi được ví với một cỗ xe nên ngài tiếp tục thuyết pháp cho vua qua hình ảnh một cỗ xe như ý (ban mọi điều ước):
1333. Thân thể của vua là cỗ xe,
Ý tâm được nhẹ, người điều xe,
Lúc không hãm hại, trục xe chuyển,
Bố thí rộng lòng là mái che.
1334. Kiềm bước chân là vành bánh xe,
Kiềm bàn tay là cái khung xe,
Kiềm nơi bụng, ổ trục lăn nhẹ,
Kiềm khẩu thì không cót két xe.
1335. Lời chân là các phần xe cân,
Lời chẳng thọc đâm, điều khiển êm,
Lời dịu hòa, toàn phần tốt đẹp,
Lời cân nhắc, kết dính lâu bền.
1336. Khéo tạo bằng niềm tin, chẳng tham,
Khiêm cung, tay chấp, gọng xe ngang,
Càng xe, không cúi luồn, ương ngạnh,
Hộ trì giới luật, xe được ràng.
1337. Không sân giận, tức xe không rung,
Học rộng tạo thành ván dựa lưng,
Thiện pháp tạo nên cây lọng trắng,
Tâm kiên trì, miếng đệm ngồi an.
1338. Biết lúc nào, cần yếu của tâm,
Tự tin là cái chống ba chân,
Hạnh khiêm tốn tạo sợi dây buộc,
Không quá mạn thì ách nhẹ nhàng.
1339. Tâm chẳng thối lui tức nệm trường,
Tiến tu là sạch bụi đường mang,
Bậc Hiền trí có niệm, cây thúc,
Gắn bó, kiên trì, các sợi cương.
1340. Tâm thuần thục dẫn đúng đường đi,
Như cỗ xe kéo ổn định, hay,
Mong muốn, tham lam, đường sái quấy,
Tự mình thu thúc, con đường ngay.
1341. Xe lao đến sắc, thinh, hương, vị,
Trí tuệ ra tay trị, lái đi,
Tâu Bệ hạ, trong trường hợp ấy,
Bản thân là chính người điều xe.
1342. Nếu chiếc xe này được ổn an,
Được làm vững chắc và kiên gan,
Thì xe đem lại mọi điều ước,
Địa ngục không vào, khỏi khổ nàn.
– Như vậy, tâu Đại vương, ta đã dùng nhiều cách trình bày cho Đại vương đạo thanh tịnh mà ngài đã yêu cầu Nārada nói rõ để tránh đọa vào các địa ngục.
Sau khi thuyết giảng Chánh pháp cho vua và phá tan mọi tà kiến cùng an trú vua vào giới hạnh, ngài lại khuyên vua từ nay xa lánh bạn ác, thân cận với bạn lành và cẩn trọng trong mọi bước tiến. Rồi ngài tán thán mọi đức hạnh của công chúa, nói lời khuyến tu cho cả triều đình cùng các cung phi xong, ngài liền bay về Phạm thiên giới với thần lực vĩ đại siêu phàm.
***
Sau khi chấm dứt pháp thoại, bậc Đạo sư bảo:
– Này các Tỷ-kheo, không những ngày nay mà từ xưa, Ta đã giáo hóa Uruvela Kassapa và phá tan lưới tà kiến vây chặt vị ấy.
Rồi Ngài nhận diện tiền thân qua các vần kệ cuối cùng:
1343. Devadatta chính Alāta,
Bhaddaji chính là Sunāma,
Sāriputta chính là Vijaya,
Moggallāna chính là Bījaka.
1344. Sunakkhatta, dân Licchavī,
Xưa lõa thể, là Guṇa đạo sĩ,
Rujā đã giáo hóa quân vương đó,
Chính là thị giả Ānanda.
1345. Uruvela Kassapa,
Là vị vua tà kiến xấu xa,
Đại Phạm thiên là Bồ-tát ấy,
Các ông ghi nhớ bổn sinh vầy.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.