Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 07  » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »

Kinh Tiểu Bộ Quyển 3 
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch

Mục Lục

§544. CHUYỆN CANDAKUMĀRA (Candakumārajātaka)[54] (J. VI. 129)

Ngày xưa có một vị hôn quân...

Trong lúc trú tại Gijjhakūṭa (núi Linh Thứu), bậc Đạo sư đã kể câu chuyện này liên quan đến Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa).

Nội dung câu chuyện có trong Chương kẻ phá hòa hợp Tăng chúng [thuộc Tạng luật]. Chuyện được Như Lai nói rõ kể từ khi vị này xuất gia đến khi mưu sát Vua Bimbisāra (Tần-bà-sa-la). Ngay sau khi Devadatta đã lập mưu sát hại vua này, ông liền đi tìm Vua Ajātasattu (A-xà-thế) và nói:

– Tâu Đại vương, ý nguyện của ngài đã thành, nhưng ý nguyện của ta chưa thành.

Vua trả lời:

– Ngài muốn gì?

– Thật sự ta muốn cho người giết đấng Thập Lực và ta sẽ trở thành đức Phật.

– Vậy thì ta phải làm sao đây?

– Ta phải tập hợp các tay thiện xạ lại.

Vua chấp thuận, truyền triệu tập năm trăm người thiện xạ có thể bắn cung nhanh như chớp, trong số đó chỉ lựa ra ba mươi mốt người, đưa họ đến gặp Devadatta và bảo họ phải tuân lệnh ông. Ông gọi người trưởng đoàn ra dặn:

– Này hiền hữu, Sa-môn Gotama đang sống trên núi Linh Thứu, hằng ngày Ngài thường kinh hành trong tịnh thất vào một thời điểm nào đó. Vậy bạn hãy đến đó bắn Ngài với tên tẩm thuốc độc, khi đã giết hại Ngài xong, hãy trở về bằng con đường này!

Rồi ông lại cho hai người thiện xạ đi theo con đường kia, bảo họ:

– Các vị sẽ gặp một người trên đường đi, hãy giết người ấy và trở về bằng con đường này!

Ông lại cho bốn người thiện xạ đi đường kia với lời dặn dò như vậy. Sau đó, ông lại dặn thêm tám người, rồi mười sáu người thiện xạ như trên. Tại sao ông làm như vậy? Chính là để che giấu sự thâm độc của mình.

Thế rồi, người trưởng đoàn thiện xạ buộc kiếm bên sườn trái, bao đựng tên bên lưng, cầm lấy chiếc cung làm bằng sừng dê và đi đến chỗ đức Như Lai trú ngụ. Nhưng sau khi ông giương cung lên và nhắm mũi tên để bắn Ngài, lại không thể thả dây cung được, toàn thân cứng đờ như thể bị đè bẹp. Ông cứ đứng đó kinh hoàng với nỗi sợ chết.

Khi bậc Đạo sư nhìn thấy ông, Ngài liền nói với giọng dịu dàng:

– Đừng sợ, hãy đến đây!

Ông lập tức ném vũ khí và vừa nói vừa sụp người xuống đảnh lễ chân Thế Tôn:

– Bạch đức Thế Tôn, tội lỗi đã trấn áp con như một đứa trẻ, như một tên khùng hoặc một tên tội nhân. Trước đây con không biết công hạnh của Ngài, con đã đến theo lệnh của lão già điên rồ mù quáng Devadatta để lấy mạng của Ngài, con xin Ngài tha mạng cho!

Ông lạy cầu xin tha tội và ngồi qua một bên. Lúc ấy, bậc Đạo sư tuyên thuyết các sự thật cho ông nghe, khiến ông chứng quả Dự lưu. Ngài bảo ông trở về bằng con đường khác với con đường mà Devadatta đã dặn. Còn Ngài bước ra khỏi lối đi có mái che và ngồi xuống một gốc cây.

Trong khi người bắn cung thứ nhất chưa trở về, hai người kia đi trên con đường dự định gặp người này và băn khoăn không hiểu tại sao ông lại chậm trễ như vậy, cuối cùng họ nhìn thấy đức Phật. Khi đến đảnh lễ đức Phật xong, họ ngồi xuống bên Ngài. Ngài lại tuyên thuyết các sự thật cho họ nghe khiến cả hai người cùng chứng quả Dự lưu. Rồi Ngài bảo họ trở về bằng con đường khác với con đường mà Devadatta đã ra lệnh. Cứ như thế những tay thiện xạ kia lần lượt đi đến, ngồi xuống nghe Ngài thuyết pháp, được an trú vào quả Dự lưu và được Ngài bảo đi về bằng một con đường khác.

Rồi khi người thiện xạ đầu tiên trở về gặp Devadatta, ông nói:

– Bạch Sư trưởng, tôi không thể nào giết bậc Toàn Giác được, Ngài là đấng Toàn Năng, đức Thế Tôn đầy đủ mọi uy lực siêu phàm.

Như vậy, cả toán thiện xạ nhận ra là họ đã thoát chết nhờ bậc Toàn Giác nên họ xuất gia sống đời tu hành theo Ngài và trở thành các bậc A-la-hán. Sự kiện này được cả hội chúng Tỷ-kheo biết và một ngày kia họ bắt đầu nói đến chuyện này trong pháp đường:

– Này các Tỷ-kheo, các vị có nghe chuyện Devadatta, vì thù ghét một người là đức Thế Tôn mà đã quyết tâm làm thiệt mạng nhiều người và rồi những người này lại được chính đức Thế Tôn cứu mạng như thế nào không?

Lúc ấy, bậc Đạo sư bước vào hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông đang ngồi nói chuyện gì đấy?

Khi chúng Tỷ-kheo đáp lại, Ngài bảo:

– Đây không phải là lần đầu tiên mà trước đây kẻ ấy cũng đã quyết hại nhiều mạng người chỉ vì thù ghét Ta.

Rồi Ngài kể câu chuyện quá khứ.

***

Ngày xưa, thành Bà-la-nại có tên là Pupphavatī. Thái tử của Vua Vasavatti lên ngôi trị vì tại đó tên là Ekarāja và con của vua là Vương tử Canda làm phó vương. Một Bà-la-môn tên gọi Khaṇḍahāla là vị tế sư của vương tộc. Ông làm cố vấn cho vua trong mọi vấn đề thế sự cũng như thánh sự và vua rất tôn trọng tài trí của ông nên để ông làm phán quan. Nhưng ông lại thích hối lộ, thường nhận của đút lót và tước đoạt tài sản của nhiều người trao cho người khác làm chủ.

Một ngày kia, có người thua kiện, bước ra khỏi tòa án lớn tiếng than phiền, khi thấy Vương tử Canda đi ngang qua để bái yết vua cha, gã liền quỳ xuống. Vương tử hỏi sự tình, gã đáp:

– Tâu Chúa công, Khaṇḍahāla bóc lột các kẻ thưa kiện khi ông ta xử án, thần đã thua kiện mặc dù thần đã hối lộ ông ta rồi.

Vương tử bảo gã đừng sợ, rồi khi dẫn gã đến tòa án, chàng trả lại quyền sở hữu về các tài sản bị tranh tụng cho gã. Dân chúng reo hò hoan nghênh vang dội. Khi vua nghe được, hỏi lý do, họ đáp:

– Vương tử đã xử án phân minh một vụ kiện mà Khaṇḍahāla đã xử sai, vì thế có tiếng reo hò như vậy.

Khi vương tử đến chúc tụng, vua bảo:

– Này Vương nhi, dân chúng bảo con vừa xử án phân minh?

– Tâu Phụ vương, chính phải.

Vua liền trao tòa án cho vương tử và dặn vương tử từ nay được quyền xử án. Lợi lộc của Khaṇḍahāla giảm sút dần, từ đó ông ta sinh lòng thù ghét vương tử và rình rập cố tìm lỗi của chàng.

Lúc bấy giờ, vua rất ít tu tập nội tâm. Một buổi sáng kia, khi gần thức dậy, vua mơ thấy cõi trời Ba Mươi Ba với mái đình trang hoàng lộng lẫy, đường sá lót vàng, cao cả ngàn do-tuần, được điểm tô bằng cung Vejayanta và nhiều cung khác cùng với tất cả vẻ huy hoàng của lạc viên Nandana và nhiều cánh rừng khác với hồ Nanda và nhiều hồ khác nữa, khắp nơi đông đảo chư thiên. Vua muốn lên cõi trời và nghĩ thầm: “Khi Sư trưởng Khaṇḍahāla đến, ta sẽ hỏi ngài con đường lên thiên giới và ta sẽ lên đó nhờ con đường ngài chỉ dẫn.”

Sáng sớm hôm ấy, Khaṇḍahāla vào cung và vấn an vua xem ngài có được hưởng một đêm đầy mộng đẹp chăng. Vua liền truyền đem cẩm đôn cho ông ta ngồi rồi hỏi ngay vấn đề ấy.

Bậc Đạo sư diễn tả việc này như sau:

982. Ngày xưa có một vị hôn quân,

Ở xứ Puppha, gặp lúc cần,

Liền hỏi tế sư hèn hạ ấy,

Nghiệp tà, danh chánh Bà-la-môn.

983. “Ngài là bậc Trí, mọi người đồn,

Thánh điển am tường đủ mọi môn,

Hãy nói công năng gì dẫn lối,

Đưa đường hành giả đến thiên cung?”

Đây là câu hỏi mà trừ đức Phật Đại Giác hoặc các đệ tử của Ngài ra, phải hỏi một vị Bồ-tát; nhưng ở đây, vua đã đem ra hỏi Khaṇḍahāla, chẳng khác nào một người lạc đường bảy ngày lại đi hỏi đường một kẻ đã đi lạc nửa tháng. Ông tự nhủ: “Đã đến lúc ta trừ khử được kẻ thù của ta rồi, ta sẽ giết Vương tử Canda, thế là toại nguyện.” Ông liền nói với vua:

984. Hãy dâng nhiều lễ vật đầy tràn,

Giết những ai không đáng chết oan,

Nhờ vậy đạt công đức vĩ đại,

Người ta sẽ hưởng lạc thiên đàng.

Vua lại hỏi:

985. Những gì là lễ vật đầy tràn,

Những kẻ nào không đáng chết oan?

Ta sẽ giết người, dâng tế lễ,

Nếu ngài nói ý nghĩa cho tường.

Sau đó, ông giải thích ý nghĩa này:

986. Đem vợ con làm vật tế thần,

Phú thương quý tộc cũng tiêu vong.

Ngựa trâu tuyệt hảo, nòi cao quý,

Bốn loại tội đồ phải cúng dâng.

Như vậy, khi vua hỏi đường lên thiên giới, ông lại chỉ đường xuống địa ngục. Ông tự nhủ: “Nếu ta chỉ chọn một mình Vương tử Canda, mọi người sẽ nghĩ rằng ta làm thế vì thù ghét nó.” Cho nên ông đặt chàng vào chung với một số người khác. Khi vấn đề này được đem ra bàn tán, các vương phi nghe tin lòng đầy kinh hãi, đồng cất tiếng khóc than.

***

Bậc Đạo sư diễn tả việc này như sau:

987. Cung phi mỹ nữ biết tin này:

“Vương tử, vương phi phải đọa đày”,

Khóc thét bỗng nhiên vì sợ hãi,

Vang rền mọi phía tận trời mây.

Cả vương cung náo loạn như thể rừng cây sāla bị gió bão rung chuyển vào giờ tận thế, khiến lão Bà-la-môn phải hỏi vua xem ngài có thể thực hiện được việc tế lễ ấy không.

– Sao ngài lại hỏi thế, này Sư trưởng? Nếu ta dâng tế lễ, ta sẽ được lên thiên giới mà.

– Tâu Đại vương, những kẻ nào yếu hèn, không quyết chí thì không thể nào tế lễ kiểu này được. Xin Đại vương triệu họ về đây cả rồi bần đạo sẽ dâng lễ vật ở huyệt tế thần.

Thế rồi, ông ta đem đủ lực lượng cần thiết ra khỏi thành, bảo họ đào huyệt tế lễ với đáy bằng, có hàng rào bao quanh vì các Bà-la-môn từ thời xưa đã ra lệnh phải làm hàng rào quanh đàn tế, sợ rằng các vị chân tu có thể đến ngăn cản buổi lễ. Vua cũng ban lệnh cho quần thần:

– Ta sẽ được lên thiên giới bằng cách đem hết vợ con ra cúng tế, vậy các khanh hãy đi báo tin cho chúng rõ rồi mang chúng về đây!

Lập tức, vua ra lệnh đem các vương tử đến:

988. Báo Canda, kế Suriya,

Lần lượt Bhaddasena, biết ý ta,

Rồi đến Sūra, Vāmagotta,[55]

Chúng đều phải chết, ý vua cha!

Trước hết, bọn họ đi tìm Vương tử Canda và nói:

– Tâu Điện hạ, đức vua muốn đem tế ngài để được lên thiên giới nên ra lệnh cho chúng thần đi triệu ngài về.

– Phụ vương ra lệnh bắt ta theo lời khuyến dụ của ai thế?

– Tâu Điện hạ, theo lệnh của Khaṇḍahāla.

– Ngài muốn bắt một mình ta hay còn ai khác nữa?

– Tâu Điện hạ, còn nhiều người khác vì ngài muốn dâng lễ tế đủ bốn loại lễ vật.

Vương tử nghĩ thầm: “Lão ấy không thù oán với những người kia, nhưng lão định cho họ chết chỉ vì thù oán ta đã ngăn chặn lão phạm tội ăn hối lộ qua việc xử án bất công của lão. Vậy ta có phận sự phải đi yết kiến vua cha xin ngài thả các người kia ra mới được.” Rồi chàng bảo họ:

– Các ngươi cứ thi hành lệnh của phụ vương!

Họ liền đem chàng đến sân chầu ngồi một mình tại đó xong lại đem các người kia đến để gần chàng rồi tâu với vua. Sau đó, vua ra lệnh đem các công chúa đặt bên các người kia:

989. Upaseṇī, Kokilā,

Lần lượt Muditā, Nandā,

Bảo các công nương đều phải chết,

Thật là kiên định, ý vua cha!

Vì thế, họ liền đi đem các công chúa đang kêu gào đến đặt cạnh các vương tử. Rồi vua lại ngâm kệ ra lệnh bắt các vương phi:

990. Trước tiên Vương hậu Vijayā,

Erāvatī, Kesinī, Sunandā,

Với mọi sắc hương đầy diễm lệ,

Chúng đều phải chết, ý nguyện ta!

Họ liền đem các vương phi đang gào khóc đến đặt cạnh các vương tử. Rồi vua lại ngâm kệ ra lệnh bắt bốn phú thương của hoàng gia:

991. Puṇṇamukha, Bhaddiya,

Lần lượt Siṅgāla, Vaddha,

Bảo các phú thương nghe thượng lệnh,

Chúng đều phải chết, ý nguyện ta!

Đám thị vệ tuân lệnh ra đi. Khi các vương tử và vương phi bị bắt, dân chúng không nói gì. Nhưng các phú thương có rất nhiều quyến thuộc nên cả kinh thành náo động khi họ bị bắt và dân chúng la ó phản kháng việc đem họ ra tế lễ. Vì thế, họ cùng quyến thuộc kéo đến yết kiến vua. Lúc ấy, các phú thương được quyến thuộc vây quanh xin nhà vua tha mạng.

***

Bậc Đạo sư diễn tả việc này như sau:

992. Các phú thương kêu khóc não nùng,

Được vây quanh bởi các thân nhân:

“Đầu này xin cạo làm nô lệ,

Nhưng hãy tha cho mạng chúng thần!”

Nhưng dù họ van xin đến mức nào đi nữa, họ cũng không được vua thương xót. Các thị vệ của vua bắt những người quyến thuộc lui ra để kéo các phú thương đến cạnh các vương tử. Sau đó, vua ra lệnh đem voi ngựa và trâu dê đến:

993-94. Đem cả đàn vương tượng đến đây,

Sức voi vô địch, quý cao thay,

Ngựa, lừa chọn giống nòi ưu thắng,

Tất cả cùng dâng tế lễ này!

995. Hãy chọn ngưu vương loại đứng đầu,

Chúng là tặng vật quý dường bao,

Các thầy tế tự sắp hành lễ,

Sẽ có vật dâng cúng tối cao!

996-97. Hãy chuẩn bị cho tế lễ này,

Sẵn sàng ngay trước rạng ngày mai,

Bảo vương nhi đãi đằng như ý,

Thọ hưởng cuộc đời buổi tối nay!

Lúc bấy giờ, thái thượng hoàng và hoàng thái hậu vẫn còn sống nên dân chúng kéo đến tâu cho hai vị biết việc dự định tế lễ của vua. Hai vị xiết bao kinh hoàng vội đến khóc lóc với vua:

– Vương nhi hỡi, có thật con định làm một cuộc tế lễ như vậy chăng?

Bậc Đạo sư diễn tả việc này như sau:

998. Mẫu hậu vội rời khỏi nội cung,

Việc kỳ quái vậy nghĩa gì chăng?

Bốn vương tôn thảy đều đem giết,

Cho đủ lễ dâng hiến bạo tàn.

Vua đáp lại:

999. Khi mất Canda, mất hết rồi,

Nhưng con chịu mất chúng mà thôi,

Vì nhờ tế lễ này cao trọng,

Con sẽ được an trú cõi trời.

Mẫu hậu bảo:

1000. Đem cúng tế vương tử, hỡi con,

Chẳng bao giờ hưởng lạc thiên đường,

Đừng nghe lời dối gian như vậy,

Đây chính đường vào địa ngục môn.

1001. Con nên chọn đúng đạo minh quân,

Đem bố thí, dâng cả bạc vàng,

Đừng giết chúng sinh trên hạ giới,

Đây đường chắc chắn đến thiên đàng.

Vua đáp lại:

1002. Con phải vâng lời vị tế sư,

Giết con Canda, Suriya,

Chia lìa chúng thật đầy đau đớn,

Song được cõi trời, lợi lạc to!

Thế là hoàng thái hậu đành bỏ đi về, không thuyết phục được vua. Lúc ấy, thái thượng hoàng hay tin vội đến phản đối vua.

Bậc Đạo sư diễn tả việc xảy ra như sau:

1003. Đến lượt Vasavattī phụ vương,

“Hung tin làm hoảng hốt tâm can!

Bốn vương tôn thảy đều đem giết,

Cho đủ lễ dâng hiến bạo tàn?”

Vua đáp:

1004. Mất Canda và vương tử rồi,

Nhưng con chịu mất chúng mà thôi,

Vì nhờ tế lễ này cao trọng,

Con sẽ được an trú cõi trời.

Thái thượng hoàng bảo:

1005. Đem cúng tế vương tử, hỡi con,

Chẳng bao giờ hưởng lạc thiên đường,

Đừng nghe lời dối gian như vậy,

Đây chính đường vào địa ngục môn.

1006. Con nên chọn đúng đạo minh quân,

Đem bố thí, dâng cả bạc vàng,

Đừng giết chúng sinh trên hạ giới,

Đây đường chắc chắn đến thiên đàng.

Vua đáp:

1007. Con phải vâng lời vị tế sư,

Giết con Canda, Suriya,

Chia lìa chúng thật đầy đau đớn,

Song được cõi trời, lợi lạc to!

Cuộc đối thoại lại diễn ra như trên và cuối cùng vua cha không lay chuyển nổi con đành bỏ đi với lời từ biệt:

1008. Nên đem cho hết khả năng mình,

Đừng cố ý tàn hại hữu tình,

Để các vương tôn làm bảo vệ,

Hộ phòng đất nước khỏi điêu linh.

Lúc ấy, Vương tử Canda nghĩ thầm: “Thảm họa xảy đến cho nhiều người cũng chỉ vì ta, vậy ta hãy van xin phụ vương cho họ khỏi tội chết mới được.” Vì thế chàng tâu với vua cha:

1009. Xin làm nô lệ của Khaṇḍa,

Nhưng mạng chúng con, xin hãy tha,

Con sẽ canh bầy voi, lũ ngựa,

Mang xiềng làm việc thỏa lòng sư.

1010. Xin làm nô lệ của Khaṇḍa,

Nhưng mạng chúng con, xin hãy tha,

Con sẽ quét phân voi của lão,

Mang xiềng làm việc thỏa lòng sư.

1011. Xin làm nô lệ của Khaṇḍa,

Nhưng mạng chúng con, xin hãy tha,

Con sẽ quét phân ngựa của lão,

Mang xiềng làm việc thỏa lòng sư.

1012. Xin làm nô lệ của Khaṇḍa,

Nhưng mạng chúng con, xin hãy tha,

Hoặc bắt làm nô lệ tặng ai,

Chúng con tùy thánh ý an bài,

Hoặc đày tất cả ra ngoài nước,

Cầu thực tha phương ở xứ người.

Vua nghe chàng than khóc lòng đau đớn vô cùng, nước mắt chứa chan nên vua ra lệnh tha hết vợ con. Vua bảo:

– Không ai được giết các con ta, ta không cần thiên giới nữa!

1013. Những lời này tội nghiệp xin tha,

Làm trái tim ta tan nát ra,

Thả các vương nhi cho chúng thoát,

Thôi đừng tế lễ nữa vì ta!

Khi nghe vua nói vậy, thị vệ liền thả hết tội nhân ra, khởi đầu là các vương tử và sau cùng là bầy chim chóc. Lão Khaṇḍahāla đang bận rộn chuẩn bị việc đào huyệt tế lễ, có người đến mách lão:

– Này lão Khaṇḍahāla hung dữ kia, đức vua đã thả hết tất cả các vương tử rồi, vậy lão hãy đi giết hết lũ con lão mà lấy máu đem ra tế thần.

– Sao nhà vua làm gì vậy kìa?

Lão kêu lên và vội chạy đến tâu vua:

1014. Trước đây thần đã có tâu rằng,

Buổi lễ khó làm, khó thành công,

Giờ cớ gì ngài làm xáo trộn,

Lễ đàn được chuẩn bị gần xong?

1015. Người nào dâng lễ, bảo người dâng,

Luôn những người tùy hỷ tế đàn,

Tất cả người trong cuộc đại lễ,

Sẽ đều được đến cõi an nhàn.

Vua mù quáng nghe lời của lão Bà-la-môn đầy sân hận kia và tâm trí vua đã bị ám ảnh bởi vấn đề đạo giáo liền ra lệnh bắt vợ con lại. Lúc ấy, Vương tử Canda đem hết lẽ phải trái tâu với vua cha:

1016. Sao lúc sinh ra lũ chúng con,

Hão huyền chúc tụng Bà-la-môn,

Khi phần con trẻ là đành chết,

Vô tội nạn nhân của oán hờn?

1017. Sao cha tha mạng thuở thơ ngây,

Nhỏ dại biết đâu bất hạnh này?

Con trẻ hôm nay đành phải chết,

Giờ đang vui hưởng tuổi xuân đầy?

1018. Nghĩ lúc chúng con mặc giáp bào,

Trên voi ngựa, chiến trận xông vào,

Nay làm lễ vật dâng đàn tế,

Chẳng lẽ việc này hợp lý sao?

1019. Ở trong chiến địa hoặc rừng hoang,

Chống lại loạn thần, lũ chúng con,

Phục vụ thường xuyên, nay bảo giết,

Mà không lý lẽ hoặc nguyên nhân.

1020. Nhìn chim xây tổ ấm trên cây,

Ca hót líu lo suốt cả ngày,

Yêu dấu chim non chăm sóc kỹ,

Còn cha đem giết lũ con vầy?

1021. Cha đừng tưởng lão Bà-la-môn,

Phản bạn tha cha lúc vắng con,

Đến lượt cha theo con kế tiếp,

Chúng con không chỉ chết cô đơn!

1022. Vua thường ban đạo sĩ thôn làng,

Thành thị tối ưu chính đặc ân,

Trên mọi gia đình đều hưởng lợi,

Tạo nên tài sản thật cao sang.

1023. Chính bọn này đây, tâu phụ thân,

Sẵn sàng phản bội các ân nhân,

Bà-la-môn tộc, cha nên nhớ,

Là giống bất trung, lũ bội ân.

1024. Xin làm nô lệ của Khaṇḍa,

Nhưng mạng chúng con, xin hãy tha,

Con sẽ canh bầy voi, lũ ngựa,

Mang xiềng làm việc thỏa lòng sư.

1025. Xin làm nô lệ của Khaṇḍa,

Nhưng mạng chúng con, xin hãy tha,

Con sẽ quét phân voi của lão,

Mang xiềng làm việc thỏa lòng sư.

1026. Xin làm nô lệ của Khaṇḍa,

Nhưng mạng chúng con, xin hãy tha,

Con sẽ quét phân ngựa của lão,

Mang xiềng làm việc thỏa lòng sư.

1027. Xin làm nô lệ của Khaṇḍa,

Nhưng mạng chúng con, xin hãy tha,

Hoặc bắt làm nô lệ tặng ai,

Chúng con tùy thánh ý an bài,

Hoặc đày tất cả ra ngoài nước,

Cầu thực tha phương ở xứ người.

Vua nghe lời con oán trách liền kêu to:

1028. Những lời này tội nghiệp xin tha,

Làm trái tim ta tan nát ra,

Thả các vương nhi cho chúng thoát,

Thôi đừng tế lễ nữa vì ta!

Vua nói xong kệ này cũng thấy người nhẹ nhõm. Tế sư Khaṇḍahāla lại đến nói:

1029. Trước đây, thần đã có tâu rằng,

Buổi lễ khó làm, khó thành công,

Giờ cớ gì ngài làm xáo trộn,

Lễ đàn được chuẩn bị gần xong?

1030. Người nào dâng lễ, bảo người dâng,

Luôn những người tùy hỷ tế đàn,

Tất cả người trong cuộc đại lễ,

Sẽ đều được đến cõi an nhàn.

Nói xong, tế sư lại cố thực hiện. Vương tử bèn dùng lời thuyết phục vua cha:

1031. Nếu kẻ đem con trẻ tế đàn,

Thẳng lên thiên giới lúc lìa trần,

Để Bà-la-môn dâng con trước,

Sau đến lượt mình, tâu Phụ vương!

1032. Nếu kẻ đem con trẻ tế thần,

Thẳng lên thiên giới lúc lìa trần,

Tế sư sao chẳng hy sinh trước,

Đem chính các con của lão dâng?

1033. Khaṇḍahāla biết như vầy,

Sao chẳng giết con của lão đi?

Giết hết những người thân quyến ấy,

Và luôn cả lão, để làm chi?

1034. Ai tế lễ, hay khiến sai người,

Hoặc xem tế lễ dạ thích vui,

Việc hành cuộc lễ lớn như thế,

Họ sẽ đi vào địa ngục thôi!

1035. Nếu kẻ giết người được sạch trong,

Giết xong lại được lên tiên bồng,

Bà-la-môn hãy tương tàn giết,

Để tin vào điều họ mong!

Vương tử nói xong, thấy rằng không thể thuyết phục nổi cha liền quay qua dân chúng đang vây quanh vua và bảo họ:

1036-37. Làm sao các bậc mẹ cha này,

Đứng lặng yên nhìn, chẳng có ai,

Dù quý yêu con mình đến thế,

Cản ngăn vua giết các con ngài.

1038. Ta ao ước vương phụ vạn an,

Ta mong tâm các bạn hân hoan,

Nhưng không tìm được người nào để,

Phản đối nên lời trước phụ vương?

Nhưng vẫn không ai thốt một lời nào. Vương tử liền bảo các vương phi đến van xin vua tỏ lòng thương xót con:

1039. Này các vương phi hãy nguyện cầu,

Van xin sư trưởng, phụ vương mau,

Để tha vương tử này vô tội,

Khéo trổ tài chinh chiến biết bao.

1040. Hãy xin sư trưởng với minh quân,

Tha mạng vương nhi chẳng lỗi lầm,

Danh tánh đã vang lừng thế giới,

Là niềm vinh dự của non sông.

Bọn họ liền đến van xin vua tỏ lòng thương xót con nhưng vua chẳng chút quan tâm. Lúc ấy, vương tử quá tuyệt vọng nên bắt đầu than khóc:

1041. Nếu không sinh trưởng chốn triều đường,

Ở dưới mái tranh kẻ khốn cùng,

Hoặc thợ giày hay người quét rác,

Thì ta sẽ sống thật an toàn,

Đến tròn tuổi thọ không vong mạng,

Làm nạn nhân vua chúa bất thường!

Rồi chàng nói to:

1042-43. Đi mau tất cả các vương phi,

Đến trước Khaṇḍa, hãy lạy quỳ,

Bảo các nàng không làm hại lão,

Các nàng chẳng có tội tình gì!

Và em gái nhỏ nhất của Vương tử Canda tên là Selā cũng không thể chịu đựng được nỗi sầu khổ sau khi quỳ lạy dưới chân phụ vương nên đã than khóc.

Bậc Đạo sư diễn tả sự việc này như sau:

1044. Selā khóc, thấy các anh nàng,

Bị kết tội oan bởi phụ vương,

“Người bảo đây là đàn tế lễ,

Vì cha ta muốn đến thiên đàng.”

Nhưng vua cũng không quan tâm đến nàng. Đến lượt Vāsula, con của vương tử, thấy cha quá sầu thảm liền nói:

– Con sẽ cầu xin Thái thượng hoàng tha mạng cho cha.

Cậu bé quỳ xuống chân vua than khóc.

Bậc Đạo sư diễn tả sự việc như sau:

1045. Chập chững Vāsula bước chân,

Trên đường đi đến chiếc ngai vàng,

Xin tha mạng của cha con trẻ,

Đừng để chúng con mất phụ thân.

Vua nghe cậu bé than khóc, lòng đau như cắt liền ôm cháu vào lòng, giàn giụa nước mắt và bảo:

– Vương tôn hãy an tâm, ta sẽ trả phụ thân lại cho cháu đó.

Rồi vua ra lệnh:

1046. Này cha con đó, Vāsula,

Lời của trẻ thơ cảm hóa ta,

Tha các vương nhi cho chúng thoát,

Thôi đừng tế lễ nữa vì cha!

Một lần nữa, lão Khaṇḍahāla vội đến phản đối vua:

1047. Trước đây thần đã có tâu rằng,

Buổi lễ khó làm, khó thành công,

Giờ cớ gì ngài làm xáo trộn,

Lễ đàn được chuẩn bị gần xong?

1048. Người nào dâng lễ, bảo người dâng,

Luôn những người tùy hỷ tế đàn,

Tất cả người trong cuộc đại lễ,

Sẽ đều được đến cõi an nhàn.

Vị vua mù quáng lại nhượng bộ lão, ra lệnh bắt các vương tử như cũ. Lúc ấy, Khaṇḍahāla tự nhủ: “Nhà vua này lòng quá mềm yếu, khi thì đòi bắt các con, khi thì lại thả ra hết, bây giờ lại nghe theo lời trẻ con đòi thả chúng ra; thôi ta phải dẫn vua đến huyệt tế thần mới được.”

Lão liền ngâm kệ thúc giục vua:

1049. Đàn tế lễ nay đã sẵn sàng,

Kho tàng lễ vật tuyệt cao sang,

Đại vương mau hãy đi dâng lễ,

Rồi hưởng thiên cung cực lạc tràn!

Khi họ đem Bồ-tát đi đến huyệt tế thần, các cung phi theo sau thành một đoàn dài.

***

Bậc Đạo sư diễn tả cảnh ấy như sau:

1050. Bảy trăm cung nữ của Canda,

Rực rỡ yêu kiều giữa tuổi hoa,

Tóc xõa tơi bời, mắt đẫm lệ,

Theo anh hùng tận số đi xa.

1051. Nhiều phu nhân nhập bọn tùy tùng,

Trông dáng như tiên nữ giáng trần,

Với tóc tơi bời, mắt đẫm lệ,

Đi theo nối gót vị anh hùng.

Thế rồi, bọn họ đồng cất tiếng khóc than:

1052. Vải lụa Kāsi khoác tuyệt sang,

Đeo hoa tai, xức trầm, chiên-đàn,

Canda, Suriya lê bước,

Theo lệnh vua đưa đến tế đàn.

1053. Vải lụa Kāsi khoác tuyệt sang,

Đeo hoa tai, xức trầm, chiên-đàn,

Canda, Suriya lê bước,

Khiến mẫu hậu dường nát ruột gan.

1054. Vải lụa Kāsi khoác tuyệt sang,

Đeo hoa tai, xức trầm, chiên-đàn,

Canda, Suriya lê bước,

Khiến cả dân đau xót ngập tràn.

1055. Thọ bữa thịt cơm, tắm kỹ càng,

Đeo hoa tai, xức trầm, chiên-đàn,

Canda, Suriya lê bước,

Theo lệnh vua đưa đến tế đàn.

1056. Thọ bữa thịt cơm, tắm kỹ càng,

Đeo hoa tai, xức trầm, chiên-đàn,

Canda, Suriya lê bước,

Khiến mẫu hậu dường nát ruột gan.

1057. Thọ bữa thịt cơm, tắm kỹ càng,

Đeo hoa tai, xức trầm, chiên-đàn,

Canda, Suriya lê bước,

Khiến cả dân đau xót ngập tràn.

1058. Xưa ngự trên mình các thớt voi,

Oai phong lẫm liệt trước muôn người,

Nay Canda, Suriya ấy,

Đang bước lê chân cõi chết rồi.

1059. Xưa trên tuấn mã thật hiên ngang,

Theo kế là đàn mã hàng hàng,

Nay Canda, Suriya ấy,

Đang chịu khổ hình lê bước chân.

1060. Xưa trên xe quý thật oai phong,

Các cỗ xe theo cũng rất đông,

Nay Canda, Suriya ấy,

Đang phải lê chân bước nhọc lòng.

1061. Xưa lúc rời cung cưỡi ngựa sang,

Yên, cương, nai nịt điểm nhiều vàng,

Nay Canda, Suriya ấy,

Đang chịu khổ hình lê bước chân.

Trong lúc các vương phi đang khóc như vậy, thị vệ đem Bồ-tát ra khỏi kinh thành. Dân chúng cả kinh thành đều đi theo ngài trong cảnh đại hỗn loạn. Nhưng vì đám người quá đông đảo, cổng thành không đủ rộng cho họ đi ra nên lão Bà-la-môn sợ chuyện bất trắc có thể xảy ra liền ra lệnh đóng cửa thành lại. Vì thế, đám đông không thể đi ra được, nhưng có một khu vườn hoa gần cổng phía nội thành, họ tụ tập tại đó lớn tiếng khóc than số phận thảm thương của các vương tử, khiến một bầy chim nghe tiếng liền bay đến tụ tập trên trời rất đông. Dân chúng cùng cất tiếng kêu gào với đàn chim:

1062. Chim hỡi, chim ăn thịt sống chăng?

Hãy bay đi đến phía Đông môn,

Hôn quân đang lập đàn dâng lễ,

Cả bốn vương nhi bởi ám mê.

1063. Chim hỡi, chim ăn thịt sống chăng?

Hãy bay đi đến phía Đông môn,

Hôn quân đang lập đàn dâng lễ,

Cả bốn công nương bởi ám mê.

1064. Chim hỡi, chim ăn thịt sống chăng?

Hãy bay đi đến phía Đông môn,

Hôn quân đang lập đàn dâng lễ,

Cả bốn vương phi bởi ám mê.

1065. Chim hỡi, chim ăn thịt sống chăng?

Hãy bay đi đến phía Đông môn,

Hôn quân đang lập đàn dâng lễ,

Cả bốn chủ gia bởi ám mê.

1066. Chim hỡi, chim ăn thịt sống chăng?

Hãy bay đi đến phía Đông môn,

Hôn quân đang lập đàn dâng lễ,

Cả bốn con voi bởi ám mê.

1067. Chim hỡi, chim ăn thịt sống chăng?

Hãy bay đi đến phía Đông môn,

Hôn quân đang lập đàn dâng lễ,

Cả bốn ngựa kia bởi ám mê.

1068. Chim hỡi, chim ăn thịt sống chăng?

Hãy bay đi đến phía Đông môn,

Hôn quân đang lập đàn dâng lễ,

Bò đực bốn con bởi ám mê.

1069. Chim hỡi, chim ăn thịt sống chăng?

Hãy bay đi đến phía Đông môn,

Hôn quân đang lập đàn dâng lễ,

Bộ bốn mỗi loài bởi ám mê.

Cứ thế, dân chúng than khóc mãi trong hoa viên. Rồi họ đi đến nơi ở của Bồ-tát, vừa trang nghiêm đi nhiễu quanh lâu đài nhiều vòng vừa cất tiếng khóc than qua các vần kệ trong khi họ ngắm các ngôi tháp, hoa viên trong nội cung, v.v…

1070. Lâu đài tráng lệ vẫn còn đây,

Điện ngọc, cung son vẫn thế này,

Hoàng tử bốn chàng nay phải chịu,

Đưa đi thọ án, hành hình ngay.

1071. Ngôi nhà nóc nhọn dát vàng ròng,

Bày trí đó đây đủ loại bông,

Hoàng tử bốn chàng nay phải chịu,

Đưa đi thọ án, mạng đời vong.

1072. Khu vườn thượng uyển rất xinh tươi,

Luôn nở rộ hoa đủ các thời,

Hoàng tử bốn chàng nay phải chịu,

Đưa đi thọ án, phải lìa đời.

1073. Vườn Vô Ưu[56] (Asoka) cũng rất xinh tươi,

Luôn nở rộ hoa đủ các thời,

Hoàng tử bốn chàng nay phải chịu,

Đưa đi thọ án, phải lìa đời.

1074. Vườn muồng hoàng yến thật xinh tươi,

Luôn nở rộ hoa đủ các thời,

Hoàng tử bốn chàng nay phải chịu,

Đưa đi thọ án, phải lìa đời.

1075. Vườn hoa chuông[57] cũng rất xinh tươi,

Luôn nở rộ hoa đủ các thời,

Hoàng tử bốn chàng nay phải chịu,

Đưa đi thọ án, phải lìa đời.

1076. Khu vườn xoài cũng rất xinh tươi,

Luôn nở rộ hoa đủ các thời,

Hoàng tử bốn chàng nay phải chịu,

Đưa đi thọ án, phải lìa đời.

1077. Hồ đầy sen sắc trắng và hồng,

Rực rỡ thuyền vàng, điểm chuỗi bông,

Hoàng tử bốn chàng nay phải chịu,

Đưa đi thọ án, mạng đời vong.

Họ cứ rên rỉ ở đó rồi đến gần chuồng voi,...

1078. Voi báu của chàng vẫn ở đây,

Đôi ngà thiên tượng vẫn uy nghi,

Hoàng tử bốn chàng nay phải chịu,

Đưa đi thọ án hành hình ngay.

1079. Ngựa báu của chàng vẫn ở đây,

Móng nguyên, vụt gió chạy như bay,

Hoàng tử bốn chàng nay phải chịu,

Đưa đi thọ án hành hình ngay.

1080. Xe ngựa của chàng vẫn ở đây,

Đi như chim sáo hót thanh hay,

Điểm tô châu ngọc, xe rực rỡ,

Chàng ngự tựa thiên Nandana,

Bốn chàng hoàng tử nay phải chịu,

Bị bắt đưa đi hành quyết ngay.

1081. Hoàng tử như vàng, tướng đẹp sang,

Thân mình bôi tẩm hương chiên-đàn,

Sao vua kia ám mê giờ nỡ,

Đem cả bốn chàng tế lễ dâng.

1082. Công chúa như vàng, vẻ đẹp sang,

Thân mình bôi tẩm hương chiên-đàn,

Sao vua kia ám mê giờ nỡ,

Đem cả bốn nàng tế lễ dâng.

1083. Hoàng hậu, vương phi, vẻ đẹp sang,

Thân mình bôi tẩm hương chiên-đàn,

Sao vua kia ám mê giờ nỡ

Đem cả bốn nàng tế lễ dâng.

1084. Gia chủ như vàng, tướng đẹp sang,

Thân mình bôi tẩm hương chiên-đàn,

Sao vua kia ám mê giờ nỡ

Đem cả bốn người tế lễ dâng.

1085. Phố thị, làng quê chẳng bóng người,

Như khu vườn rộng, vắng tanh thôi,

Thành Pupphavatī như thế,

Từ lúc Canda, Suriya bị tế rồi!

Vì không có cách nào ra khỏi thành được, dân chúng đành lang thang quanh quẩn trong thành khóc lóc tỉ tê. Trong lúc ấy, Bồ-tát được đưa đến đàn tế. Mẹ ngài, Hoàng hậu Gotamī, lăn lộn dưới chân vua, khóc lóc van xin vua tha mạng cho con:

1086. Thiếp sẽ khổ đau hóa dại khờ,

Đầy mình phủ bụi lấm bơ phờ,

Nếu Canda bị dâng thần chết,

Thiếp thở nghẹn ngào, Bệ hạ ơi!

1087. Thiếp sẽ khổ đau hóa dại khờ,

Đầy mình phủ bụi lấm bơ phờ,

Suriya bị dâng thần chết,

Thiếp thở nghẹn ngào, Bệ hạ ơi!

Bà than van như vậy nhưng vua không trả lời, bà ôm lấy bốn vương phi của vương tử, vừa khóc vừa bảo họ:

– Vương nhi phải đau đớn chia lìa các nàng. Sao các nàng không năn nỉ vương nhi ở lại?

1088. Sao chẳng nói năng, hỡi các dâu,

Oparakkhī, Ghaṭṭiyā,

Pokkharakkhī, Gāyikā,[58]

Bày tỏ đôi lời yêu mến nhau,

Múa quanh Canda, Suriya,

Cho đến khi chàng được hỷ hoan,

Vì các nàng đây giỏi hát múa,

Khắp nơi tài nghệ chẳng ai bằng.

Rồi thấy rằng không làm gì hơn được nữa, bà ngừng than khóc với các vương phi và bắt đầu nguyền rủa lão Khaṇḍahāla:

1089. Ta mong mẹ ác tế sư này,

Phải chịu bao đau khổ đắng cay,

Đang xé tim ta khi thấy cảnh,

Canda yêu quý chết hôm nay.

1090. Ta mong mẹ ác tế sư này,

Phải chịu bao đau khổ đắng cay,

Đang xé tim ta khi thấy cảnh,

Suriya yêu quý chết hôm nay.

1091. Ta mong vợ ác tế sư này,

Phải chịu bao đau khổ đắng cay,

Đang xé hồn ta khi thấy cảnh,

Canda yêu quý chết hôm nay.

1092. Ta mong vợ ác tế sư này,

Phải chịu bao đau khổ đắng cay,

Đang xé hồn ta khi thấy cảnh,

Suriya yêu quý chết hôm nay.

1093. Ta mong mẹ của ác Khaṇḍa,

Đau xé trong lòng phải cách xa,

Chồng quý con yêu, vì chúng đã,

Giết đi hoàng tử, những anh tài.

1094. Ta mong mẹ của ác Khaṇḍa,

Đau xé trong lòng phải cách xa,

Chồng quý con yêu, vì chúng đã,

Giết đi hoàng tử của muôn nhà.

1095. Ta mong vợ của ác Khaṇḍa,

Đau xé trong lòng phải cách xa,

Chồng quý con yêu, vì chúng đã,

Giết đi hoàng tử, những anh tài.

1096. Ta mong vợ của ác Khaṇḍa,

Đau xé trong lòng phải cách xa,

Chồng quý con yêu, vì chúng đã,

Giết đi hoàng tử của muôn nhà.

Sau đó, Bồ-tát van xin vua cha trong đàn tế:

1097. Xin làm nô lệ của Khaṇḍa,

Nhưng mạng chúng con, xin hãy tha,

Con sẽ canh bầy voi, lũ ngựa,

Mang xiềng làm việc thỏa lòng sư.

1098. Xin làm nô lệ của Khaṇḍa,

Nhưng mạng chúng con, xin hãy tha,

Con sẽ quét phân voi của lão,

Mang xiềng làm việc thỏa lòng sư.

1099. Xin làm nô lệ của Khaṇḍa,

Nhưng mạng chúng con, xin hãy tha,

Con sẽ quét phân ngựa của lão,

Mang xiềng làm việc thỏa lòng sư.

1100. Xin làm nô lệ của Khaṇḍa,

Nhưng mạng chúng con, xin hãy tha,

Hoặc bắt làm nô lệ tặng ai,

Chúng con tùy thánh ý an bài,

Hoặc đày tất cả ra ngoài nước,

Cầu thực tha phương ở xứ người.

1101. Dù nghèo mong có được con trai,

Khao khát kia, người nữ nguyện hoài,

Với họ có người thôi phải bỏ,

Bởi vì không được đứa con trai.

1102. Họ nghĩ điều an ủi chính mình,

Con trai sinh cháu nối đời đời,

Giờ đây vô cớ, vì đàn tế,

Bệ hạ phán lời giết các con.

1103. Con trai có được bởi cầu xin,

Cha chớ giết đi con của mình,

Xin chớ đem con dâng lễ tế,

Đứa con cầu tự được trời ban.

1104. Con trai có được bởi cầu xin,

Cha chớ giết đi con của mình,

Xin chớ chia lìa tình mẫu tử,

Mẹ sinh con trẻ khổ vô cùng.

Khi chàng không thấy vua trả lời, chàng liền quỳ xuống than khóc dưới chân mẹ:

1105. Khó khăn mẹ nuôi nấng Canda,

Giờ đây con mẹ phải lìa xa,

Con xin đảnh lễ đôi chân mẹ,

Mong ước cha già đạt kiếp sau.

1106. Mẹ hãy ôm con thật thiết thân,

Cho con ôm mẹ để hôn chân,

Giờ con đến chốn xa xăm ấy,

Làm vật tế đàn cho đức vua.

1107. Mẹ hãy ôm con thật thiết thân,

Cho con ôm mẹ để hôn chân,

Giờ con đến chốn xa xăm ấy,

Để mẹ vương sầu ngập trái tim.

1108. Mẹ hãy ôm con thật thiết thân,

Cho con ôm mẹ để hôn chân,

Giờ con đến chốn xa xăm ấy,

Để mọi người sầu ngập trái tim.

Rồi mẫu hậu ngâm bốn vần kệ khóc than:

1109. Quý tử trên đầu hãy buộc lên,

Vòng vương miện kết lá hoa sen,

Và hoa campaka này tương xứng,

Vẻ đẹp oai hùng tuổi tráng niên.

1110. Lần cuối cùng con hãy tẩm hương,

Loại chiên-đàn ngát thật cao sang,

Ngày xưa lễ hội trong cung điện,

Con đẹp tươi và hương tỏa lan.

1111. Lần cuối cùng con khoác cẩm bào,

Lụa Kāsi mềm mịn dường nào,

Ngày xưa lễ hội trong cung điện,

Con khéo chỉnh trang, thật đẹp sao!

1112. Vòng chuỗi tay này con hãy mang,

Điểm trang ngọc báu, trân châu, vàng,

Ngày xưa lễ hội trong cung điện,

Với chuỗi vòng này, con quý sang.

Đến lượt chánh phi của chàng tên là Candā, quỳ xuống chân chàng than khóc thảm thiết:

1113. Đại vương, chúa tể của giang sơn,

Ý của ngài ban khắp nước non,

Ngài chẳng còn tình yêu phụ tử,

Với người duy nhất kế ngai vàng.

Vua nghe vậy liền đáp:

1114. Ta thương mến tất cả ông hoàng,

Ta cũng quý yêu chính bản thân,

Vương hậu các nàng thân thiết cả,

Ta đem con tế lễ đăng đàn,

Bởi vì ta muốn lên thiên giới,

Chẳng muốn đi vào địa ngục môn!

Nàng Candā kêu to:

1115. Chúa thượng giết con trước, đoái thương,

Kẻo niềm thống khổ xé tâm can,

Vương nhi được kết vòng hoa ấy,

Mọi vẻ chàng nay thật vẹn toàn.

1116. Giết chúng con trong hố tế đàn,

Nơi Canda đến, thiếp theo chàng,

Đại vương sẽ được công vô lượng,

Hồn trẻ lên thiên giới trú an.

Vua đáp lời:

1117. Nàng chớ ước mong chết trước thời,

Các vương đệ dũng cảm bao người,

Sẽ an ủi đấy, hồng nhan hỡi,

Khi mất chồng yêu quý ấy rồi!

Nàng nghe vậy đấm ngực than khóc, hăm dọa sẽ uống độc dược tự vẫn và cuối cùng nàng lại kêu gào thảm thiết. Bậc Đạo sư ngâm kệ sau:

1118-20. Cố vấn, thân bằng cạnh quốc vương,

Không ai dám nói để can ngăn,

Triều thần trung tín không ai cả,

Dám thuyết phục vua chớ giết con.

1121. Còn có các vương tử khác kia,

Thảy đều đầy đủ mọi oai nghi,

Hãy đem các vị lên đàn tế,

Và để Canda được thoát đi.

1122. Đem con xẻ thịt thành trăm mảnh,

Mang cúng bảy nơi, thỏa nguyện mình,

Xin chớ giết đi hoàng tử cả,

Vị kiêu hùng, tựa chúa sơn lâm.

1123. Đem con xẻ thịt thành trăm mảnh,

Mang cúng bảy nơi, thỏa nguyện mình,

Xin chớ giết đi hoàng tử cả,

Người mà toàn bộ thế gian mong.

Sau khi đã than khóc giãi bày mọi nỗi niềm đoạn trường mà vẫn không có gì an ủi được, nàng liền bước lên cạnh Bồ-tát, đứng khóc lóc mãi cho đến khi Bồ-tát bảo nàng:

– Này Candā, suốt đời ta đã biết bao lần tặng nàng ngọc ngà trân bảo trong các dịp yến tiệc hội hè, nay ta chỉ còn món báu vật cuối cùng trên mình ta để tặng nàng, xin nàng hãy nhận lấy!

Bậc Đạo sư diễn tả sự việc này như sau:

1124. Trang sức bảo châu đủ sắc màu,

Ngọc trai, ngọc bích, quý dường bao,

Tặng nàng những lúc tâm vui vẻ,

Nay vật cuối cùng ta gửi trao.

Nàng Candā lại bật khóc và ngâm các vần kệ sau:

1125. Chuỗi hoa rực rỡ nở xinh tươi,

Quàng ở trên vai của những người,

Nay đổi hoa kia bằng kiếm sắc,

Trên vai vị ấy phũ phàng rơi.

1126. Chuỗi hoa rực rỡ nở xinh tươi,

Quàng ở trên vai của những người,

Nay đổi hoa kia bằng kiếm sắc,

Trên vai vị ấy phũ phàng rơi.

1127. Phút chốc kiếm kia đến tận nơi,

Cổ chàng vô tội lướt qua rồi,

Ôi, đem dây sắt mau ràng buộc,

Kẻo trái tim ta sắp vỡ đôi!

1128. Vải lụa Kāsi khoác tuyệt sang,

Đeo hoa tai, xức trầm, chiên-đàn,

Canda, Suriya lê bước,

Theo lệnh vua đưa đến tế đàn.

1129. Vải lụa Kāsi khoác tuyệt sang,

Đeo hoa tai, xức trầm, chiên-đàn,

Canda, Suriya lê bước,

Khiến mẫu hậu dường nát ruột gan.

1130. Vải lụa Kāsi khoác tuyệt sang,

Đeo hoa tai, xức trầm, chiên-đàn,

Canda, Suriya lê bước,

Khiến cả dân đau xót ngập tràn.

1131. Thọ bữa thịt cơm, tắm kỹ càng,

Đeo hoa tai, xức trầm, chiên-đàn,

Canda, Suriya lê bước,

Theo lệnh vua đưa đến tế đàn.

1132. Thọ bữa thịt cơm, tắm kỹ càng,

Đeo hoa tai, xức trầm, chiên-đàn,

Canda, Suriya lê bước,

Khiến mẫu hậu dường nát ruột gan.

1133. Thọ bữa thịt cơm, tắm kỹ càng,

Đeo hoa tai, xức trầm, chiên-đàn,

Canda, Suriya lê bước,

Khiến cả dân đau xót ngập tràn.

Trong khi nàng than khóc như vậy, mọi người đã chuẩn bị nghi lễ xong xuôi trên huyệt tế thần. Họ đưa vương tử đến đặt vào một chỗ ngồi thích hợp với chiếc cổ vươn ra phía trước. Lão Khaṇḍahāla cầm chén vàng lại gần chàng, đưa kiếm lên, đứng thẳng người và nói:

– Ta sẽ cắt cổ nó!

Khi vương phi thấy vậy, nàng nghĩ thầm: “Ta không còn nơi nào để nương tựa, vậy ta sẽ cầu xin phước lành cho phu quân bằng sức mạnh của chân lý.” Rồi nàng chắp tay lên đi giữa những người hành lễ, trang nghiêm thực hiện lời nguyện cầu chân lý.

***

Bậc Đạo sư diễn tả cảnh này như sau:

1134. Khi sửa soạn xong lễ tế đàn,

Canda ngồi đó đợi tai nàn,

Pañca công chúa đi vào giữa,

Quần chúng khắp nơi phát nguyện vang.

1135. “Quả nhiên đây vị Bà-la-môn,

Làm độc kế do tính dối gian,

Mong ước phu quân yêu dấu ấy,

Chẳng bao lâu nữa được an toàn!

1136. Mong các thần tiên, quỷ chốn đây,

Hãy nghe lời nói của con vầy,

Thực hành nhiệm vụ con giao phó,

Tái hợp con cùng thái tử này!

1137. Tất cả thần tiên ở chốn này,

Con xin quỳ xuống dưới chân ngài,

Hộ phù con trẻ không người giúp,

Thương xót nghe con cầu cứu đây!”

Thiên chủ Sakka nghe lời cầu xin của nàng và xem thấy sự tình xảy ra như vậy liền cầm một khối sắt sáng lòa hăm dọa nhà vua và đuổi tan đám đông dự lễ ấy.

***

Bậc Đạo sư diễn tả cảnh này như sau:

1138. Thiên thần nghe tiếng nọ kêu than,

Muốn giúp chánh nhân, vội giáng phàm,

Vung khối sắt lên lòe ánh sáng,

Làm tâm bạo chúa phải kinh hoàng.

1139. “Bạo chúa biết ta, Thiên đế chăng?

Hãy nhìn xem vũ khí ta mang,

Đừng làm hại trưởng nam vô tội,

Sư tử chúa trong bãi chiến trường!

1140. Tội ác này ai thấy chốn nào,

Vợ con bị giết cả nhà sao,

Cùng thần dân quý nhất thiên hạ,

Xứng đáng lên thiên giới tối cao?”

1141-42. Bạo chúa vội cùng vị tế sư,

Thả người vô tội nạn nhân ra,

Đám đông lấy đá và cây gậy,

Cuồng nhiệt say sưa, họ hét la,

Đánh chết Khaṇḍa ngay tại chỗ,

Đền bù bao tội ác gian tà.

Khi họ đã giết lão quốc sư xong, họ tìm cách bắt vua phải chết, nhưng Thiên chủ Sakka ôm vua lại không cho dân chúng giết vua. Khi ấy, đám đông mới tha mạng vua, nhưng họ nghĩ: “Ta không thể để vua này cai trị hay ở tại kinh thành nữa, ta phải bắt vua ra khỏi thành và ở một nơi do ta định đoạt.”

Thế là họ lột hết cẩm bào của vua, bắt vua mặc áo vàng, trùm khăn vàng lên đầu làm một kẻ khốn cùng và bắt vua phải ở khu vực dành cho hạng khốn cùng. Còn tất cả những kẻ nào nhúng tay vào việc tế lễ này hay đồng tình ủng hộ đều bị trừng trị đích đáng và khi chết phải đọa địa ngục đúng theo số phần của họ.

***

Bậc Đạo sư ngâm kệ sau:

1143. Ai đã tạo nên tội ác vầy,

Thẳng đường vào địa ngục kia ngay,

Không ai được tái sinh thiên giới,

Khi đã mang lầm lỗi thế này.

Sau khi đã trừ bỏ được hai quái vật độc ác ấy, dân chúng liền mang lễ vật đến làm lễ đăng quang, rảy nước thánh lên đầu Thái tử Canda để chàng lên ngôi vua.

1144. Khi các tù nhân đã được tha,

Đám đông quần chúng đổ xô ra,

Các vua họp lại cùng nơi ấy

Quán đảnh Canda kế vị cha.

1145. Khi các tù nhân đã được tha,

Đám đông quần chúng đổ xô ra,

Công nương họp lại cùng nơi ấy,

Quán đảnh Canda kế vị cha.

1146. Khi các tù nhân đã được tha,

Đám đông quần chúng đổ xô ra,

Chư thiên họp lại cùng nơi ấy,

Quán đảnh Canda kế vị cha.

1147. Khi các tù nhân đã được tha,

Đám đông quần chúng đổ xô ra,

Thiên nữ họp lại cùng nơi ấy,

Quán đảnh Canda kế vị cha.

1148. Khi các tù nhân đã được tha,

Đám đông quần chúng đổ xô ra,

Các vua họp lại cùng nơi ấy,

Tay vẫy vành khăn để chúc mừng.

1149. Khi các tù nhân đã được tha,

Đám đông quần chúng đổ xô ra,

Công nương họp lại cùng nơi ấy,

Tay vẫy vành khăn để chúc mừng.

1150. Khi các tù nhân đã được tha,

Đám đông quần chúng đổ xô ra,

Chư thiên họp lại cùng nơi ấy,

Tay vẫy vành khăn để chúc mừng.

1151. Khi các tù nhân đã được tha,

Đám đông quần chúng đổ xô ra,

Thiên nữ họp lại cùng nơi ấy,

Tay vẫy vành khăn để chúc mừng.

1152. Khi các tù nhân đã được tha,

Mọi người mừng rỡ, hát hoan ca,

Phố phường tràn ngập trong chiêng trống,

Hạnh phúc, tự do đến mọi nhà.

Bồ-tát ra lệnh cung cấp mọi nhu cầu cho cha được đầy đủ, nhưng phế vương không được phép vào kinh thành và khi nào tiền cấp dưỡng đã cạn, ông thường tìm gặp Bồ-tát vào những dịp ngài dự hội hè ở công viên hay những nơi công cộng khác. Vào những lúc ấy, phế vương không chắp tay kính chào con mình vì ông nghĩ: “Ta mới thật là Đại vương” nên ông chào ngài:

– Vạn tuế Chúa công!

Và khi Bồ-tát hỏi ông cần gì, ông nói rõ vật ấy, rồi Bồ-tát ra lệnh đem tiền bạc lại cho cha.

***

Khi bậc Đạo sư chấm dứt pháp thoại này, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Devadatta tìm cách giết hại nhiều người chỉ vì Ta mà trước kia kẻ ấy cũng đã làm như vậy.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy, Devadatta là Khaṇḍahāla, Mẫu hậu Mahāmāyā là Hoàng hậu Gotamī, mẹ của Rāhula (La-hầu-la) là Candā, Rāhula là Vāsula, Uppalavaṇṇā (Liên Hoa Sắc) là Selā, Kassapa (Ca-diếp) thuộc dòng họ Vāma là Sūra, Moggallāna (Mục-kiền-liên) là Bhaddasena, Sāriputta (Xá-lợi-phất) là Vương tử Suriya và Vua Canda chính là Ta, bậc Chánh Đẳng Chánh Giác.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.