Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 07  » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »

Kinh Tiểu Bộ Quyển 3 
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch

Mục Lục

§539. CHUYỆN ĐẠI VƯƠNG MAHĀJANAKA (Mahājanakajātaka)[11] (J. VI. 30)

Chàng là ai, chiến đấu anh hùng...

Bậc Ðạo sư kể chuyện này trong khi đang ở tại Jetavana (Kỳ Viên) về đại sự xuất thế cao cả của Ngài.

Một ngày kia, các Tỷ-kheo ngồi tại pháp đường bàn luận về việc xuất thế của đức Như Lai. Bậc Ðạo sư đến và nghe vấn đề này, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải là lần đầu tiên Như Lai thực hành đại sự xuất thế, trước kia Như Lai cũng đã làm như vậy.

Rồi Ngài kể một chuyện quá khứ.

***

Ngày xưa, có một vị vua tên là Mahājanaka trị vì Mithilā trong quốc độ Videha. Ngài có hai con trai là Ariṭṭhajanaka và Polajanaka. Ngài phong thái tử làm vua kế nghiệp và vương tử thứ hai làm đại tướng quân. Sau đó, khi Vua Mahājanaka qua đời, Ariṭṭhajanaka lên ngôi vua và lại phong vương đệ làm vị kế nghiệp.

Một ngày kia, có một nô lệ vào tâu vua rằng vương đệ muốn giết ngài. Nhà vua nghe tâu chuyện đó nhiều lần đâm ra nghi ngờ, ra lệnh cầm tù Polajanaka trong gông cùm và canh giữ chàng kỹ ở một nơi không xa hoàng cung. Vương tử phát nguyện:

– Nếu ta là kẻ thù của anh ta thì cứ cho các xiềng xích và cửa ngõ không ai mở ra được; nếu không thì xin các xiềng xích, cửa ngõ hãy mở ra hết!

Lập tức các xiềng xích đứt ra từng mảnh và cửa ngõ bật tung. Vương tử liền thoát ra, đi đến một làng ở biên địa và sống ở đó.

Dân chúng nhận ra vương tử liền đến hầu hạ chàng, vì thế nhà vua không thể nào ra lệnh bắt chàng được. Dần dà, chàng trở thành người cai trị xóm làng ở vùng biên địa ấy. Với đoàn tùy tùng đông đảo, chàng nghĩ thầm: “Ngày trước ta không phải là kẻ thù của anh ta, nhưng nay ta lại là kẻ thù của anh ta rồi.” Thế rồi, chàng trở lại Mithilā với đông đảo người hầu cận đóng quân phía ngoài kinh thành.

Dân chúng hay tin vương tử trở về liền đem voi ngựa đến đón chàng, và dân chúng các thành thị khác cũng đến tụ tập quanh vương tử. Sau đó, chàng gửi một thông điệp cho anh của chàng: “Ngày xưa ta không phải là kẻ thù của ngươi, nhưng nay ta chính là kẻ thù của ngươi đó. Hãy trao lại ta cây lọng trắng của vua, không thì ta gây chiến!”

Khi vua sắp ra chiến trường, ngài giã từ chánh hậu:

– Này Ái khanh, không ai biết trước được thắng bại ở sa trường. Nếu ta có mệnh hệ nào, Ái khanh phải bảo vệ vương nhi trong bụng thật cẩn thận.

Rồi ngài ra đi và binh lính của Vương tử Polajanaka đã sớm kết liễu đời ngài trong chiến địa. Tin nhà vua tử trận gây đại hỗn loạn khắp kinh thành. Vương hậu hay tin dữ, vội thu góp tư trang quý giá nhất vào trong một chiếc giỏ, trải khăn và gạo trên mặt, ăn mặc dơ bẩn, cải trang, đội giỏ lên đầu và trốn đi vào lúc nào không ai hay biết.

Bà đi ra cửa Bắc nhưng không biết đường vì bà chưa hề đi đâu cả, lại không biết nhắm hướng địa bàn. Trước kia, bà có nghe nói đến kinh thành Kāḷacampā nên bà ngồi chờ hỏi thăm xem có ai đi đến Kāḷacampā không.

Lúc bấy giờ, hài nhi trong bụng bà không phải đứa trẻ tầm thường mà đó là bậc Ðại sĩ tái thế sau khi đã thành tựu các công hạnh viên mãn (Ba-la-mật) nên làm cho Thiên chủ Sakka rúng động vì uy lực của vị ấy. Thiên chủ Sakka xem xét duyên cớ và nghĩ rằng có lẽ một bậc Ðại sĩ tài đức đang được cưu mang trong bụng chánh hậu nên ngài phải đi xem sao. Thế là ngài làm phép hiện ra một chiếc xe có phủ trần và đặt một chiếc giường lên rồi đứng đợi trước cửa ngôi nhà vương hậu đang ngồi, giả dạng làm một lão già lái xe ngựa và hỏi có ai muốn đi đến Kāḷacampā không.

– Cha ơi, con muốn đi đến đó!

– Thế thì leo lên mà ngồi, con gái ạ!

– Cha ơi, con có thai gần ngày nên không leo được, con muốn ngồi đằng sau, cho con chỗ để chiếc giỏ này của con thôi!

– Con gái ơi, nói gì vậy? Không ai biết lái xe như lão đâu, đừng sợ, cứ leo lên và ngồi xuống!

Nhờ thần lực của Thiên chủ, mặt đất trồi lên cao đưa bà leo lên đến tận phía sau xe. Khi nằm trên giường, bà đoán biết đây phải là một vị thần. Vừa đặt mình xuống chiếc giường thần, bà liền ngủ ngay. Sau chừng ba mươi do-tuần, Thiên chủ Sakka đến một con sông, đánh thức bà dậy và bảo:

– Con gái ơi, hãy dậy mà tắm sông, đầu giường có một cái áo choàng cứ mặc vào, trong xe có bánh cứ ăn nhé!

Bà làm theo lời Thiên chủ rồi lại lên giường nằm đến chiều tối. Khi đến Kāḷacampā, bà thấy cổng thành, tháp chuông và thành lũy. Bà hỏi thành này tên gì, Thiên chủ đáp:

– Thành Kāḷacampā đó, con gái!

– Cha nói gì thế, từ kinh thành của con đến Kāḷacampā không phải sáu mươi do-tuần đó sao?

– Ðúng vậy, con gái, nhưng lão biết đường tắt.

Thế rồi, ngài để bà xuống xe ở cổng Nam.

– Con gái ơi, làng của lão ở đằng kia kìa, con gái cứ vào kinh thành đó.

Nói xong, Thiên chủ Sakka biến đi, trở lại cõi trời. Vương hậu ngồi xuống một thềm nhà bên đường. Lúc bấy giờ, có một Bà-la-môn dạy kinh Vệ-đà ở tại thành Kāḷacampā đang cùng năm trăm đệ tử đi tắm, chợt thấy vương hậu ngồi đó, dáng điệu xinh đẹp và thanh lịch. Và nhờ thần lực của bậc Ðại sĩ trong bụng bà nên người này thấy mến yêu bà như đối với một cô em gái liền bảo các đồ đệ đợi bên ngoài, một mình bước lên thềm nhà, hỏi bà:

– Này cô em, cô ở xóm làng nào?

Bà đáp:

– Ta là chánh hậu của Vua Ariṭṭhajanaka ở kinh thành Mithilā.

– Tại sao bà đến đây?

– Đức vua vừa mới bị em ngài giết chết, ta sợ quá phải đến đây để cứu mạng đứa con sắp ra đời.

– Thế bà có họ hàng tại đây không?

– Không ai cả.

– Ðừng lo gì cả, ta là một Bà-la-môn miền Bắc thuộc gia đình có thân thế lớn. Ta là một đại sư danh tiếng khắp xa gần. Ta sẽ chăm sóc bà như em gái ta vậy, hãy gọi ta là anh và ôm chân ta mà khóc la to lên nào!

Bà liền khóc lóc thảm thiết, gục dưới chân ông ta và họ an ủi lẫn nhau. Các đệ tử của vị thầy chạy đến hỏi cớ sự ra sao.

– Ðây là em gái út của ta, cô ấy sinh ra lúc ta đã đi xa nhà.

– Ồ, Sư phụ đừng buồn, bây giờ Sư phụ đã gặp lại sư muội rồi!

Vị thầy liền bảo đem lại một xe lớn có mui trên, mời bà lên ngồi và đưa về nhà mình, dặn họ bảo bà vợ ông ta rằng đây là em gái mình và phải đón tiếp tử tế. Bà vợ vị Bà-la-môn này đem nước ấm cho bà tắm xong, dọn giường cho bà nằm. Người Bà-la-môn đi tắm về, vào giờ cơm ông cho gọi cô em gái ra cùng ăn và chăm sóc bà chu đáo trong nhà ông.

Chẳng bao lâu bà hạ sinh một con trai, họ đặt tên hài nhi theo tên tổ phụ là Mahājanaka. Khi lớn lên, cậu bé thường chơi đùa với các thiếu niên khác, và khi chúng trêu ghẹo cậu để khoe dòng dõi chính thống quý tộc (Khattiya) của chúng, cậu thường đánh lại chúng bằng sức mạnh siêu đẳng và lòng dũng cảm của mình.

Khi chúng kêu khóc và được hỏi ai đánh chúng, chúng thường trả lời:

– Con bà góa.

Vương tử suy nghĩ: “Chúng cứ gọi ta là con bà góa mãi, ta sẽ hỏi mẹ xem sao.”

Một hôm, cậu hỏi mẹ:

– Mẹ ơi, con là con của ai?

Bà nói dối cậu, bảo rằng vị Bà-ba-môn là cha cậu. Khi cậu đánh chúng bạn, chúng lại gọi cậu là con bà góa, cậu trả lời vị Bà-la-môn là cha của cậu, chúng vặn lại:

– Vị Bà-la-môn là gì của bạn?

Cậu suy nghĩ: “Mấy tên này bảo ta: ‘Vị Bà-la-môn là gì của bạn?’ Mẹ ta không muốn giải thích việc này cho ta, bà không muốn nói thật vì danh dự của bà, thôi ta phải xin bà nói sự thật cho ta rõ.”

Thế rồi khi bú sữa mẹ, cậu cắn vú bà và bảo:

– Mẹ hãy cho con biết cha con là ai, nếu không con sẽ cắn đứt vú mẹ đấy!

Bà không thể dối cậu được nữa, đành đáp:

– Con ơi, con là con Vua Ariṭṭhajanaka ở thành Mithilā đó, cha con bị chú Polajanaka giết, mẹ phải đem con đến đây để cứu mạng con. Vị Bà-la-môn này xem mẹ như em gái và săn sóc mẹ chu đáo.

Từ đó, cậu không tức giận khi ai gọi cậu là con bà góa nữa. Trước năm mười sáu tuổi, cậu đã thuộc ba tập kinh Vệ-đà và nhiều môn học khác. Khi đến mười sáu tuổi, cậu rất khôi ngô tuấn tú. Cậu nghĩ thầm: “Ta sẽ chiếm lại ngai vàng của cha ta.” Thế rồi, cậu hỏi mẹ:

– Mẹ có tiền không mẹ? Nếu không, con sẽ đi buôn kiếm tiền và giành lại ngai vàng của cha con.

– Con ơi, mẹ đến đây không phải hai tay trắng đâu, mẹ có để dành ngọc ngà, châu báu, kim cương, đủ để chiếm lại ngai vàng. Hãy đem chúng đi giành lại ngôi vua, đừng tính đi buôn nữa!

– Thưa mẹ, hãy cho con một nửa số châu báu đó, con sẽ đi đến Suvaṇṇabhūmi (Xứ Vàng) và làm giàu tại đó, sau đó mới đi lấy lại ngai vàng.

Cậu xin bà một nửa số châu báu và cùng với số vốn liếng đi buôn của cậu, cậu đi theo chiếc tàu buôn và một số thương nhân đi đến Suvaṇṇabhūmi. Cậu từ giã mẹ và nói cho bà biết nơi cậu sắp đến.

– Con ơi, đi biển may ít rủi nhiều, con đừng đi! Con có đủ vàng bạc để chiếm lại ngôi báu mà.

Nhưng cậu nói với mẹ rằng cậu muốn đi nên cậu từ giã bà và lên tàu ra khơi. Cùng ngày ấy, Vua Polajanaka phát trọng bệnh không ngồi dậy được. Còn chiếc tàu buôn chở cả bảy đoàn lữ hành cùng đàn gia súc của họ, trong bảy ngày đi được bảy trăm do-tuần. Nhưng vì quá nặng nề không thể chịu đựng được nữa, ván tàu nứt ra, nước ùa vào mỗi lúc một cao thêm. Tàu bắt đầu chìm giữa biển cả trong lúc các thủy thủ la khóc thảm thiết và cầu cứu các thần linh.

Riêng bậc Ðại sĩ không hề kêu khóc cầu cứu gì cả. Biết rằng con tàu đã tận số, ngài trộn đường với bơ tươi ăn thật no nê rồi bôi dầu vào áo quần sạch, thắt chặt đồ đạc quanh mình cậu và đứng dựa cột buồm. Khi con tàu chìm, chiếc cột buồm vẫn đứng thẳng. Người, vật trên tàu đều làm mồi cho cá và rùa biển. Nước biển nhuộm màu máu cả một vùng.

Nhưng bậc Ðại sĩ đứng trên cột buồm, định hướng thành Mithilā rồi bay bổng lên từ đỉnh cột buồm, vận dụng hết sức mạnh băng qua bầy cá, rùa biển ấy và rơi xuống cách con tàu chừng khoảng một trăm bốn mươi cubit.[12] Cũng vào ngày đó, Vua Polajanaka từ trần.

Sau đó, bậc Ðại sĩ vượt dòng sóng biếc, rẽ sóng như một khối vàng ròng. Một tuần trôi qua như chỉ một ngày. Khi nhận biết “nay là ngày trăng tròn”, ngài liền súc miệng bằng nước muối và giữ gìn trai giới. Lúc bấy giờ, tiên nữ Maṇimekhalā (Ngọc Ðới) được Bốn Thiên vương cai quản thế gian phong làm thần giữ biển. Các vị ấy bảo nàng:

– Những con người có đạo hạnh như hiếu thảo với mẹ không đáng bị chết chìm dưới biển. Hãy thử tìm và cứu họ!

Nhưng trong bảy ngày liền, nàng không nhìn ra biển và có người cho là tâm trí nàng đã ngẩn ngơ vì ham hưởng lạc thú thiên giới. Có người lại cho là nàng bận đi dự hội ở thiên đình. Tuy thế, đến ngày thứ bảy nàng cũng nhìn ra biển và tự nhủ: “Hôm nay là ngày thứ bảy rồi ta không nhìn ra biển, ai đang tiến tới kia?” Khi thấy bậc Ðại sĩ, nàng nghĩ thầm: “Nếu Vương tử Mahājanaka mà chết chìm dưới biển thì ta sẽ không được phép dự hội tại thiên đình.”

Vì thế, nàng hóa hình thật lộng lẫy, đứng trên không gần chỗ Bồ-tát và ngâm vần kệ thứ nhất để thử năng lực của ngài:

123. Chàng là ai, chiến đấu anh hùng,

Giữa đại dương xa hẳn đất bằng,

Bạn hữu là ai chàng tín nhiệm,

Ðến bên chàng giúp một tay cùng?

Bồ-tát đáp lời:

– Ðây là ngày thứ bảy ta ở trên đại dương, ngoài ta ra không có bóng người thứ hai nào cả. Ai đang nói với ta vậy kìa?

Rồi nhìn lên không trung, ngài ngâm vần kệ thứ hai:

124. Biết phận sự ta ở cõi trần,

Khi ta nỗ lực, hỡi thiên thần,

Nơi đây giữa đại dương xa đất,

Ta đấng nam nhi gắng hết lòng.

Vì muốn nghe pháp lành, nữ thần liền ngâm vần kệ thứ ba:

125. Ðây giữa biển sâu, rộng chẳng cùng,

Bến bờ xa tít mắt vời trông,

Sức chàng tận dụng thành mây khói,

Giữa đại dương, chàng gặp tử thần.

Bồ-tát trả lời:

– Tại sao nàng nói như vậy? Nếu ta mất trong lúc ta gắng hết sức mình thì dẫu sao đi nữa ta cũng không bị ai chê trách.

Rồi ngài ngâm kệ:

126. Ai không có nợ với thân nhân,

Không nợ chư thiên lẫn phụ thân,

Phận sự nam nhân đang thực hiện,

Sau này chẳng ân hận trong lòng.

Kế đó, nữ thần ngâm kệ:

127. Chiến đấu như vầy ích lợi sao,

Phí công vô ích được gì nào?

Báo đền không có gì thành đạt,

Chỉ có tử thần, đổi khổ đau.

Thế là Bồ-tát ngâm các vần kệ sau để cho nữ thần thấy nàng nhận xét thiếu sáng suốt:

128. Ai nghĩ không gì để đấu tranh,

Và không chiến đấu hết lòng mình,

Bại vong là lỗi cần chê trách,

Vì chính lòng hèn yếu bất thành.

129. Con người dự định việc trên đời,

Làm việc mình xem tốt tuyệt vời,

Dự định thành công hay thất bại,

Tương lai chỉ rõ cuối cùng thôi.

130. Nữ thần chẳng thấy đó hay chăng,

Chính việc ta nay quyết định phần,

Bao kẻ chết chìm, ta được sống,

Và nàng đang đứng cạnh trên không.

131. Vậy ta chiến đấu hết sức ta,

Qua giữa đại dương thẳng đến bờ,

Trong lúc sức tàn ta vẫn gắng,

Quyết không lùi đến lúc nguy cơ.

Nữ thần nghe những lời lẽ hùng hồn đó liền ngâm vần kệ tán thán ngài:

132. Chàng đang chiến đấu thật hùng cường,

Giữa biển mênh mông thật bạo tàn,

Chẳng thối lui chối từ nhiệm vụ,

Gắng công nơi phận sự chờ chàng,

Hãy đi đến chốn lòng chàng muốn,

Ðừng để gian nan cản bước đường!

Sau đó, nữ thần hỏi ngài muốn đưa đi đâu, ngài đáp:

– Tới kinh thành Mithilā.

Nàng liền tung ngài lên không như một tràng hoa rồi ôm ngài vào lòng như đứa con thân yêu và vụt lên giữa không gian. Bồ-tát ngủ suốt bảy ngày, thân thể ướt đầm nước muối và rúng động vì sự tiếp xúc với thần tiên này. Rồi nữ thần mang ngài đến Mithilā, đặt ngài nằm nghiêng bên hữu trên bệ đá dùng để tế lễ trong một vườn xoài, giao cho các nữ thần trong ngôi vườn phò trợ ngài rồi trở về nơi cũ.

Lúc bấy giờ, Vua Polajanaka không có vương tử, chỉ có một công chúa thông thái và hiền đức tên là Sīvalī. Quần thần hỏi nhà vua khi ngài sắp băng hà:

– Tâu Ðại vương, chúng thần sẽ trao ngôi báu cho kẻ nào khi Ðại vương từ trần?

Nhà vua bảo:

– Hãy giao lại cho kẻ nào làm đẹp lòng Công chúa Sīvalī, hoặc người nào biết được đâu là phía đầu của chiếc ngự sàng hình vuông, hoặc người nào giương được chiếc cung cần sức mạnh của cả ngàn người, hoặc người nào tìm ra được mười sáu kho báu.

– Tâu Ðại vương, xin cho chúng thần biết danh sách mười sáu kho báu ấy.

Nhà vua liền nêu danh sách ấy:

Kho báu phương vầng nhật rạng hồng,

Kho phương vầng nhật lặn, hoàng hôn,

Kho tàng trong, với kho ngoài ấy,

Kho báu không ngoài cũng chẳng trong.

Kho ở nơi lên, xuống tượng vương,

Ở nơi bốn trụ sāla giường,

Ở đầu răng, với ở đầu đuôi ấy,

Và khoảng ách xe ngựa khắp vòng.

Kho nơi cổ thụ ở đầu cành,

Ở Kebuka hồ nước xanh

Mười sáu kho châu báu ngọc quý,

Phải tìm nơi để các kho tàng.

Chiếc cung cần một ngàn nam tử,

Làm đẹp lòng công chúa ngự sàng.

Ngoài các kho báu trên, vua còn nêu danh sách các kho báu khác. Sau khi vua từ trần, các đại thần làm lễ tống táng xong, vào ngày thứ bảy, họ hội họp lại và quyết định:

– Ðại vương ban lệnh chúng ta giao ngôi báu cho kẻ nào làm đẹp lòng con gái ngài, nhưng ai là kẻ có khả năng làm vừa ý công chúa đây?

Họ đồng đáp:

– Viên đại tướng là một kẻ được vua sủng ái.

Thế rồi, họ cho triệu vị này đến. Vị này liền đến trước cung môn và báo cho công chúa biết ông ta đã đến chầu. Công chúa hiểu duyên cớ gì ông ta đến và để thử xem ông ta có đủ tài trí xứng đáng với chiếc lọng của hoàng gia không, nàng cho triệu ông ta vào. Nghe lệnh công chúa và ước mong làm đẹp lòng nàng, ông liền chạy lên bệ rồng và đứng cạnh nàng. Muốn thử ông, nàng bảo:

– Chạy ra ngoài sân, nhanh lên!

Ông ta vùng lên chạy, tưởng là công chúa hài lòng lắm. Công chúa lại bảo:

– Ðến đây!

Ông ta vội chạy đến. Công chúa thấy ông ta thiếu hẳn tài trí, nàng nói:

– Ðến xoa chân ta!

Ông ta liền ngồi xuống xoa chân công chúa cho nàng hài lòng. Thế là, nàng đá vào ngực ông ta té lăn rồi bảo các thị nữ:

– Ðánh tên khùng mù quáng ngu ngốc này và lôi cổ nó ra!

Chúng dạ vâng tuân lệnh. Rồi chúng nói với ông:

– Thưa Ðại tướng...

Ông ta đáp:

– Thôi đừng nói nữa, nàng ấy không phải là người.

Sau đó, viên quan giữ kho tàng đến, nàng cũng làm nhục ông ta như vậy. Lần lượt các viên quan giữ kho, giữ lọng, giữ kiếm đều bị nàng hạ nhục.

Thế rồi, quần thần quyết định:

– Không kẻ nào làm đẹp lòng công chúa, vậy hãy gả nàng cho kẻ nào giương được cây cung cần sức mạnh của cả ngàn người.

Nhưng không ai giương cung nổi cả. Sau đó, họ bảo:

– Hãy gả nàng cho người nào biết được đâu là đầu của chiếc ngự sàng hình vuông.

Nhưng không một ai biết cả.

– Vậy thì gả nàng cho kẻ nào tìm được mười sáu kho báu.

Nhưng rồi cũng chẳng ai tìm ra. Sau đó, quần thần họp lại bảo nhau:

– Ngôi báu không thể nào không có vua trị, vậy phải làm gì bây giờ?

Lúc đó, vị tế sư của hoàng gia bảo họ:

– Ðừng lo, ta phải đem ra một chiếc xe hoa, hễ vị nào được xe hoa rước về thì sẽ có đủ uy lực cai trị cõi Diêm-phù-đề.

Họ chấp thuận, ra lệnh cho cả kinh thành trang hoàng thật lộng lẫy, cho bốn con ngựa màu đỏ tía buộc vào chiếc xe hoa, phủ kín màn vải lên chúng, gắn năm phù hiệu của hoàng gia vào và một đoàn tùy tùng vây quanh bốn phía xe. Bấy giờ, tiếng kèn khua vang dội phía trước xe, chỉ có một người lái xe, ngoài ra không có ai ở trong xe cả. Sau đó, vị tế sư ra lệnh khua chiêng trống ở đằng sau, và sau khi rảy nước trong chiếc bình bằng vàng lên dây cương và roi ngựa, vị này ra lệnh cho xe đi tìm vị vua đủ tài đức cai trị quốc độ.

Chiếc xe hoa oai vệ đi quanh hoàng cung rồi tiến ra đường cái. Vị đại tướng cùng nhiều viên quan trong triều đều tưởng rằng xe đang đi tới phía nhà mình. Nhưng rồi xe cứ đi thẳng ngang qua mọi phố phường trang nghiêm, diễu hành quanh kinh thành, ra khỏi Đông môn và tiến tới ngự viên. Khi ấy xe đi quá nhanh, những người hầu cận bảo xe dừng lại nhưng vị tế sư bảo:

– Đừng dừng lại, cứ để nó đi một trăm do-tuần tùy thích!

Xe tiến vào ngự viên, trịnh trọng đi vòng quanh bệ đá và dừng lại như thể sẵn sàng cho người bước lên. Vị tế sư ngắm bậc Đại sĩ đang nằm đó và bảo các vị đại thần:

– Thưa các ngài, ta thấy có người nằm nơi bệ đá, ta không biết người đó có đủ tài trí xứng đáng với chiếc lọng trắng của hoàng gia không. Nếu vị này là người có phước báu thì sẽ không thèm nhìn ta đâu, nhưng nếu đó là một kẻ hạ tiện thì sẽ giật mình khiếp sợ khi nhìn thấy ta, vậy hãy đánh chiêng trống lên cả nào!

Vì thế họ khua dậy hàng trăm thứ trống kèn chẳng khác nào tiếng gầm thét của biển cả. Bậc Ðại sĩ lúc đó thức giấc vì nghe tiếng ồn ào, mở khăn che đầu ra nhìn quanh thấy đám đông rầm rộ. Ngài nghĩ, có lẽ chiếc lọng trắng đã đến tay ngài nên lại che đầu và quay sang nằm phía bên tả. Vị tế sư mở chân ngài ra xem, ngắm các tướng mạo của ngài và bảo:

– Ðừng nói một châu thiên hạ mà làm gì, vị này có đủ uy lực cai trị cả bốn châu.

Thế là ông ta ra lệnh đánh chiêng trống lại lần nữa. Bậc Ðại sĩ mở khăn trùm mặt ra, quay người sang bên hữu và nhìn đám đông. Vị tế sư trấn an mọi người xong, chắp hai tay lại cúi xuống trước ngài, cung kính nói:

– Xin Ðại vương đứng dậy, vương quốc này thuộc quyền ngài rồi.

Bồ-tát trả lời:

– Thế đức vua đâu?

– Vua đã băng hà.

– Ngài không có vương tử, vương đệ gì sao?

– Tâu Ðại vương, không.

– Thôi được, thế thì ta nhận ngai vàng.

Rồi ngài đứng dậy, ngồi xếp bằng trên bệ đá. Quần thần làm lễ Quán đảnh phong vương cho ngài tại đó và thế là ngài trở thành Vua Mahājanaka. Rồi ngài bước lên xe về thành với vẻ uy nghi lẫm liệt của bậc đế vương. Ngài vào cung, bước lên ngai vàng, ban chức tước cho các vị đại thần và các quan lại khác.

Lúc bấy giờ, công chúa muốn thử tài của ngài qua cách xử sự đầu tiên liền cho gọi một thị vệ đến bảo:

– Ngươi hãy tâu với Ðại vương là Công chúa Sīvalī muốn mời ngài đến lập tức.

Vị vua tài trí này làm như không nghe lời gã, cứ tiếp tục phát họa cung điện:

– Phải thế này mới được!

Biết không thể nào làm nhà vua chú ý tới mình, gã trở lại tâu công chúa:

– Tâu Công chúa, Ðại vương nghe Công chúa nói vậy mà cứ tiếp tục phát họa sơ đồ hoàng cung thôi, ngài chẳng quan tâm gì đến Công chúa cả.

Công chúa tự nhủ: “Ðây phải là người có tâm hồn cao cả lắm.” Và nàng cho một sứ giả thứ hai, rồi thứ ba đến nữa. Sau cùng, vua vào cung với dáng điệu thong dong thư thái, dáng vẻ oai phong như sư tử. Khi ngài đến gần, công chúa không thể nào đứng yên được trước vẻ uy nghi của ngài liền bước lên đưa tay ra cho ngài vịn. Ngài cầm lấy tay nàng đi lên bệ vàng và sau khi ngự trên vương sàng dưới cây lọng trắng, ngài hỏi các đại thần:

– Khi Tiên đế băng hà, ngài có chỉ dạy các ngươi điều gì không?

Họ đáp:

– Vương quốc phải được giao cho kẻ nào có thể làm đẹp lòng Công chúa.

– Thế Công chúa đã đưa tay cho ta vịn khi ta đến gần nàng, như vậy ta đã làm đẹp lòng nàng rồi, còn điều gì khác nữa?

– Tiên đế bảo vương quốc phải được trao lại cho kẻ biết được phía đầu của ngự sàng hình vuông này.

Vua đáp:

– Ðiều này khó nói thật, nhưng cũng có thể biết được nhờ sáng kiến.

Thế là ngài rút ra một cây kim vàng trên đầu ngài và đưa cho công chúa, bảo:

– Đặt cái này vào cho đúng chỗ.

Nàng cầm lấy kim đặt vào đầu của chiếc ngự sàng. Cũng có chỗ nói rằng chàng đã đưa nàng thanh kiếm. Nhờ dấu hiệu này, ngài biết đâu là phía đầu ngự sàng nhưng cứ vờ làm như ngài không nghe họ nói. Ngài hỏi họ nói gì và khi họ lặp lại câu đó, ngài bảo:

– Biết đầu chiếc ngự sàng cũng không kỳ diệu gì.

Rồi ngài hỏi:

– Còn gì để thử tài nữa.

Họ đáp:

– Tâu Ðại vương, Tiên đế ra lệnh trao ngôi báu cho người nào giương được cây cung cần sức mạnh của cả ngàn người.

Khi họ đem cây cung đến theo lệnh ngài, ngài giương nó lên ngay lúc đang ngồi trên long sàng như thể đó là cái khung xe chỉ của đàn bà.

Ngài bảo:

– Còn gì nữa cứ nói đi!

– Tiên đế ra lệnh trao vương quốc cho kẻ nào tìm ra được mười sáu kho tàng.

– Danh sách đâu?

Các đại thần kể lại danh sách đã nói trên. Trong lúc nghe họ nói, ngài thấy ý nghĩa dần dần sáng tỏ ra như thể trăng hiện lên trên bầu trời.

– Hôm nay chưa phải lúc, để ngày mai ta sẽ đi lấy các kho báu.

Ngày hôm sau, ngài họp quần thần lại và hỏi:

– Tiên đế trước đây có cúng dường các vị Ðộc Giác Phật không?

Khi nghe họ bảo có, ngài nghĩ thầm: “Mặt trời ở đây không phải là mặt trời thật mà các vị Ðộc Giác Phật thường được gọi là mặt trời vì hình dáng tương tự như thế. Vậy kho tàng phải ở nơi Tiên đế thường đến gặp các vị này.” Rồi ngài bảo họ:

– Khi các vị Ðộc Giác Phật đến, Tiên đế thường gặp các Ngài ở đâu?

Họ tâu lại nơi này nơi nọ. Ngài ra lệnh đào chỗ đó lên và tìm ra kho tàng.

– Thế khi Tiên đế tiễn các vị Ðộc Giác Phật ra về, ngài đứng ở đâu để tạ từ?

Họ tâu lại và ngài ra lệnh đào chỗ đó lên. Quần thần reo hò vang dậy tỏ lòng hân hoan, đồng nói:

– Khi nghe nói chỗ mặt trời mọc, dân chúng trước kia đã quanh quẩn đào đất về phía mặt trời mọc thật. Rồi khi nghe phía mặt trời lặn, họ lại đào đất phía đó, nhưng đây mới đúng là kho tàng châu báu, thật là kỳ diệu!

Khi họ bảo:

– Kho tàng bên trong.

Ngài liền cho đào lên kho tàng ở bậc thềm nhà bên trong đại môn của hoàng cung.

– Kho tàng bên ngoài.

Ngài liền cho đào kho tàng ở bên ngoài thềm.

– Không ở trong cũng không ở ngoài.

Ngài cho đào kho tàng ở dưới thềm.

– Ở nơi bước lên.

Ngài cho đào kho tàng ở nơi đặt chiếc thang bằng vàng để nhà vua ngự lên vương tượng.

– Ở nơi bước xuống.

Ngài cho lấy ra kho tàng ở nơi nhà vua ngự xuống từ vương tượng.

– Ở bốn cột trụ lớn bằng gỗ sāla.

Có bốn chân chống lớn dưới vương sàng làm bằng gỗ sāla nơi triều thần phủ phục trên sân chầu, từ đó ngài cho lấy ra bốn bình đầy châu báu.

– Khoảng ách xe ngựa khắp vòng.

Lúc bấy giờ, yojana là ách xe ngựa, thế là ngài cho đào quanh long sàng cỡ bằng một ách xe ngựa, rồi lấy ra các bình châu báu.

– Kho tàng ở đầu răng.

Ở nơi vương tượng đứng, ngài lấy ra hai bình châu báu ngay trước hai ngà voi.

– Ở mút đuôi.

Từ nơi vương mã đứng, ngài lấy ra những bình châu báu nằm chỗ đối diện với cái đuôi của vương mã.

– Trong nước kebuka.

Lúc bấy giờ, nước được gọi là kebuka, thế là ngài cho tát hết nước trong hồ của hoàng cung và lấy lên kho báu.

– Kho báu ở ngọn cây.

Ngài lấy ra các bình báu vật chôn trong khoảng tàng cây sāla che bóng trưa giữa vườn ngự uyển. Như vậy, ngài đã lấy ra đủ mười sáu kho báu và hỏi xem còn nữa không, họ đồng đáp:

– Không còn.

Dân chúng vô cùng hoan hỷ. Nhà vua lại bảo:

– Ta sẽ đem châu báu này ra bố thí.

Thế là ngài bảo dựng lên năm sảnh đường bố thí giữa kinh thành và tại các cung môn rồi ban lệnh đại chẩn tế. Sau đó, ngài truyền đi mời mẹ ngài và vị Bà-la-môn từ Kāḷacampā về tuyên dương, tán thán công đức của hai vị.

Trong những ngày đầu tiên trị nước, Vua Mahājanaka, con trai của Vua Ariṭṭhajanaka, cai trị khắp mọi quốc độ ở Videha. Dân chúng bảo nhau:

– Hoàng đế thật tài đức, chúng ta muốn yết kiến long nhan.

Thế là cả kinh thành xôn xao muốn yết kiến tân vương, đem đến kinh đô đủ lễ vật từ khắp nơi. Họ chuẩn bị đại lễ tại kinh đô, phủ lên hào lũy của hoàng cung một lớp hồ vữa in dấu tay của họ, treo đầy hương liệu và tràng hoa, tung vãi ngũ cốc rang, hoa, hương trầm mù mịt cả bầu trời và soạn sẵn đủ loại thức ăn nước uống. Khi mang lễ vật vào dâng lên vua, họ đứng vây quanh với đủ loại phẩm vật cứng, mềm, mọi thức uống, trái cây.

Các đại thần ngồi một bên, một bên là các Bà-la-môn, một phía nữa là các thương nhân giàu có, một phía nữa là các vũ nữ xinh đẹp. Các Bà-la-môn danh ca có tài về lễ nhạc, hát vang những khúc hoan ca với hàng trăm nhạc cụ được khua động, vì vậy hoàng cung vang dậy lên âm thanh ầm ĩ như giữa lòng đại dương Yugandhara. Khi vua nhìn quanh mọi nơi, hết thảy đều rúng động.

Bồ-tát ngồi dưới cây lọng trắng, ngắm cảnh huy hoàng rực rỡ chẳng khác nào cung của Thiên chủ Sakka và ngài hồi tưởng những chiến đấu gian nan của ngài trên đại dương: “Dũng cảm là điều chính đáng cần phải biểu dương, nếu ta không biểu lộ lòng dũng cảm trên đại dương thì làm sao ta được huy hoàng như ngày nay?” Một nỗi hoan hỷ khởi lên trong lòng ngài trong lúc hồi tưởng quá khứ, khiến ngài lập tức bật lên lời cảm hứng:

133. Chỉ cần hy vọng hỡi người ơi,

Bậc Trí sẽ không nản ở đời,

Vì bản thân ta nhìn thấy rõ,

Muốn gì sẽ trở thành vầy thôi!

134. Chỉ cần hy vọng hỡi người ơi,

Bậc Trí sẽ không nản ở đời,

Vì bản thân ta nhìn thấy rõ,

Vượt từ biển nước ta lên bờ.

135. Chỉ cần cố gắng hỡi người ơi,

Bậc Trí sẽ không nản ở đời,

Vì bản thân ta nhìn thấy rõ,

Muốn gì sẽ trở thành vầy thôi!

136. Chỉ cần cố gắng hỡi người ơi,

Bậc Trí sẽ không nản ở đời,

Vì bản thân ta nhìn thấy rõ,

Vượt từ biển nước ta lên bờ.

137. Bậc Trí nhân dù gặp đau thương,

Cũng không tắt ước vọng an khương,

Nhiều lần trải nghiệm lạc, không lạc,

Khi chẳng suy tầm chịu mạng vong.

138. Có việc ta không nghĩ lại sanh,

Việc ta nghĩ đến thì không thành,

Những người nam, nữ được tài sản,

Chẳng phải do suy nghĩ đắc nhanh.

Sau đó, ngài hoàn thành thập vương pháp (mười đức tính của vị minh quân), cai trị rất đúng pháp và thường cúng dường các vị Ðộc Giác Phật. Cùng với thời gian này, Hoàng hậu Sīvalī hạ sinh một hoàng nam có đầy đủ các tướng tốt lành và được đặt tên là Dīghāvu (Trường Thọ). Khi hoàng tử lớn lên, nhà vua phong con làm phó vương và đã trị vì đất nước bảy ngàn năm.

Một ngày kia, người giữ vườn ngự uyển đem dâng vua đủ loại hoa quả. Vua rất đẹp ý và muốn làm vinh dự cho gã, ngài bảo gã trang hoàng ngôi vườn ngự uyển rồi ngài sẽ đến viếng. Người giữ vườn vâng lời ngài dạy xong liền tâu vua. Ngài liền ngự trên vương tượng có cận thần theo hầu, đi vào cổng ngự viên.

Bấy giờ, gần đó có hai cây xoài xanh tươi, một cây không trái, còn một cây đầy trái rất ngon ngọt. Trước đây, vua chưa nếm trái nào nên không ai dám hái cả. Ngay khi nhà vua đi ngang qua trên mình voi, ngài hái một trái ăn thử. Lúc quả xoài đụng đầu lưỡi ngài, một mùi hương tuyệt diệu xông lên khiến ngài nghĩ thầm: “Khi trở về, ta sẽ hái thêm nhiều trái nữa.” Nhưng khi được biết vua đã nếm trái đầu tiên rồi thì mọi người từ thái tử đến các người quản tượng đều tụ tập lại ăn xoài, còn những người không ăn trái thì lại lấy gậy phá cây, ngắt lá cho đến lúc cây tơi tả, xơ xác, trong lúc cây kia vẫn đứng sững tươi đẹp như một ngọn núi ngọc bích. Khi ra khỏi ngự viên, thấy vậy vua liền hỏi các đại thần. Họ tâu:

– Khi đám người này thấy Hoàng thượng đã “ngự” trái đầu tiên rồi thì họ phá cây.

– Nhưng cây kia không mất một ngọn lá nào.

– Nó không thiệt hại gì vì nó không có quả.

Vua vô cùng xúc động liền nghĩ: “Cây này giữ được màu xanh tươi vì nó không có quả, trong lúc cây bạn nó bị tan tành vì có quả. Vương quốc này cũng như cây có quả kia, còn đời người tu hành chẳng khác nào cây không trái. Chính người có của cải mới sợ hãi, chứ kẻ mình trần thân trụi thì chẳng phải sợ gì. Ta sẽ giống như cây không trái kia, chứ chẳng giống cây có trái nọ. Ta quyết sẽ từ bỏ tất cả cảnh huy hoàng lại, từ bỏ thế gian và trở thành vị khổ hạnh.” Quyết định vậy xong, ngài mới vào thành, đứng ở cửa cung, cho mời vị đại tướng vào bảo:

– Này tướng quân, từ hôm nay đừng cho ai yết kiến ta, trừ một thị giả đem cơm cho ta, một thị giả khác đem nước và bàn chải cho ta súc miệng. Còn khanh hãy cùng các chánh phán quan lão thần trong triều lo cai trị nước. Từ nay, ta sẽ sống đời tu sĩ trên tầng thượng của hoàng cung.

Nói xong, ngài đi lên tầng thượng của hoàng cung một mình và sống đời tu sĩ. Thời gian qua, dân chúng tụ tập trong sân chầu mà không yết kiến Bồ-tát được, họ bảo nhau:

– Ngài chẳng giống Ðại vương của chúng ta ngày trước.

Rồi họ ngâm kệ:

139. Chúa thượng, Ðại vương cõi thế gian,

Ðổi thay thật khác trước hoàn toàn,

Hoan ca, ngài chẳng lưu tâm đến,

Vũ nữ, ngài không thiết ngó ngàng.

140. Hươu nai, ngự uyển, đàn thiên nga,

Chẳng quyến rũ, đôi mắt hững hờ,

Tĩnh tọa, ngài thành câm lặng quá,

Ðể bao việc nước cứ trôi qua.

Họ lại hỏi thị giả và người hầu cận của vua:

– Ðại vương có bao giờ nói chuyện với quý vị không?

Họ đáp:

– Không bao giờ cả!

Rồi họ kể lại chuyện đức vua với tâm trí luôn luôn trầm mặc, xa rời mọi dục lạc. Ngài nhớ lại các bậc Hiền hữu của ngài, các vị Ðộc Giác Phật và tự nhủ: “Ai có thể chỉ cho ta biết nơi an trú của các Hiền nhân đã giải thoát mọi tham ái và đầy đủ mọi công đức này?”

Rồi ngài cảm khái ngâm lớn ba vần kệ:

141. Tránh ngoại cảnh, chuyên chú lạc tâm,

Thoát ràng buộc, sợ hãi phàm trần,

Ðâu vườn tiên giới, già cùng trẻ,

Ðồng trú bao Hiền thánh, Trí nhân?

142. Bỏ lại đằng sau mọi dục tham,

Ta tôn sùng các Thánh vinh quang,

Giữa đời điên đảo vì cuồng vọng,

Chư vị ly tham, bước tịnh an.

143. Các Ngài phá hết lưới Ma thần,

Cạm bẫy kẻ lừa dối đã giăng,

Thoát mọi buộc ràng thanh thản bước,

Ai đưa ta đến chỗ Ngài chăng?

Ngài sống đời ẩn sĩ tu hành trong cung vua được bốn tháng, cuối cùng ngài quyết tâm từ bỏ đời thế tục. Ngài thấy cung vua chẳng khác nào một tầng địa ngục ở giữa các thế gian và ba cõi sinh hữu (dục giới, sắc giới, vô sắc giới) đang bốc cháy. Trong tâm trạng ấy, ngài bỗng phát họa cảnh kinh thành Mithilā cùng với ý tưởng: “Bao giờ thì đến lúc ta từ giã kinh thành Mithilā huy hoàng rực rỡ như cung trời Sakka (Đế-thích) này để đi vào dãy Tuyết Sơn khoác áo khổ hạnh?”

144. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Rời thành phồn thịnh Mithilā,

Công trình cân đối, chia nhiều cấp,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

145. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Rời thành phồn thịnh Mithilā,

Công trình rộng lớn, huy hoàng khắp,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

146. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Rời thành phồn thịnh Mithilā,

Nơi nhiều thành vách, cung môn đẹp,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

147. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Rời thành phồn thịnh Mithilā,

Nơi đồn lũy, tháp canh bền chắc,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

148. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Rời thành phồn thịnh Mithilā,

Phân chia đại lộ thật đều đặn,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

149. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Rời thành phồn thịnh Mithilā,

Phân chia phố, tiệm, chợ đều đẹp,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

150. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Rời thành phồn thịnh Mithilā,

Nơi trâu, bò, ngựa, xe đông đúc,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

151. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Rời thành phồn thịnh Mithilā,

Có hoa viên thắm, rừng cây quý,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

152. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Rời thành phồn thịnh Mithilā,

Có vườn thượng uyển rừng hoa đẹp,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

153. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Rời thành phồn thịnh Mithilā,

Dãy cung điện với rừng xanh mướt,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

154. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Rời thành phồn thịnh Mithilā,

Tường thành ba lớp, có hoàng tộc,

Được tạo bởi Somanassa,

Vua xứ Videha danh tiếng,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

155. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Rời quê hưng thịnh Videha,

Kho tàng đầy ắp, hộ theo pháp,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

156. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Rời quê hưng thịnh Videha,

Hùng cường vô địch, hộ theo pháp,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

157. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Rời hoàng cung lộng lẫy, nguy nga,

Chia dinh thự khéo, đo cân đối,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

158. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Rời hoàng cung lộng lẫy, nguy nga,

Tường tô đất sét, vôi màu trắng,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

159. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Rời hoàng cung lộng lẫy, nguy nga,

Mùi hương tinh khiết bay thoang thoảng,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

160. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Giã từ các mái tháp gần xa,

Chia từng phần khéo, đo cân đối,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

161. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Giã từ các mái tháp gần xa,

Tường tô đất sét, vôi màu trắng,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

162. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Giã từ các mái tháp gần xa,

Mùi hương tinh khiết bay thoang thoảng,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

163. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Giã từ các mái tháp gần xa,

Chiên-đàn tẩm ướp, hương thoang thoảng,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

164. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Rời long sàng quý dát bằng vàng,

Phía trên trải thảm lông dài mịn,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

165. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Rời long sàng khảm ma-ni sang,

Phía trên trải thảm lông dài mịn,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

166. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Rời y bông vải, lanh Khoma,

Gấm Kodumba cùng tơ lụa,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

167. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Rời hồ nước mát xinh xinh kia,

Thiên nga hồng lượn kêu nhau suốt,

Hồ phủ đầy sen súng như vầy,

Nổi bật sen hồng, hoa súng biếc,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

168-69. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Giã từ vương tượng cả binh đoàn,

Có đai, cương ánh vàng, trang sức,

Điều tượng sư trên thân tọa an,

Tay giữ thương, tay kia giữ móc,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

170-71. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Giã từ ngựa chiến cả binh đàn,

Giống thuần Sindh hiếm, phi nhanh lẹ,

Tô điểm rất nhiều món phục trang,

Điều mã sư mang cung với kiếm,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

172-73. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Giã từ xa chiến cả binh đoàn,

Có giăng cờ hiệu, điểm tô đẹp,

Trang bị, da beo hổ trải sàng,

Viên quản xa mang cung, áo giáp,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

174-75. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Giã từ, rời hẳn các kim xa,

Có giăng cờ hiệu, điểm tô đẹp,

Trang bị, da beo hổ trải sàng,

Viên quản xa mang cung, áo giáp,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

176-77. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Giã từ xa bạc ánh cao sang,

Có giăng cờ hiệu, điểm tô đẹp,

Trang bị, da beo hổ trải sàng,

Viên quản xa mang cung, áo giáp,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

178-79. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Giã từ những chiếc mã xa kia,

Có giăng cờ hiệu, điểm tô đẹp,

Trang bị, da beo hổ trải sàng,

Viên quản xa mang cung, áo giáp,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

180-81. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Giã từ những chiếc lạc đà xa,

Có giăng cờ hiệu, điểm tô đẹp,

Trang bị, da beo hổ trải sàng,

Viên quản xa mang cung, áo giáp,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

182-83. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Giã từ hẳn những chiếc ngưu xa,

Có giăng cờ hiệu, điểm tô đẹp,

Trang bị, da beo hổ trải sàng,

Viên quản xa mang cung, áo giáp,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

184-85. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Giã từ những chiếc xe dê kia,

Có giăng cờ hiệu, điểm tô đẹp,

Trang bị, da beo hổ trải sàng,

Viên quản xa mang cung, áo giáp,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

186-87. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Giã từ những chiếc xe cừu kia,

Có giăng cờ hiệu, điểm tô đẹp,

Trang bị, da beo hổ trải sàng,

Viên quản xa mang cung, áo giáp,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

188-89. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Giã từ những chiếc xe nai kia,

Có giăng cờ hiệu, điểm tô đẹp,

Trang bị, da beo hổ trải sàng,

Viên quản xa mang cung, áo giáp,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

190. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Giã từ điều tượng sư hùng anh,

Họ mang áo giáp xanh oai vệ,

Tô điểm trên mình các phục trang,

Tay giữ thương, tay kia giữ móc,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

191. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Giã từ điều mã sư hùng anh,

Họ mang áo giáp xanh oai vệ,

Tô điểm trên mình các phục trang,

Tay giữ cung, tay kia giữ kiếm,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

192. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Giã từ viên quản xa hùng anh,

Họ mang áo giáp xanh oai vệ,

Tô điểm trên mình các phục trang,

Tay giữ cung, tay tên một bó,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

193. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Giã từ những xạ thủ hùng anh,

Họ mang áo giáp xanh oai vệ,

Tô điểm trên mình các phục trang,

Tay giữ cung, tay tên một bó,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

194. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Giã từ những hoàng tử hùng anh,

Họ mang áo giáp nhiều màu đẹp,

Tô điểm trên mình các phục trang,

Đầu đội vòng hoa vàng óng ánh,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

195. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Giã từ các giáo sĩ thanh cao,

Chuyên lo các lễ nghi tôn giáo,

Phục sức, tẩm chiên-đàn loại vàng,

Mặc vải Kāsi chất lượng nhất.

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

196. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Giã từ các đại thần, thân quan,

Họ đi phía trước, rất anh dũng,

Tô điểm trên mình áo giáp vàng,

Lại có mang thêm trang sức quý,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

197. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Giã từ phi, hậu, bảy trăm bà,

Điểm tô đủ mọi trang sức đẹp,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

198. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Giã từ phi, hậu, bảy trăm bà,

Đảm đang, hiểu biết, vòng eo nhỏ,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

199. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Giã từ phi, hậu, bảy trăm bà,

n cần, niềm nở, lời hiền diệu,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

200. Biết đến bao giờ ta xuất gia,

Giã từ bát nặng trăm pala,

Làm bằng vàng, khắc trăm hình ảnh,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

201-02. Biết đến khi nào ta tiến ra,

Cả đoàn binh tượng không theo ta,

Có đai, cương ánh vàng, trang sức,

Điều tượng sư trên thân tọa an,

Tay giữ thương, tay kia giữ móc,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

203-04. Biết đến bao giờ ta tiến ra,

Cả đoàn ngựa chiến không theo ta,

Giống thuần Sindh hiếm, phi nhanh lẹ,

Tô điểm rất nhiều món phục trang,

Điều mã sư mang cung với kiếm,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

205-06. Biết đến bao giờ ta tiến ra,

Cả đoàn xa chiến không theo ta,

Có giăng cờ hiệu, điểm tô đẹp,

Trang bị, da beo hổ trải sàng,

Viên quản xa mang cung, áo giáp,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

207-08. Biết đến bao giờ ta tiến ra,

Đoàn kim xa cũng không theo ta,

Có giăng cờ hiệu, điểm tô đẹp,

Trang bị, da beo hổ trải sàng,

Viên quản xa mang cung, áo giáp,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

209-10. Biết đến bao giờ ta tiến ra,

Cả đoàn xa bạc không theo ta,

Có giăng cờ hiệu, điểm tô đẹp,

Trang bị, da beo hổ trải sàng,

Viên quản xa mang cung, áo giáp,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

211-12. Biết đến bao giờ ta tiến ra,

Đoàn xa mã cũng không theo ta,

Có giăng cờ hiệu, điểm tô đẹp,

Trang bị, da beo hổ trải sàng,

Viên quản xa mang cung, áo giáp,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

213-14. Biết đến bao giờ ta tiến ra,

Lạc đà xa cũng không theo ta,

Có giăng cờ hiệu, điểm tô đẹp,

Trang bị, da beo hổ trải sàng,

Viên quản xa mang cung, áo giáp,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

215-16. Biết đến bao giờ ta tiến ra,

Đoàn ngưu xa cũng không theo ta,

Có giăng cờ hiệu, điểm tô đẹp,

Trang bị, da beo hổ trải sàng,

Viên quản xa mang cung, áo giáp,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

217-18. Biết đến bao giờ ta tiến ra,

Đoàn xe dê cũng không theo ta,

Có giăng cờ hiệu, điểm tô đẹp,

Trang bị, da beo hổ trải sàng,

Viên quản xa mang cung, áo giáp,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

219-20. Biết đến bao giờ ta tiến ra,

Đoàn xe cừu cũng không theo ta,

Có giăng cờ hiệu, điểm tô đẹp,

Trang bị, da beo hổ trải sàng,

Viên quản xa mang cung, áo giáp,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

221-22. Biết đến bao giờ ta tiến ra,

Đoàn xe nai cũng không theo ta,

Có giăng cờ hiệu, điểm tô đẹp,

Trang bị, da beo hổ trải sàng,

Viên quản xa mang cung, áo giáp,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

223. Biết đến bao giờ ta tiến ra,

Các viên điều tượng không theo ta,

Họ mang áo giáp xanh oai vệ,

Tô điểm trên mình các phục trang,

Tay giữ thương, tay kia giữ móc,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

224. Biết đến bao giờ ta tiến ra,

Các viên điều mã không theo ta,

Họ mang áo giáp xanh oai vệ,

Tô điểm trên mình các phục trang,

Tay giữ cung, tay kia giữ kiếm,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

225. Biết đến bao giờ ta tiến ra,

Quản xa sư cũng không theo ta,

Họ mang áo giáp xanh oai vệ,

Tô điểm trên mình các phục trang,

Tay giữ cung, tay tên một bó,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

226. Biết đến bao giờ ta tiến ra,

Những người xạ thủ không theo ta,

Họ mang áo giáp xanh oai vệ,

Tô điểm trên mình các phục trang,

Tay giữ cung, tay tên một bó,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

227. Biết đến bao giờ ta tiến ra,

Những hoàng tử cũng không theo ta,

Họ mang áo giáp nhiều màu đẹp,

Tô điểm trên mình các phục trang,

Đầu đội vòng hoa vàng óng ánh,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

228. Biết đến bao giờ ta tiến ra,

Mà đoàn giáo sĩ không theo ta,

Họ chuyên các lễ nghi tôn giáo,

Phục sức, tẩm chiên-đàn loại vàng,

Mặc vải Kāsi chất lượng nhất.

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

229. Biết đến bao giờ ta tiến ra,

Đại thần thân cận không theo ta,

Họ đi phía trước, rất anh dũng,

Tô điểm trên mình áo giáp vàng,

Lại có mang thêm trang sức quý,

Ôi, khi nào thỏa nguyện cho ta?

230. Biết đến bao giờ ta tiến ra,

Bảy trăm phi, hậu không theo ta,

Họ mang đủ mọi trang sức đẹp,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

231. Biết đến bao giờ ta tiến ra,

Bảy trăm phi, hậu không theo ta,

Họ nhiều hiểu biết, vòng eo nhỏ,

Ôi, đến khi nào thỏa nguyện ta?

232. Biết đến bao giờ ta tiến ra,

Bảy trăm phi, hậu không theo ta,

Họ luôn niềm nở, lời hiền diệu,

Ôi, biết khi nào thỏa nguyện ta?

233. Biết đến bao giờ có bát rồi,

Đầu ta đã cạo, đắp y đôi,

Ta đi khất thực ở nhiều chỗ,

Biết đến bao giờ thỏa nguyện, ôi!

234. Bao giờ sẽ có y đôi thường,

Từ các mảnh vải bẩn bên đường,

Làm y phấn tảo ta dùng mặc,

Ôi, biết khi nào thỏa ước mong?

235. Bao giờ sẽ có trận mưa dai,

Mưa đổ suốt trong cả bảy ngày,

Ta khất thực mang y ẩm ướt,

Ôi, khi nào có việc như này?

236. Khi nào ta sẽ đi muôn phương,

Qua các cội cây, các cánh rừng,

Trong dạ không còn những ước vọng,

Ôi, điều này sẽ xảy ra bao giờ?

237. Biết đến bao giờ ta độc hành,

Qua đồi núi hiểm trở, loanh quanh,

Không còn nỗi hãi kinh, lo lắng,

Ôi, biết khi nào việc trở thành?

238. Biết lúc nào tu trực hạnh tâm,

Như người nghệ sĩ thất huyền cầm,

Đàn hòa tuyệt dịu nghe thanh thoát,

Ôi, biết khi nào việc trở thành?

239. Đoạn lúc nào thì kiết sử rời,

Chính dây dục trói cõi người, trời,

Giống như thợ mộc thật nhuần nhuyễn,

Gọt láng sạch quanh guốc gỗ rồi?

Lúc bấy giờ, ngài sinh vào thời kỳ con người thọ đến một muôn tuổi. Vì vậy, sau khi trị nước bảy ngàn năm, ngài làm ẩn sĩ, ngài còn ba ngàn năm nữa và lúc bắt đầu sống đời khổ hạnh, ngài vẫn còn ở hoàng cung bốn tháng kể từ ngày thấy cây xoài nhưng rồi ngài tự nhủ ở am ẩn sĩ tốt hơn ở hoàng cung.

Thế là ngài bí mật bảo người hầu cận tìm cho ngài vài chiếc y vàng và một bình bát bằng đất bán ở chợ. Ngài cho mời người thợ hớt tóc vào cạo bỏ râu tóc ngài, mặc một y vàng bên trong, một y vàng bên ngoài, đắp một y nữa lên vai. Rồi cầm chiếc gậy, ngài đi lui đi tới nhiều lần trên gác hoàng cung với những bước chân ngất ngưởng của một vị Ðộc Giác Phật. Ngày hôm ấy ngài còn ở đấy, nhưng sáng sớm hôm sau, ngài bắt đầu đi xuống.

Hoàng hậu Sīvalī cho gọi bảy trăm cung nữ được sủng ái vào bảo:

– Ðã lâu lắm rồi, cả bốn tháng tròn kể từ khi chúng ta gặp Thánh thượng lần cuối, hôm nay chúng ta sẽ giáp được mặt rồng. Vậy các nàng hãy trang điểm cho mình thật đẹp, làm sao cố mê hoặc Thánh thượng để ngài tham đắm dục lạc không thoát ra nổi!

Ðược các cung nữ trang sức lộng lẫy hộ tống, hoàng hậu bước lên hoàng cung để yết kiến vua. Nhưng dù thấy ngài đi xuống, bà không nhận ra ngài, cứ tưởng đó là một vị Ðộc Giác Phật đến giáo hóa vua. Bà đảnh lễ và đứng qua một bên, rồi Bồ-tát bước xuống khỏi hoàng cung. Nhưng hoàng hậu khi lên lầu ngắm các lọn tóc của vua màu ong nghệ rớt trên long sàng cùng các vật dụng tắm rửa của ngài liền thét lên:

– Ðó không phải vị Ðộc Giác Phật đâu, có lẽ đó là Thánh thượng tôn quý của ta rồi. Thôi ta phải van xin ngài trở lại!

Thế là từ gác hoàng cung đi xuống sân rồng, hoàng hậu cùng các cung phi xõa tóc rũ rượi trên lưng, đấm ngực đi theo nhà vua than khóc thảm thiết:

– Ôi, Ðại vương, sao ngài nỡ làm vậy?

Cả kinh thành náo động lên, dân chúng ùa theo đức vua khóc lóc:

– Thánh thượng đã làm ẩn sĩ rồi, ta còn tìm đâu ra một vị anh quân như vậy nữa?

Lúc ấy, bậc Ðạo sư tả cảnh các cung phi khóc lóc và nhà vua cứ bỏ mặc họ mà đi, đã ngâm kệ này:

240. Bảy trăm nàng hậu với phi tần,

Tô điểm trên người mọi phục trang,

Tay hướng lên cao, than khóc lớn:

“Sao ngài nỡ bỏ thiếp lên đàng?”

241. Bảy trăm nàng hậu với phi tần,

Họ có eo thon, rất đảm đang,

Tay hướng lên cao, than khóc lớn:

“Sao ngài nỡ bỏ thiếp lên đàng?”

242. Bảy trăm nàng hậu với phi tần,

Niềm nở, ân cần, lời dịu ngoan,

Tay hướng lên cao, than khóc lớn:

“Sao ngài nỡ bỏ thiếp lên đàng?

243. Giã từ phi, hậu, bảy trăm nàng,

Tô điểm trên người mọi phục trang,

Đại đế lên đường rời chỗ ấy,

Ngài luôn trọng cắt ái, ly gia.

244. Giã từ phi, hậu, bảy trăm nàng,

Họ có eo thon, rất đảm đang,

Đại đế lên đường rời chỗ ấy,

Ngài luôn trọng cắt ái, ly gia.

245. Giã từ phi, hậu, bảy trăm nàng,

Niềm nở, ân cần, lời dịu ngoan,

Đại đế lên đường rời chỗ ấy,

Ngài luôn trọng cắt ái, ly gia.

246. Giã từ chén rượu lễ đăng quang,

Dấu xưa vương giả cảnh huy hoàng,

Hôm nay ngài lấy bình bằng đất,

Sự nghiệp mới đang phải khởi đường.[13]

Hoàng hậu Sīvalī thấy khóc than không thể cản bước vua được liền nghĩ một cách khác. Bà cho triệu viên đại tướng quân đến, ra lệnh đốt lửa trước mặt vua, giữa những căn nhà hoang phế nằm trên hướng vua đi tới, chất cao cỏ rác thành từng đống, khói tỏa mịt mù khắp nơi. Vị này tuân lệnh. Rồi bà chạy đến bên chân vua, quỳ xuống dưới chân ngài, tâu rằng kinh thành Mithilā đang bốc cháy qua hai vần kệ này:

247. Thật là khủng khiếp, lửa hoành hành,

Kho báu, kho hàng cháy thật nhanh,

Vàng, bạc, ngọc, sò lần lượt cháy,

Thảy đều tiêu hủy đến tan tành.

248. Xiêm y lộng lẫy, ngà, da, đồng,

Tất cả gặp chung phận phũ phàng,

Tâu Chúa thượng, xin mau trở lại,

Cứu tài sản trước lúc tiêu vong!

Bồ-tát trả lời:

– Ô hay, Hoàng hậu nói gì vậy? Kẻ nào có của cải mới lo bị đốt cháy, chứ ta có gì đâu?

249. Ta chẳng có đâu của cải gì,

Sống không lo lắng hoặc sầu bi,

Mithilā có nguy cơ cháy,

Ta cũng chẳng còn cháy vật chi![14]

Nói xong, ngài đi ra phía Bắc môn, các cung phi cũng theo sau. Hoàng hậu Sīvalī ra lệnh bảo họ chỉ cho ngài xem các làng mạc bị tàn phá, đất bị bỏ hoang và họ lại chỉ cho ngài thấy nhiều người mang khí giới chạy đi cướp bóc khắp nơi, trong khi một số người khác được phết sơn đỏ lên người và khiêng đi trên các tấm ván như thể bị thương hay đã chết rồi. Dân chúng la hét lên:

– Tâu Ðại vương, trong khi ngài gìn giữ giang sơn, chúng phá phách giết hại đồng bào như vậy đó.

Thế là hoàng hậu ngâm vần kệ van xin vua trở về:

250. Bọn giữ rừng đang bỏ đất hoang,

Xin ngài về cứu độ toàn dân,

Giang sơn đừng để ngài không trị,

Ðành sụp đổ vô vọng nát tan.

Nhà vua suy nghĩ: “Khi ta đang cai trị, không có cướp bóc nào nổi lên phá hoại đất nước cả, chắc đây là trò bịa đặt của Hoàng hậu Sīvalī.” Vì vậy, ngài ngâm các vần kệ này như thể ngài không biết bà nói gì:

251. Ta chẳng có đâu của cải gì,

Sống không lo lắng hoặc sầu bi,

Giang sơn có thể nằm hoang vắng,

Nhưng chính ta không thiệt hại chi.

252. Chúng ta không có của gì riêng,

Sống chẳng lo âu, chẳng muộn phiền,

Thọ hưởng niềm vui trong cực lạc,

Khác gì một vị Quang Âm thiên.

Dù ngài nói vậy, dân chúng vẫn đi theo ngài, ngài tự nhủ: “Họ không muốn trở về, vậy ta phải buộc họ trở về.” Rồi khi ngài đi được chừng nửa dặm, ngài quay lui hỏi vị đại thần:

– Ðất nước này của ai đây?

– Tâu Ðại vương, đất nước của Ðại vương.

– Vậy thì hãy trừng phạt kẻ nào vượt khỏi ranh giới này.

Nói xong, ngài vạch một lằn ranh bằng cây gậy của ngài. Không một kẻ nào dám vi phạm ranh giới này cho nên dân chúng đứng sau lằn ranh la khóc ầm ĩ. Hoàng hậu cũng không thể vượt lằn ranh, chỉ biết nhìn theo nhà vua đang đi xa dần, quay lưng về phía bà. Rồi bà không ngăn được sầu khổ, đấm ngực khóc lóc, ngã xuống, cố vượt qua khỏi lằn ranh. Dân chúng la to:

– Quân canh giữ đã phá lằn ranh rồi.

Thế là họ theo gương hoàng hậu bước qua.

Bậc Ðại sĩ đi về phía bắc dãy Himavanta (Tuyết Sơn), hoàng hậu cũng đi theo ngài, kéo theo cả binh sĩ cùng đàn voi ngựa để cưỡi. Vua không ngăn chặn họ được nên cứ tiếp tục cuộc hành trình chừng sáu mươi do-tuần nữa.

Lúc bấy giờ, có một ẩn sĩ tên gọi Nārada ở trong Kim động thuộc dãy Himavanta đã chứng được năm thắng trí. Sau bảy ngày nhập định, vị ấy xuất thiền và đắc thắng reo lên:

– Ôi, cực lạc! Ôi, cực lạc!

Rồi trong khi vị ấy dùng thiên nhãn nhìn xem có ai trong cõi Diêm-phù-đề này đang đi tìm cực lạc như vậy không, chợt vị ấy thấy Bồ-tát Mahājanaka. Vị ấy nghĩ: “Ông vua này đã làm đại sự xuất thế nhưng lại không ngăn được đám đông dân chúng do Hoàng hậu Sīvalī dẫn đường, họ có thể gây cản trở cho ngài. Vậy ta phải khích lệ sao cho nhà vua giữ chí nguyện vững vàng hơn nữa.”

Rồi vị ấy dùng thần lực đứng trên không trước mặt vua ngâm kệ để giúp tăng cường quyết tâm của ngài:

253. Do đâu huyên náo ở đằng kia,

Như thể là đình đám hội hè,

Sao đám đông này đang tụ tập,

Xin ngài ẩn sĩ nói cho nghe?

Vua liền đáp:

254. Ta đã vượt ranh giới, xuất gia,

Cho nên dân chúng đến đây mà,

Ta xa đời với lòng an lạc,

Người đã biết rồi, sao hỏi ta?

Vị ẩn sĩ ngâm vần kệ để xác nhận ý chí của vua:

255. Ðừng nghĩ rằng ngài đã vượt ranh,

Vẫn còn dao động ở trong mình,

Vẫn còn chướng ngại ngay đằng trước,

Chiến thắng ngài chưa thể đạt thành.

Bậc Ðại sĩ lớn tiếng tuyên bố:

256. Không dục lạc dầu thuộc loại nào,

Làm sờn ý chí vững bền đâu,

Cừu nhân nào cản đường ta được,

Trong lúc ta đang tới đích mau?

Sau đó, ẩn sĩ ngâm vần kệ nêu rõ các chướng ngại:

257. Hôn trầm, phóng dật theo tham dục,

Mê đắm, tâm bất mãn, hận sân,

Thân đón bọn này như khách quý,

Tất nhiều chướng ngại phải đa mang.

Bậc Ðại sĩ liền khen ngợi vị ấy qua vần kệ:

258. Ðạo sĩ, lời khuyên đáng bậc Hiền,

Cám ơn người đã nói lời trên,

Trả lời ta hỏi như người muốn,

Xin nói là ai đó, họ tên?

Ẩn sĩ đáp:

259. Ta đây danh hiệu Nārada,

Từ chốn ẩn cư tiên giới, ta

Vừa đến nói điều này với bạn,

Kết giao bậc Trí tối ưu mà.

260. Thực hành bốn pháp tối cao thay,

Tìm cực lạc trong Thánh đạo này,

Dù thiếu thứ gì ngài cũng mặc,

Sống bằng nhẫn nhục, tịnh an đầy.

261. Ngã tưởng dù là thấp hoặc cao,

Ðều không xứng với bậc Hiền đâu,

Hãy xem giới luật và tri kiến,

Pháp bảo hộ cho cuộc Thánh cầu.

Rồi Nārada bay về cõi an trú của mình. Sau đó, một ẩn sĩ khác tên Migājina vừa mới xuất thiền định, đang chiêm ngưỡng bậc Ðại sĩ và quyết định khuyến khích ngài bảo dân chúng ra về nên vị này hiện ra trên không trước mặt ngài và ngâm các vần kệ sau:

262. Các đàn ngựa, voi, các cỗ xe,

Thần dân thành thị lẫn thôn quê,

Mahājanaka đã lìa xa chúng,

Bình bát đất làm ngài thỏa thuê.

263. Hãy nói, phải chăng các đại thần,

Chư hầu, quyến thuộc hoặc thân bằng,

Làm ngài thương tổn vì lừa phản,

Ngài chọn đây làm chỗ trú chân?

Bậc Đại sĩ đáp:

264. Hiền nhân, không thể có khi nào,

Bất cứ nơi nào, hoặc cớ sao,

Ta đã làm sai cho quyến thuộc,

Hoặc là họ khiến ta buồn đau.

Sau khi bác lại câu hỏi như vậy, giờ ngài nói vần kệ này để chỉ rõ nguyên nhân đi tu:

265. Thấy đời bị nghiền nát đau thương,

Tăm tối vì ô nhiễm, bụi bùn,

Thấy nạn nhân gông xiềng, giết chết,

Người đời dính mắc dục phàm trần,

Lấy đây ví dụ cho mình vậy,

Khất sĩ từ đây khởi bước đường.

Vị khổ hạnh muốn nghe thêm nữa liền hỏi ngài:

266. Không ai muốn khổ hạnh lang thang,

Nếu chẳng Đạo sư chỉ lối đường,

Dù cách thực hành hay lý thuyết,

Ai là sư phụ nói cho tường?

Bậc Ðại sĩ đáp:

267. Hiền giả, chưa hề trước đến giờ,

Ta nghe lời nói động tâm ta,

Từ môi đạo sĩ hay du sĩ,

Khuyên bảo ta làm khổ hạnh gia.

Bậc Ðại sĩ nói cho vị ấy đầy đủ chi tiết lý do ngài xuất thế:

268. Ta đã nhàn du chốn ngự viên,

Một ngày mùa hạ đại trang nghiêm,

Với bao ca khúc và đàn địch,

Tràn ngập không gian khắp mọi miền.

269. Nơi kia ta thấy một cây xoài,

Ðứng cạnh bức tường gốc rễ phơi,

Vì bọn phàm nhân tìm hái trái,

Toàn thân xơ xác, lá tơi bời.

270. Giật mình rời cảnh tượng oai hùng,

Dừng bước ngắm cây, mắt lạ lùng,

So sánh cây xoài này có trái,

Với cây không trái mọc kề gần.

271. Cây có trái kia đứng lụi tàn,

Mọi cành trơ trụi lá tan hoang,

Cây không trái đứng xanh, cường tráng,

Tán lá vẫy trong gió nhẹ nhàng.

272. Cây đầy trái cũng giống như vua,

Lắm địch thủ mong giết hại ta,

Và cướp của ta bao trái ngọt,

Trong thời gian ngắn phô bày ra.

273. Voi bị giết vì chính bộ ngà,

Cọp beo bị giết bởi vì da,

Bơ vơ, không cửa nhà, bằng hữu,

Người đại phú sau rốt hiểu ra:

Tài sản chính là tai họa lớn,

Hai cây xoài ấy chính thầy ta,

Từ hai cây ấy ta tìm được

Bài học dạy ta sống xuất gia.

Ẩn sĩ Migājina nghe vua nói như vậy liền khuyên nhủ ngài nên nhất tâm rồi trở về nơi trú của mình. Khi ẩn sĩ đi rồi, Hoàng hậu Sīvalī liền quỳ xuống chân vua và tâu:

274. Ở trên vương tượng hoặc vương xa,

Kỵ mã, bộ binh khắp mọi nhà,

Tất cả thần dân đều khóc lớn:

“Ðại vương đã xuất thế ly gia!”

275. Xin trấn an lòng chúng trĩu buồn,

Hoàng nhi, ngài hãy đợi phong vương,

Rồi xa trần thế như ngài muốn,

Khổ hạnh đơn thân tiến bước đường.

Bồ-tát đáp:

276. Ta bỏ đằng sau những cận thần,

Thân bằng, quyến thuộc khắp non sông,

Nhưng còn vương tộc Vi-đề ấy,

Huấn luyện Dīghāvu trị dân,

Hoàng hậu Mithilā chớ sợ,

Quần thần sẽ hỗ trợ kề gần!

Hoàng hậu kêu lên:

– Tâu Ðại vương, Ðại vương đã làm ẩn sĩ, vậy thần thiếp phải làm gì bây giờ?

Nhà vua liền bảo:

– Ta khuyên Hoàng hậu thế này, hãy gắng thực hiện lời ta!

Rồi ngài nói với bà như sau:

277-78. Nếu dạy hoàng nhi lúc trị dân,

Sai lầm trong ý tưởng, lời, thân,

Sau nàng sẽ gặp nhiều đau khổ,

Vận mạng này đây đã định phần.

Vật bố thí dành cho khất sĩ,

Bậc Hiền bảo đấy chúng ta cần.

Ngài khuyên nhủ hoàng hậu như thế xong rồi cùng đàm đạo với bà trên đường đi cho đến khi mặt trời lặn. Hoàng hậu cho cắm trại vào một nơi thích hợp, còn nhà vua đến một gốc cây ngủ qua đêm. Ngày hôm sau, khi tắm rửa xong, ngài lại tiếp tục ra đi. Hoàng hậu ra lệnh cho binh lính phải đi theo và bà cũng đi theo ngài.

Vào giờ khất thực, họ đến kinh thành Thūṇa. Lúc đó, có một người đàn ông mua một miếng thịt lớn ở hàng thịt xong, đem nướng chín trên vĩ và đặt trên một tấm thớt chờ nguội. Nhưng trong khi gã bận rộn làm việc khác thì một con chó đến tha thịt đi mất. Người ấy đuổi theo đến cửa Nam kinh thành nhưng vì mệt quá phải dừng lại.

Vua và hoàng hậu đang đi đến trước mặt con chó, nó hoảng sợ khi thấy hai vị nên làm rơi miếng thịt và chạy mất. Bậc Ðại sĩ thấy vậy liền nghĩ: “Nó đã làm rớt miếng thịt và chạy trốn, không màng đến thịt nữa mà chủ nhân thì không biết là ai, thật không có của bố thí nào tốt hơn cái này, ta phải ăn mới được.” Thế rồi ngài lấy bình bát đất ra, cầm miếng thịt lên phủi bụi dơ đặt vào bình bát, tìm một nơi dễ chịu mát mẻ có nước chảy rồi ăn thịt.

Hoàng hậu nghĩ thầm: “Nếu đức vua xứng đáng ngồi trên ngai vàng thì ngài đã không ăn vật thừa đầy bụi bặm của chó, thật bây giờ ngài không còn là quân vương của ta nữa.” Rồi bà nói to:

– Ðại vương ôi! Ngài ăn miếng thịt ghê tởm như vậy sao?

– Ấy chính sự ngu dại mù quáng của nàng làm cho nàng không thấy được giá trị đặc biệt của vật bố thí này.

Rồi ngài thận trọng quan sát chỗ miếng thịt đã rơi xuống và ăn thịt ngon lành như thể cao lương mỹ vị của thần tiên xong rửa miệng và tay chân.

Lúc ấy, hoàng hậu nói giọng khiển trách ngài:

279. Tứ thời ăn cứ đến xoay vần,

Nếu nhịn ăn, người phải bỏ thân,

Tuy thế một người dòng quý tộc,

Sẽ không nếm vật bẩn kinh hồn.

Ngài đã làm đây việc trái sai,

Ðại vương ôi, đáng thẹn cho ngài,

Lấy ăn đồ vật thừa từ chó,

Việc bất xứng kia đã phạm rồi.

Bậc Ðại sĩ đáp:

280. Vật thừa từ chó hoặc từ người,

Ta chắc chẳng là của cấm ai,

Nếu được vật kia theo đúng pháp,

Thức ăn hợp lý, sạch mà thôi.

Ðang lúc nói chuyện, vua và hoàng hậu đi đến cổng thành. Trẻ con đang chơi đùa ở đó, một cô bé đang sảy cát trong một cái sàn sảy thóc nhỏ. Trên tay cô bé có một chiếc vòng không gây tiếng động nào, còn tay kia có hai chiếc vòng kêu reng reng. Nhà vua thấy vậy nghĩ thầm: “Sīvalī cứ đi theo ta mãi, kẻ khổ hạnh còn có vợ thật là tai hại, người đời sẽ chê trách ta và bảo rằng ngay cả khi ta đã xa lìa thế tục mà ta lại không xa vợ được. Vậy nếu cô gái này khôn ngoan, cô bé có thể nói cho Sīvalī hiểu tại sao nàng phải quay về và xa lìa ta cho rồi. Ta sẽ nghe chuyện cô bé này và bảo Sīvalī phải đi ngay.” Rồi ngài bảo:

281. Cô bé nép mình dưới mẹ hiền,

Với vòng nho nhỏ ấy đeo trên,

Vì sao chỉ một tay rung nhạc,

Trong lúc tay kia mãi lặng yên?

Cô bé đáp:

282. Hai vòng đeo ở cánh tay tôi,

Chẳng phải một vòng, khất sĩ ôi!

Vì xúc phạm nhau gây tiếng động,

Việc này do chính chiếc vòng đôi.

283. Nhưng chú ý xem tay phía này,

Chiếc vòng độc nhất nó đeo vầy

Ðứng yên tại chỗ không lên tiếng,

Im lặng chỉ vì chẳng có hai.

284. Chính chiếc vòng đôi tạo tiếng ồn,

Một vòng độc nhất ấy thì không,

Ngài tìm hạnh phúc nên đơn độc,

Hạnh phúc chỉ người sống độc thân.

Nghe lời cô gái, ngài hiểu ý và bảo hoàng hậu:

285. Hãy nghe lời nói của cô này,

Cô gái làm ta hổ thẹn đầy,

Ví thử nghe lời nàng thỉnh nguyện,

Lỗi lầm chính kẻ thứ hai gây.

286-87. Ðây hai đường, chọn một cho nàng,

Còn lối kia, ta chọn chính ta,

Ðừng gọi ta là chồng vậy nữa,

Nàng không còn vợ, hãy chia xa!

Hoàng hậu nghe ngài nói thế liền xin ngài đi rẽ về phía tay phải tốt hơn, còn bà đi về phía trái. Nhưng chỉ đi được một đoạn, bà không ngăn chặn được sầu khổ liền trở lại với ngài và cùng ngài đi vào thành.

***

Bậc Ðạo sư giải thích chuyện này và nói như sau:

Cùng với những lời này trên môi,

Hai vị đi vào thành Thūṇa.

Sau khi đã vào thành, Bồ-tát tiếp tục đi khất thực, đến cửa nhà một người làm cung tên, trong khi đó hoàng hậu đứng một bên. Bấy giờ, người thợ đang nung đỏ mũi tên trên một lò than rồi nhúng ướt tên đó trong một ít bột hồ chua, nheo một mắt lại, còn mắt kia nhắm mũi tên cho thẳng. Bồ-tát nghĩ: “Nếu người này khôn ngoan thì có thể giải thích cho ta rõ chuyện này. Ðể ta hỏi gã thử xem!” Rồi ngài đến gần gã.

Bậc Ðạo sư tả cảnh này qua vần kệ:

288. Ðến nhà khất thực kẻ làm tên,

Người ấy nheo con mắt đứng lên,

Và với mắt kia nhìn một hướng,

Ðể làm cho thẳng mũi tên rèn.

Lúc ấy, bậc Ðại sĩ bảo gã:

289. Một mắt sao ngươi cứ nhắm hoài,

Chỉ nhìn một mắt chẳng hề sai,

Xin ngươi giải thích hành vi ấy,

Ngươi nghĩ nó hoàn thiện mắt ngươi?

Gã đáp lại:

290. Tầm mắt hai tròng mở rộng ra,

Chỉ làm lạc hướng nhãn quang ta,

Không nhìn thấy được chỗ cong vẹo,

Chẳng tạo được tên nào thẳng ngay.

291. Khi một mắt vừa nhắm lại xong,

Chỉ dùng một mắt ngắm nơi cong,

Mới nhìn thấy rõ chỗ sai khác,

Tạo được chiếc tên thẳng ước mong.

292. Có kẻ thứ hai có cãi tranh,

Một người thì cãi với ai đành?

Nếu ngài muốn cõi phúc, thiên giới,

Hãy mến ưa đơn độc, gắng hành!

Sau mấy lời khuyên nhủ này, gã yên lặng. Bậc Ðại sĩ lại tiếp tục đi khất thực, khi đã thọ lãnh đủ loại thức ăn, ngài liền đi ra khỏi thành tìm chỗ mát mẻ có nước chảy ngồi xuống. Khi đã ăn uống xong xuôi, ngài cất bình bát vào chiếc bị và bảo Hoàng hậu Sīvalī:

293. Nàng nghe lời gã nhắm tên vầy,

Chẳng khác gì cô gái trước đây,

Gã sẽ làm cho ta rối trí,

Với bao hổ thẹn ngập đầu này,

Nếu ta nhượng bộ nàng cầu thỉnh,

Gây lỗi chính là kẻ thứ hai.

294-95. Ðây hai đường, chọn một cho nàng,

Còn lối kia, ta chọn chính ta,

Ðừng gọi ta là chồng vậy nữa,

Ta không có vợ, giã từ nàng!

Dù nghe lời ngài nói vậy, hoàng hậu vẫn đi theo ngài nhưng bà hiểu bà không thể nào thuyết phục vua quay trở về được nữa, còn dân chúng cũng cứ tiếp tục theo sau bà. Lúc bấy giờ, có một khu rừng không xa đó mấy, bậc Ðại sĩ thấy bóng cây đổ xuống tối mờ, ngài muốn bảo hoàng hậu quay về nên khi thấy cỏ muñja mọc bên lề đường, ngài ngắt một cọng cỏ, bảo bà:

– Này Sīvalī, thân cây cỏ này không thể nối lại được nữa, vậy từ nay mối liên lạc giữa ta và nàng cũng không bao giờ nối lại được nữa đâu.

Rồi ngài ngâm lớn nửa vần kệ:

Như cỏ muñja đã lớn này,

Sīvalī, độc trú từ đây.

Khi hoàng hậu nghe thế, bà nói:

– Từ nay ta cũng không liên lạc gì với Vua Mahājanaka nữa.

Rồi không thể ngăn được sầu khổ, bà đấm ngực la khóc và ngất xỉu bên vệ đường. Bậc Đại sĩ thấy bà đã bất tỉnh mê man, lập tức đi sâu vào rừng, cẩn thận xóa mờ dấu chân của ngài. Các quan đại thần chạy đến rảy nước vào thân thể hoàng hậu, xoa bóp tay chân của bà một lát thì bà hồi tỉnh. Bà hỏi:

– Ðại vương đâu rồi?

Họ tâu:

– Thế Hoàng hậu không biết sao?

Hoàng hậu bảo họ:

– Ði tìm Hoàng thượng ngay!

Nhưng dù họ đi quanh quẩn khắp nơi, họ cũng không tìm thấy ngài đâu. Vì thế bà than khóc thảm thiết, và sau khi bảo dựng đền thờ nơi ngài đứng trước kia, bà cúng dường hương hoa rồi trở về.

Bậc Đại sĩ ở trong Tuyết Sơn, trong bảy ngày ngài chứng đắc năm thắng trí và tám thiền chứng rồi ngài không trở lại cõi đời này nữa. Hoàng hậu bảo dựng đền thờ ở các nơi ngài đã đến và nói chuyện với người thợ làm tên, với cô bé gái, nơi ngài đã ăn miếng thịt, nơi ngài nói chuyện với hai ẩn sĩ Migājina và Nārada xong, bà làm lễ cúng dường hương hoa.

Rồi được binh lính hộ tống, bà vào thành Mithilā cử hành lễ phong vương cho hoàng tử trong vườn xoài và ra lệnh đem hoàng tử cùng binh lính vào thành. Còn phần bà, sau khi chọn đời khổ hạnh của một nữ ẩn sĩ, bà sống ở trong vườn xoài và hành trì các pháp môn đưa đến thiền định cho đến khi bà chứng đắc thiền định và được sinh vào cảnh giới của Phạm thiên.

***

Sau khi kể pháp thoại này xong, bậc Ðạo sư nói với các Tỷ-kheo:

– Này các Tỷ-kheo, đây không phải lần đầu tiên Như Lai làm đại sự xuất thế mà xưa kia Như Lai cũng đã làm như vậy.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Lúc ấy, vị nữ hải thần là Uppalavaṇṇā (Liên Hoa Sắc), Hiền giả Nārada là Sāriputta (Xá-lợi-phất), Hiền giả Migājina là Moggallāna (Mục-kiền-liên), cô gái là Tỷ-kheo-ni Khemā, người làm tên là Ānanda (A-nan), Hoàng hậu Sīvalī là mẹ của Rāhula, Hoàng tử Dīghāvu là Rāhula (La-hầu-la), cha mẹ của Bồ-tát là hai vị trong vương tộc ngày nay và Vua Mahājanaka chính là Ta.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.