Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »
Kinh Tiểu Bộ Quyển 3
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch
§535. CHUYỆN THỰC PHẨM THIÊN GIỚI (Sudhābhojanajātaka)[9] (J. V. 382)
Ta không phải kẻ bán buôn rong...
Chuyện này được bậc Đạo sư kể trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ Viên) liên hệ đến một Tỷ-kheo có tâm bố thí hào phóng.
Tương truyền vị ấy là một người thuộc dòng dõi quý tộc ở tại Sāvatthi (Xá-vệ), sau khi nghe bậc Đạo sư thuyết pháp đã xin quy y và sống đời tu hành. Khi đã viên mãn giới đức và đầy đủ đạo hạnh của người xuất gia, lòng tràn ngập thân ái đối với các bạn đồng tu, mỗi ngày ba lần ông nhiệt tâm phụng sự Phật, Pháp, Tăng, gương mẫu trong đức hạnh và chuyên cần bố thí. Để thành tựu pháp hòa ái, bất cứ vật gì nhận được, ông đều bố thí cả, bao lâu còn người nhận, cho đến khi ông chẳng còn gì để ăn.
Ý nguyện bố thí và sự chuyên tâm bố thí của ông được đồn đại khắp Tăng chúng. Vì vậy, một hôm, câu chuyện bắt đầu trong pháp đường về một Tỷ-kheo có tâm hào phóng và chuyên bố thí đến độ dù chỉ nhận được nước uống vừa đủ trong lòng bàn tay, ông cũng đem cho các bạn đồng tu với tâm ly tham. Ý nguyện của vị ấy chẳng khác gì một vị Bồ-tát. Với thiên nhĩ thông, bậc Đạo sư nghe được chuyện Tăng chúng đang nói liền bước ra khỏi hương phòng của Ngài, đến gần và hỏi Tăng chúng đang bàn luận chuyện gì. Khi các vị đáp chuyện như vầy, như vầy, Ngài bảo:
– Này các Tỷ-kheo, ngày xưa, vị Tỷ-kheo này không hề hào phóng, trái lại ông ấy keo kiệt đến độ không thể cho một giọt dầu trên ngọn cỏ. Vì vậy, Ta đã giáo hóa, khiến ông ấy biết hy sinh bản thân và bằng cách tán thán các công đức bố thí, Ta đã an trú ông vào hạnh bố thí. Cho nên khi nhận được nước chỉ vừa đủ trong lòng bàn tay, ông cũng nói: “Ta không muốn uống một giọt nào mà không cho bớt đôi chút.” Rồi ông nhận được một điều ước Ta ban cho và kết quả của việc bố thí kia là ông ấy có tâm hào phóng và chuyên bố thí.
Cùng với những lời này, Ngài kể một chuyện quá khứ.
***
Ngày xưa, khi Vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, có một gia chủ giàu có, gia sản đến tám trăm triệu đồng và vua ban cho ông chức giữ ngân khố. Được vua ban vinh hiển như thế và được dân chúng vô cùng trọng vọng, một hôm ông suy xét về cảnh thịnh vượng của đời mình liền suy nghĩ: “Cảnh vinh quang này ta đạt được không phải do lười biếng hay các ác nghiệp trong đời trước mà là do thành tựu các công đức. Vậy ta cần phải lo liệu cho cuộc sống tương lai thật vững chắc!” Vì thế, ông đến yết kiến vua và thưa:
– Tâu Đại vương, trong nhà hạ thần có kho báu trị giá tám trăm triệu đồng, xin Đại vương nhận lấy từ hạ thần.
Vua đáp:
– Trẫm không cần tài sản của khanh, trẫm đã có nhiều tài sản rồi, vậy cứ lấy của cải làm việc gì tùy thích.
Ông thưa:
– Tâu Đại vương, hạ thần có thể đem tiền để bố thí chăng?
Vua phán:
– Cứ làm như khanh muốn.
Ông liền ra lệnh xây sáu bố thí đường, mỗi ngôi ở mỗi cổng thành, một ngôi ở giữa thành phố và một ngôi ở cổng nhà mình rồi mỗi ngày đem chi tiêu sáu trăm ngàn đồng tiền, ông bắt đầu làm đại sự bố thí. Trong lúc sinh thời, ông chuyên bố thí và dạy bảo các con: “Hãy cố chăm lo để đừng gián đoạn truyền thống bố thí này của cha!” Đến lúc mạng chung, ông tái sinh làm Thiên chủ Sakka (Đế-thích).
Con trai ông cũng bố thí như vậy và tái sinh làm Canda (Nguyệt thần), con của Canda là Suriya[10] (Nhật thần), con của Suriya là Mātali (thần lái thiên xa) và con của Mātali là Pañcasikha (Ngũ Kế nhạc thần).
Bấy giờ, con trai của Pañcasikha, cháu thứ sáu trong dòng ấy, là người thủ kho tên là Maccharikosiya[11] (triệu phú keo kiệt), tài sản vẫn còn cả tám trăm triệu nhưng ông ta nghĩ: “Tổ tiên ta thật khờ dại. Các vị ấy đã ném bỏ tài sản do công khó góp nhặt, còn ta sẽ giữ gìn kho báu. Ta quyết không cho ai cái gì cả.”
Ông liền phá hủy và đốt rụi các bố thí đường rồi trở thành kẻ keo kiệt kinh niên. Vì thế, những người hành khất tụ tập trước cổng nhà ông, chìa tay ra và kêu lớn:
– Thưa đại quan thủ kho, xin ngài đừng bỏ tục cổ truyền của tổ tiên, xin ngài hãy bố thí!
Khi nghe vậy, dân chúng khiển trách ông và bảo:
– Vị triệu phú biển lận này đã bỏ đi truyền thống gia đình.
Ông hổ thẹn, bảo canh giữ để ngăn những người hành khất đứng ở cổng nhà ông, vì thế họ vô cùng khốn đốn cơ cực, không còn để mắt vào cổng ấy nữa. Từ đó, ông tiếp tục cuốn tiền lại để cất, chứ không hưởng thụ phần mình, cũng không chia với vợ con. Ông sống bằng cơm gạo đỏ dọn với tương chua, mặc áo quần vải thô, chỉ gồm toàn sợi lấy từ rễ và thân cây dâu, che đầu bằng dù lá, đi chiếc xe cũ ọp ẹp do đôi bò tồi tàn kéo. Như vậy, tất cả tiền bạc của con người độc ác này chẳng khác gì con chó nhặt được quả dừa.
Một hôm, khi sắp vào chầu vua, ông nghĩ nên đưa vị phó thủ kho đi cùng, và khi đến gần nhà vị kia, ông thấy vị phó thủ kho đang ngồi giữa vợ con ăn cháo gạo nấu với đường mịn, bơ tươi và mật ong. Khi thấy Maccharikosiya, vị ấy đứng dậy bảo:
– Xin mời Đại quan thủ kho vào ngồi trên sàng tọa này và ăn cháo gạo cùng tiểu đệ.
Vừa trông thấy cháo gạo, miệng ông đã chảy nước miếng và muốn ăn ngay, nhưng ông chợt suy nghĩ: “Nếu ta ăn một chút cháo thì khi vị phó thủ kho đến nhà, ta phải đáp lại lòng hiếu khách của y và như vậy là sẽ tiêu phí tiền của. Ta không muốn ăn đâu.” Sau đó, bị nài ép mãi, ông vẫn từ chối và bảo:
– Ta đã ăn rồi, ta no lắm!
Song suốt buổi vị phó thủ kho ăn cháo, ông cứ ngồi nhìn và chảy nước miếng, rồi khi xong bữa, ông cùng vị ấy vào cung.
Khi về nhà, lòng ông tràn ngập nỗi thèm ăn cháo gạo nhưng lại nghĩ: “Nếu ta nói ta muốn ăn cháo gạo, nhiều người cũng sẽ muốn ăn theo và sẽ tiêu phí một số gạo giã trắng. Thôi ta chẳng muốn nói một lời với ai.” Vì thế, suốt đêm ngày, ông cứ miên man suy nghĩ không gì khác ngoài cháo, nhưng vì sợ tốn tiền nên không nói với ai mà chỉ ráng chịu đựng. Tuy thế, không thể nào chịu đựng mãi được chuyện ấy, ông dần trở nên xanh xao và do sợ tiêu phí của cải, ông không nói với ai và dần dần ông kiệt sức phải nằm liệt giường. Lúc ấy, vợ ông đến thăm, lấy tay vỗ vào lưng ông và hỏi:
– Phu quân có bệnh chăng?
Ông kêu to:
– Bà bệnh ấy chứ, ta khỏe lắm mà!
– Phu quân xanh xao lắm. Phu quân có điều gì lo nghĩ? Đức vua không đẹp ý hay các con đối xử bất kính với chàng? Hay chàng thèm muốn vật gì chăng?
– Phải, ta đang thèm muốn.
– Phu quân nói cho thiếp biết với.
– Bà có giữ kín miệng được chăng?
– Được lắm, thiếp sẽ giữ kín mọi điều thèm muốn cần được giữ kín.
Nhưng dù vậy, do sợ tiêu phí của cải, ông không có can đảm nói với vợ, nhưng sau bị bà thúc giục mãi, ông đáp:
– Này bà, hôm kia ta thấy vị phó thủ kho ăn cháo gạo nấu với đường mịn, bơ tươi và mật ong, từ đấy, ta cứ thèm ăn loại cháo như vậy.
– Thiếp sẽ nấu cháo gạo cho cả dân thành phố Ba-la-nại ăn mà.
Lúc ấy, ông cảm thấy như bị ai đánh cái gậy vào đầu, ông nổi cơn thịnh nộ với vợ và nói:
– Ta dư biết bà giàu có lắm. Nếu ở nhà bà thì bà tha hồ nấu cháo và cho cả thành phố ăn.
– Thế thì thiếp sẽ nấu vừa đủ cho dân cả một khu phố ăn thôi.
– Bà có liên hệ gì với chúng cơ chứ? Mặc chúng ăn thứ gì chúng có.
– Thế thì thiếp sẽ nấu đủ cho bảy gia đình chọn rải rác đâu đó.
– Chúng là gì của bà vậy?
– Thế thì thiếp chỉ nấu cho gia nhân trong nhà này thôi.
– Chúng là gì của bà vậy?
– Thế thì thiếp chỉ nấu cho gia đình ta thôi.
– Chúng là gì của bà vậy?
– Thế thì thiếp chỉ nấu cho phu quân và thiếp thôi.
– Ôi kìa, bà là ai chớ? Trường hợp bà cũng không được đâu.
– Vậy thiếp chỉ nấu cho một mình phu quân thôi.
– Xin bà đừng nấu cho ta. Nếu bà nấu trong nhà, nhiều người sẽ thấy. Chỉ cần cho ta một đấu gạo giã trắng, một góc tư lít sữa, một cân đường, một hũ mật ong, một cái nồi, ta sẽ đi vào rừng nấu cháo và ăn.
Bà vợ làm như vậy. Ông bảo một gia nô đem tất cả những thứ ấy và ông ra lệnh gia nô đến đứng ở nơi kia. Sau khi bảo gia nô đi khuất, một mình ông trùm kín người, giả dạng đi đến đó và cạnh bờ sông gần bụi rậm, ông bảo làm cái lò, đem củi và nước cho ông, rồi dặn kẻ gia nô:
– Đi ra đứng ở đường kia, nếu chú thấy ai hãy ra hiệu cho ta và khi ta gọi, chú hãy đến!
Bảo tên gia nô đi xong, ông nhóm lửa và nấu cháo. Lúc ấy, Thiên chủ Sakka đang chiêm ngưỡng kinh thành tráng lệ của chư thiên rộng mười ngàn do-tuần, con đường lát vàng dài sáu mươi do-tuần, điện Vejayanta (Tối Thắng) cao một ngàn do-tuần, Thiện Pháp đường bao quát năm trăm do-tuần, chiếc ngai hoàng thạch rộng sáu mươi do-tuần, chiếc lọng trắng với cành hoa vàng chu vi năm do-tuần và bản thân ngài được một đoàn tùy tùng thật huy hoàng gồm hai mươi lăm triệu thiên nữ.
Vừa chiêm ngưỡng mọi cảnh vinh quang này, ngài vừa suy nghĩ: “Ta đã làm gì để đạt đến vinh quang này?” Rồi ngài thấy hạnh bố thí mà ngài đã tạo nên trong thời làm quan thủ kho tại Ba-la-nại và suy nghĩ: “Thế nay các con cháu ta tái sinh ở cõi nào?” Vừa xem xét vấn đề ấy, ngài vừa nói: “Con trai Canda của ta tái sinh làm thiên tử và con trai nó là Suriya.” Khi để ý đến việc tái sinh của tất cả con cháu, ngài kêu lên: “Thế số phận con trai của Pañcasikha thì sao?” Quan sát kỹ, ngài thấy truyền thống dòng dõi đã bị phá hủy và ý tưởng này chợt đến với ngài: “Tên hà tiện độc ác này chẳng hưởng tài sản cũng chẳng cho ai cả. Truyền thống gia tộc đã bị nó phá hoại. Khi chết, nó sẽ tái sinh vào địa ngục. Bằng cách thuyết giáo cho nó và tái lập truyền thống gia đình, ta sẽ chỉ cho nó con đường tái sinh thiên giới.”
Vì thế, ngài triệu tập Canda và các vị kia rồi bảo:
– Này, ta sẽ giáng trần. Truyền thống gia đình ta đã bị Maccharikosiya phá hủy, các bố thí đường đã bị đốt sạch và nó chẳng hưởng thụ tài sản cũng chẳng cho ai cả. Song giờ đây nó đang thèm ăn cháo gạo và suy nghĩ: “Nếu nấu cháo trong nhà thì cháo phải được đem cho người khác” nên nó vào rừng và nấu cháo một mình. Chúng ta sẽ đi giáo hóa nó và dạy nó hiểu kết quả của bố thí. Song nếu tất cả chúng ta đồng thời xin nó cho cháo gạo, nó sẽ ngã lăn đùng ra chết tại chỗ. Vậy ta sẽ đi trước và khi ta đã xin nó cháo rồi ngồi xuống, các khanh hãy đến, lần lượt từng vị giả dạng Bà-la-môn xin cháo!
Nói vậy xong, ngài giả dạng một Bà-la-môn đến gần người triệu phú và kêu to:
– Này, đường nào đi đến Ba-la-nại?
Maccharikosiya đáp:
– Lão có mất trí không đấy? Lão không biết cả con đường đến Ba-la-nại ư? Tại sao lão đến đường này? Hãy từ đây mà đi ra!
Sakka giả vờ không nghe ông nói, cứ tiến gần hỏi ông nói gì. Thế rồi, ông ta hét lên:
– Này, Bà-la-môn điếc đặc kia, ta bảo tại sao lão đến đường này? Hãy đi ra đường kia!
Sakka đáp lại:
– Tại sao ông hét to thế? Ta thấy đây có khói và lửa, cháo gạo lại đang sôi, chắc là dịp thiết đãi các Bà-la-môn đấy mà. Khi các Bà-la-môn được mời ăn, ta cũng muốn hưởng đôi chút. Tại sao ông xua ta đi?
– Ở đây chẳng đãi tiệc Bà-la-môn nào cả. Lão hãy cút đi!
– Thế tại sao ông nổi giận như vậy? Khi ông dùng bữa, tôi muốn xin một chút.
Lúc ấy, ông ta đáp:
– Ta chẳng muốn cho lão dù chỉ một miếng cháo. Món ăn hiếm hoi này chỉ vừa đủ nuôi sống ta thôi và đây cũng do ta đi xin. Lão hãy đi kiếm đồ ăn nơi khác!
Ông ta nói vậy là muốn nhắc đến việc đã xin vợ phần gạo ấy và ngâm kệ:
192. Ta không phải kẻ bán buôn rong,
Không của cho vay hoặc biếu không,
Chút cháo thí này rất khó kiếm,
Chẳng vừa dọn đủ cả ta, ông!
Nghe vậy, Thiên chủ Sakka đáp:
– Ta cũng sẽ lấy giọng ngọt như mật ngâm kệ đáp lễ ông đây, hãy lắng nghe ta!
Rồi ông cố ngăn ngài và bảo:
– Kệ đối với ta thật chẳng có nghĩa lý gì!
Thiên chủ Sakka vẫn ngâm đôi vần kệ:
193. Của ít cũng nên bố thí mà,
Của vừa cũng phải lấy cho vừa,
Của nhiều càng phải cho nhiều nữa,
Không thí, vấn đề chẳng đặt ra.
194. Kosiya, ta nói một đôi lời,
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến,
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.
Sau khi nghe ngài nói, ông đáp:
– Này Bà-la-môn, đây là một lời nói nhân từ của lão, thôi để khi cháo chín, lão sẽ được ăn một chút. Hãy ngồi xuống đây!
Sakka ngồi xuống một bên. Khi ngài vừa ngồi, Canda theo cách này đến gần và bắt đầu nói chuyện như vậy, dù ông ta cố ngăn chặn, vị này vẫn ngâm đôi vần kệ:
195. Nào có ích chi lễ tế thần,
Hoài công ước vọng ở trong tâm,
Nếu ông ăn cháo và không muốn,
Cho thực khách đây một ít phần.
196. Kosiya, ta nói một đôi lời,
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến,
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.
Sau khi nghe vị ấy nói, kẻ hà tiện miễn cưỡng bảo:
– Thôi được, hãy ngồi xuống, ông cũng sẽ được một ít cháo!
Vị ấy liền đến ngồi cạnh Sakka. Sau đó, Suriya cũng theo cách này đến gần và bắt đầu nói chuyện như vậy, mặc dù kẻ hà tiện cố ngăn chặn, vị ấy vẫn ngâm đôi vần kệ:
197. Chân thật ông dâng lễ tế thần,
Chẳng hoài công ước nguyện trong tâm,
Nếu ông không một mình ăn cháo,
Mà biếu khách đây một ít phần.
198. Kosiya, ta nói một đôi lời,
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến,
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.
Nghe lời này, kẻ hà tiện lại càng thêm miễn cưỡng bảo:
– Thôi được, cứ ngồi xuống và lão sẽ được một ít cháo!
Suriya đến ngồi cạnh Canda. Lúc ấy, Mātali theo cách trên cũng đến gần và bắt đầu nói chuyện. Mặc dù kẻ hà tiện cố ngăn chặn, vị này vẫn ngâm kệ:
199. Hồ, lạch Gayā chảy xiết dòng,
Ai đem dâng lễ cúng chư thần,
Đến Timbaru hoặc Doṇa ấy,
Sóng nước trôi nhanh lớp chập chùng.
200. Hưởng kết quả do dâng lễ vật,
Đạt thành ước nguyện ở trong lòng,
Nếu không ngồi một mình ăn cháo,
Mà biếu khách đây một ít phần.
201. Kosiya, ta nói một đôi lời,
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến,
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.
Nghe lời này, ông bối rối như thể có đỉnh núi đè nặng lên, ông miễn cưỡng nói:
– Thôi được, cứ ngồi xuống, lão sẽ được một ít!
Mātali đến ngồi cạnh Suriya. Sau đó, Pañcasikha cũng theo cách trên đến gần và bắt đầu nói chuyện, dù kẻ hà tiện cố ngăn chặn, vị này vẫn ngâm đôi vần kệ:
202. Như cá tham ăn vội nuốt mau,
Miếng mồi buộc ở chiếc cần câu,
Người ngồi riêng biệt và ăn cháo,
Khi có khách này kế cận sao?
203. Kosiya, ta nói một đôi lời,
Bố thí của ông một chút thôi,
Ông chớ một mình ăn thực phẩm,
Ăn riêng chẳng hưởng lạc cao vời,
Chính nhờ bố thí, ông thăng tiến,
Đạo lộ thanh cao đến cõi trời.
Maccharikosiya nghe vậy, khổ sở rên rỉ:
– Thôi được, cứ ngồi xuống, lão sẽ được ăn một chút!
Pañcasikha liền đến ngồi cạnh Mātali. Khi năm vị Bà-la-môn đều an tọa, cháo cũng đã chín. Lúc ấy, Kosiya nhấc cháo ra khỏi lò, bảo các vị Bà-la-môn đem lá tới. Vẫn ngồi tại chỗ, năm vị vươn tay ra đưa các ngọn lá cây leo hái từ Tuyết Sơn. Kosiya thấy vậy, bảo:
– Ta không thể cho cháo vào các ngọn lá to như thế của các vị đâu. Hãy lấy lá cây keo hay các cây tương tự!
Các vị đi lượm lá ấy, mỗi lá lớn bằng cái mộc của chiến sĩ. Ông lấy muỗng múc một ít cháo cho tất cả các vị. Vào lúc ông đã múc xong cho vị cuối cùng vẫn còn nhiều cháo trong nồi, sau khi cho năm vị xong, ông cầm lấy cái nồi rồi ngồi xuống. Ngay lúc ấy, Pañcasikha đứng lên, biến hình thành con chó đến đứng trước các vị và tiểu tiện. Mỗi vị Bà-la-môn đều lấy một ngọn lá che cháo. Một giọt nước tiểu của chó rơi vào mu bàn tay của Kosiya. Các vị Bà-la-môn lấy nước trong bình ra trộn với cháo giả vờ ăn. Kosiya nói:
– Cho ta một chút nước, rửa tay xong ta mới ăn cháo.
Các vị bảo:
– Hãy đi kiếm nước cho mình và rửa tay!
– Ta đã cho các vị cháo thì nay hãy cho ta một chút nước.
– Chúng ta không làm việc trao đổi thí vật.
– Thế thì giữ giùm ta nồi cháo, sau khi rửa tay xong, ta sẽ trở về.
Và ông xuống bờ sông. Lúc ấy, con chó tiểu tiện đầy nồi. Kosiya thấy chó tiểu tiện liền lấy gậy lớn và đến gần hăm dọa nó. Bấy giờ, con chó biến thành con ngựa thuần chủng và trong khi nó đuổi theo ông ta, nó biến hóa đủ màu, khi thì chó màu đen, khi thì trắng, khi thì vàng, khi thì lốm đốm, dáng nó khi thì cao, khi thì thấp. Nó hiện ra đủ hình dáng khác nhau như vậy và rượt theo Kosiya khiến ông sợ chết khiếp, chạy đến gần các Bà-la-môn trong khi các vị bay lên đứng trên không. Khi thấy thần lực các vị, ông ngâm kệ:
204. Các ngài Thánh giả Bà-la-môn,
Đang đứng trên cao giữa cõi không,
Con chó các ngài sao lạ vậy?
Thay hình đổi dạng cả ngàn lần,
Dầu là chỉ một mình con chó,
Các vị là ai, nói thật chân.
Nghe vậy, Thiên chủ Sakka đáp:
205. Đó Canda với Suriya,
Và nọ Mātali quản xa,
Thiên chủ là ta đây, Đế-thích,
Ở trên thiên giới Ba Mươi Ba,
Pañcasikha là thần nhạc,
Ngũ Kế đuổi ngươi chạy đấy mà.
Và Sakka ngâm kệ ca ngợi danh vọng của Pañcasikha:
206. Trống to, trống nhỏ thảy vang lừng,
Đánh thức thần dậy khỏi giấc nồng,
Khi tỉnh, nhạc hân hoan trỗi khúc,
Làm tim chàng rộn rã vui mừng.
Nghe lời ngài, Kosiya hỏi:
– Thưa Thiên chủ, nhờ hành động gì, con người đạt vinh quang thiên giới như vậy?
– Những người không thực hành bố thí, những kẻ tạo ác nghiệp và keo kiệt không thể lên thiên giới mà tái sanh địa ngục.
Sakka ngâm kệ nêu rõ điều này:
207. Sinh ra keo kiệt, kẻ xan tham,
Khinh bỉ Bà-la-môn, đạo nhân,
Khi chết bỏ thân phàm tục ấy,
Phải vào địa ngục trú thân tàn.
Và ngài ngâm các kệ sau để chứng tỏ những người Hiền trí theo chánh hạnh sẽ đạt thiên giới:
208. Kiên trì chánh hạnh đạt thiên đàng,
Bố thí, điều thân, tránh lỗi lầm,
Khi chết bỏ thân phàm tục ấy,
Sẽ lên thiên giới sống bình an.
Sau đó, Sakka lại bảo:
– Này Kosiya, chúng ta không đến để xin ăn cháo đây, nhưng vì lòng thương xót ngươi mà chúng ta đến.
Và ngài ngâm kệ nêu rõ việc ấy cho ông:
209. Dù trong đời trước có thân tình,
Ngươi hận sân, keo kiệt, ác hành,
Nên chính vì ngươi, ta giáng thế,
Ngăn ngươi khỏi địa ngục lai sinh.
Nghe vậy, Kosiya suy nghĩ: “Các ngài nói các ngài có thiện chí đối với ta, muốn ta khỏi đọa đày địa ngục và an trú ta vào thiên giới”, và ông vô cùng hoan hỷ ngâm kệ:
210. Như vầy ngài thuyết giảng cho ta,
Chắc chắn ngài mong lợi lạc mà,
Ta sẽ theo lời ngài khuyến giáo,
Như ta hiểu được ý sâu xa.
211. Từ nay ta bỏ thói xan tham,
Kiêng kỵ việc hung ác bạo tàn,
Bố thí gia tài cho tất cả,
Dù là chén nước cũng chia phần.
212. Sakka, bố thí mãi như vầy,
Tài sản nhà ta giảm sút ngay,
Ta quyết sẽ tu hành xuất thế,
Tham dục loại nào cũng chạy bay.
Sau khi cảm hóa Kosiya, Thiên chủ Sakka lại dạy ông các quả báo của hạnh bố thí, làm cho ông biết hy sinh quên mình và ngài đã an trú ông vào ngũ giới xong liền cùng các vị thiên hầu cận trở về cõi trời.
Phần Kosiya cũng vào thành Ba-la-nại, sau khi xin phép vua, ông bảo gia nhân đi lấy tất cả nồi chảo mà họ có được, đổ đầy vàng bạc từ kho báu đem cho hành khất. Bấy giờ, ông khởi hành từ vùng Tuyết Sơn bên phía hữu, ở một nơi giữa sông Hằng và một hồ thiên nhiên, ông xây một am thất bằng lá, trở thành ẩn sĩ khổ hạnh sống bằng củ quả rừng. Vị ẩn sĩ sống ở đó một thời gian cho đến tuổi già.
Thời ấy, Thiên chủ Sakka có bốn ái nữ là Āsā (Hy Vọng), Saddhā (Tín Thành), Sirī (Vinh Quang) và Hirī (Liêm Sỉ). Các nàng đem theo nhiều tràng hoa trời thơm ngát đến hồ Anotatta, chơi đùa trong nước và sau khi đã chơi thỏa thích ở đó lại an tọa trên đỉnh Manosilātala.
Ngay lúc ấy, ẩn sĩ Bà-la-môn Nārada lên cung đình cõi trời Ba Mươi Ba nghỉ ngơi tránh cơn nắng gắt ban ngày. Sau khi an trú ngay dưới khóm cây Cittakūṭalata[12] trong thiên lạc viên Nandana, ông cầm một đóa san hô trong tay để làm lọng che nắng và về Kim động, nơi ông an trú trên đỉnh Manosilātala. Các thiên nữ thấy đóa hoa trong tay ông liền xin ông cho hoa.
***
Bậc Đạo sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:
213. Trên đỉnh Hương Sơn, chúa núi rừng,
Sakka ái nữ, các tiên nương,
Hân hoan nhìn Thánh nhân lừng lẫy,
Bước đến cầm hoa đẹp dị thường.
214. Cành hoa trong sáng ngát mùi hương,
Xứng với thiên tiên, các thánh thần,
Chẳng quỷ ma hay người thế tục,
Dám đòi hoa quý giá vô ngần.
215. Āsā, Sirī, với Saddhā,
Và Hirī, da sáng tựa vàng,
Bốn tiên nương đều là tuyệt sắc,
Đứng lên nói với Bà-la-môn:
216. “Cho đóa san hô, hỡi Thánh nhân,
Nếu cho hoa ấy thuộc oai thần,
Chúng con kính lễ như Thiên chủ,
Ngài sẽ được ban mọi phước phần.”
217. Nārada thấy chúng mong cầu,
Liền khởi ngay tranh chấp lớn lao:
“Ta chẳng cần hoa, ai muốn được,
Phải là vương hậu các nàng bầu.”
Bốn thiên nữ nghe vậy liền ngâm kệ:
218. Nārada, tối thượng là ngài,
Ngài muốn ban ai ước nguyện này,
Ai được ngài ban quà tặng ấy,
Sẽ là tiên đẹp nhất trong đàn!
Nārada nghe vậy liền bảo:
219. Tiên nương, lời ấy chẳng như chân,
Tu hành nào dấy cuộc tranh phân?
Hãy tìm lập tức ngài Tiên chúa,
Sẽ biết ai dung sắc tuyệt trần.
***
Lúc ấy, bậc Đạo sư ngâm kệ này:
220. Kiêu ngạo về sắc đẹp, phát cuồng,
Nóng lòng vì bậc Trí tinh khôn,
Họ đi đến Sakka Thiên chủ,
Để biết ai xinh đẹp nhất đàn.
Các nàng đứng hỏi vậy xong:
221. Các nàng hăm hở vội đi tìm,
Đế-thích đầy tôn trọng, phán liền,
“Tất cả tiên nương đều tuyệt sắc,
Vậy ai phá hoại sự bình yên?”
Nghe ngài hỏi vậy, các nàng đáp:
222. Nārada, bậc Đại Hiền nhân,
Nhẹ bước du hành giữa cõi không,
Chân lý uyên thâm, chuyên chánh hạnh,
Như vầy đã nói ở Hương Sơn,
“Hãy tìm Thiên chủ Sakka ấy,
Để biết ai ưu, liệt giữa đàn.”
Nghe thế, Thiên chủ Sakka suy nghĩ: “Nếu ta bảo ai trong bốn ái nữ của ta đức hạnh vượt lên các nàng kia, chúng sẽ nổi giận. Trường hợp này ta không thể quyết định được. Ta sẽ đưa chúng đến Kosiya, vị ẩn sĩ tại Tuyết Sơn, vị ấy phải quyết định vấn đề này cho chúng nó.” Vì thế, ngài bảo:
– Ta không thể quyết định trường hợp các con được. Trên vùng Tuyết Sơn có vị ẩn sĩ tên là Kosiya. Ta muốn gửi một chén tiên thực tặng vị ấy. Vị ấy chẳng ăn gì mà không chia cho kẻ khác và trong lúc cho, vị ấy biểu lộ sự xét đoán bằng cách tặng kẻ nào đức hạnh. Ai trong các con nhận được thực phẩm từ tay vị kia thì nàng ấy sẽ là nàng tiên tối thắng.
Vừa nói vậy, ngài vừa ngâm kệ:
223. Hiền nhân trú ở khóm rừng xa,
Chẳng đụng thức ăn chưa phát ra,
Vừa tặng quà, Kosi xét đoán,
Ai là đệ nhất các tiên nga.
Rồi ngài triệu tập Mātali và bảo vị ấy đi đến ẩn sĩ kia, khi truyền lệnh, ngài ngâm kệ sau:
224. Trên sườn núi Tuyết, chỗ Hằng hà,
Xuôi phía Nam, Hiền thánh ẩn cư,
Tiên thực, Mātali đến tặng,
Ngài đang thiếu ẩm thực đây mà.
***
Lúc ấy, bậc Đạo sư ngâm kệ:
225. Mātali nhận lệnh trời ban,
Lái chiếc thiên xa ngựa cả ngàn,
Thoắt đứng giấu mình am ẩn sĩ,
Và dâng tiên thực tặng Hiền nhân.
Kosiya nhận lấy và ngay khi đang đứng, ông ngâm hai vần kệ:
226. Khi lửa tế đàn lão đốt lên,
Ngợi ca vầng nhật đuổi đêm đen,
Sakka ngự trị trên thiên giới,
Ai khác trao tay thực phẩm tiên?
227. Như hạt ngọc trai trắng tuyệt trần,
Ngát hương, thanh tịnh, đẹp vô ngần,
Mắt ta từ trước chưa hề thấy,
Ai đặt vào tay thực phẩm thần?
Mātali liền đáp:
228. Ta đến, Sakka hạ lệnh truyền,
Vội vàng mang thực phẩm thần tiên,
Cao lương thượng vị, đừng lo sợ,
Xin hãy ăn đi, hỡi bậc Hiền,
Ngài thấy Mātali trước mắt,
Quản xa thần ở cõi chư thiên.
229. Do thọ dụng đây thực phẩm thần,
Mười hai ác nghiệp thảy tiêu dần,
Đói cơm, khát nước, buồn, đau, mệt,
Nóng, lạnh, đấu tranh, với hận sân,
Lười biếng, nộ cuồng, mồm phỉ báng,
Mời ngài tiên thực, chớ phân vân!
Nghe vậy, Kosiya ngâm kệ giải thích rằng ông đã có lời phát nguyện xưa:
230. Ăn một mình, ta thấy thật sai,
Nên xưa ta đã nguyện thành lời,
Ta không đụng đến thức ăn nữa,
Nếu chẳng cho ai bớt một vài.
Ăn một mình không được tán thành,
Bởi người có trí tuệ cao minh,
Ai không san sẻ cho người khác,
Hạnh phúc làm sao đến với mình.
Khi Mātali hỏi vị này:
– Thưa Thánh giả, ngài thấy điều gì sai trái khi ăn mà chẳng chia phần cho kẻ khác nên ngài phát nguyện này?
Ông đáp:
231. Những người nào phạm tội tà dâm,
Hoặc bọn người tàn sát nữ nhân,
Phỉ báng, rủa nguyền bao Thánh giả,
Hoặc người phản bội các thân bằng,
Hoặc tồi tệ nhất, người keo kiệt,
Ta chẳng hề mong xếp hạng chung,
Nước uống cho dù là một giọt,
Ta không đụng, nếu chẳng chia phần.
232. Vật ta đem tặng mãi tuôn tràn,
Cùng khắp nam nhân lẫn nữ nhân,
Bậc Trí sẽ tuyên dương những kẻ,
Phát ban của cải để thi ân.
Những ai hào phóng trên trần giới,
Và tránh xan tham đủ mọi đàng,
Sẽ được mọi người đồng tán thán,
Quý yêu như thiện hữu, chân nhân.
Nghe nói vậy, Mātali xuất hiện nguyên hình trước vị này. Vừa lúc ấy, bốn thiên nữ đứng ở bốn phương: Sirī ở phía Đông, Āsā ở phía Nam, Saddhā ở phía Tây và Hirī ở phía Bắc.
***
Bậc Đạo sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:
233. Cả bốn tiên nương sắc tựa vàng,
Tên là Hirī với Saddhā,
Āsā, Sirī, tuân thiên mệnh,
Bước đến Kosiya ẩn am.
234. Thiên nữ hình dung rực lửa hồng,
Mỗi phương đến đứng một cô nàng,
Trước Mātali quản xa thiên,
Bậc Trí vui mừng vội hỏi han:
235. “Là ai, thiên nữ tựa sao mai,
Chiếu sáng trời Đông khắp mọi nơi,
Mình khoác xiêm y[13] vàng chói lọi,
Tên gì cho biết, gái nhà trời?”
236. “Sirī, bạn quý của người đời,
Ta bảo vệ người trong sạch thôi,
Ta đến đây mong cầu thực phẩm,
Xin làm toại nguyện, Thánh nhân ôi!
237. Ta ban hạnh phúc đến người nào,
Ta muốn tâm cầu thỏa ước ao,
Tên gọi Sirī, thưa Thánh giả,
Xin đem tiên thực tặng ta nào!”
Nghe vậy, Kosiya đáp:
238. Những người tài đức lại tinh thông,
Xuất chúng mọi điều trí ước mong,
Song bởi thiếu nàng nên thất bại,
Việc này ta trách ác phần nàng.
239. Kẻ kia tham dục lại chây lười,
Dị tướng, con dòng hạ liệt thôi,
Song được nàng ban cho phú quý,
Khiến người quý tộc hóa nô tài.
240. Ta thấy nàng hư dối, độn đần,
Cuốn lôi bọn ngốc, thật liều thân,
Lại còn đánh bại bao người trí,
Không có quyền đòi nước, tọa sàng,
Nói gì thực phẩm thần tiên ấy,
Đi gấp, ta không chút thích nàng!
Thế là nàng tiên liền biến mất ngay lập tức. Sau đó, ông nói chuyện với nàng Āsā:
241. Nàng là ai, hỡi tiên nga,
Trong sáng, hàm răng trắng mượt mà,
Sáng chói vòng vàng, khuyên lấp lánh,
Xiêm y rực rỡ gợn thu ba,
Đầu cài thoa đỏ như màu lửa,
Được đốt bằng chùm cỏ kusa?
242. Trông nàng như một chị nai rừng,
Chạm nhẹ mũi tên của thợ săn,
Thơ thẩn mắt nhìn quanh hốt hoảng,
Khác nào con vật bị kinh hoàng.
Hỡi nàng thiên nữ mắt dịu hiền,
Nàng có bạn nào ở đấy chăng,
Vì thế lạc đường không sợ hãi,
Một mình phiêu bạt giữa rừng hoang?
Nàng đáp vần kệ này:
243. Ta chẳng có đây bạn chí thân,
Từ Sakka điện, chốn thiên cung,
Masakkasāra[14] ấy là tên gọi,
Ta chính là thiên nữ giáng trần,
Āsā giờ đây đang xuất hiện,
Để mong cầu thực phẩm thiên thần,
Xin ngài nghe kỹ, thưa Tôn giả,
Và tặng ta điều vẫn ước mong.
Nghe vậy, Kosiya bảo:
– Người đời vẫn nói với ta rằng bất cứ ai làm nàng hài lòng, nàng liền ban hy vọng cho kẻ ấy bằng cách hoàn thành kết quả của niềm hy vọng, còn ai không làm nàng vui lòng thì nàng không ban cho kẻ ấy. Như thế, thành công không đến với kẻ ấy là do nàng tạo ra thất bại.
Để chứng minh điều này, ông ngâm kệ:
244. Lái buôn hy vọng kiếm kho tàng,
Ra biển lên tàu vượt đại dương,
Đôi lúc chìm tàu đâu thấy nữa,
Mất vàng, thoát chết cũng kêu than.
245. Nông gia cày ruộng vẫn cầu mong,
Gieo hạt, cố làm hết khả năng,
Song gặp tai ương hay hạn hán,
Mất mùa gặt hái để bù công.
246. Kẻ thích giàu, hy vọng hết lòng,
Vì vua chiến đấu thật anh hùng,
Ngã nhào, địch xiết vòng vây hãm,
Chiến đấu vì vua phải thiệt thân.
247. Để vàng, kho lúa tặng bà con,
Vì lạc thiên đường vẫn ước mong,
Chịu đựng lâu ngày bao khổ hạnh,
Do tà pháp dẫn đến đau buồn.
248. Lừa dối thế nhân, ước hão huyền,
Hãy lìa hư vọng thỏa tâm nguyền,
Không quyền đòi hỏi ngay tọa sàng,
Bình nước, nói gì thực phẩm tiên!
Ta chẳng thích nàng, Āsā hỡi,
Biến đi, nàng hãy biến đi liền!
Nàng thiên nữ ấy cũng bị khước từ liền biến mất dạng ngay lập tức. Sau đó, vị ấy lại ngâm kệ trò chuyện với thiên nữ Saddhā:
249. Lừng danh thiên nữ sắc huy hoàng,
Đứng phía trời Tây, phía thấp thường,
Mình khoác xiêm y vàng rực rỡ,
Tên gì cho biết, hỡi tiên nương?
Nàng liền ngâm kệ đáp:
250. Saddhā, bạn quý của người đời,
Ta bảo vệ người trong sạch thôi,
Ta đến đây cầu mong thực phẩm,
Xin làm toại nguyện, Thánh nhân ôi!
Kosiya bảo:
– Những người nào vì tin tưởng từ lời này đến lời khác vẫn hay làm các chuyện nọ chuyện kia, thường làm những việc không nên làm hơn là những việc nên làm và thực sự tất cả đều do nàng.
Và vị ấy ngâm các vần kệ:
251. Bố thí rộng tay bởi tín tâm,
Cử kiêng, điều phục, hộ phòng thân,
Vì nàng có lúc mất ân phước,
Trộm cắp, vu oan, lại vọng ngôn.
252. Với vợ hiền cao quý, thục đoan,
Đàn ông thường thận trọng, khôn ngoan,
Dục tình chế ngự đầy chu đáo,
Song đặt lòng tin ả bán hương.
253. Vì nàng lan rộng thói tà dâm,
Nàng bỏ thiện lương, sống lỗi lầm,
Không có quyền đòi bình nước uống,
Cũng chẳng đòi đâu được tọa sàng,
Nói gì thực phẩm từ thiên giới,
Đi gấp, ta không chút thích nàng!
Nàng thiên nữ cũng biến ngay lập tức. Nhưng Kosiya lại trò chuyện với nàng Hirī khi nàng đang đứng ở phương Bắc và ngâm hai vần kệ:
254. Bình minh viền rực, bóng đêm tàn,
Như chóa mắt ta, sắc đẹp nàng,
Thiên nữ hình dung, ôi tuyệt mỹ,
Nàng là ai, hãy nói danh xưng?
255. Như một cây mềm, dễ mọc ngang,
Trên vùng đất lửa đốt lan tràn,
Lá hồng theo gió mùa hè rụng,
Sao cứ nhìn ta, dáng thẹn thuồng,
Như thể có điều gì muốn nói,
Nhưng yên lặng đứng đó, cô nàng?
Lúc ấy, nàng ngâm kệ đáp:
256. Hirī là ta, bạn chí thân,
Vẫn thường giúp đỡ các chân nhân,
Đến đây ta muốn xin tiên thực,
Song ước mơ nào dám nói năng,
Cầu khẩn đáng là điều hổ thẹn,
Nhất là đối với gái hồng quần.
Nghe vậy, vị ẩn sĩ ngâm hai vần kệ:
257. Nàng chẳng cần đòi hỏi khẩn van,
Nhận sao cho hợp với quyền nàng,
Ta ban điều dám đâu mơ tưởng,
Hãy nhận món này thỏa ước mong.
258. Hôm nay dùng tiệc ở trong am,
Xin hạ cố, thiên nữ sắc vàng,
Ta thiết đãi nàng bao thượng vị,
Món ăn thiên giới cũng chia nàng.
***
Những vần kệ sau đây là của bậc Giác Ngộ:
259-60. Hirī tiên nương thật vẻ vang,
Được mời làm khách ở trong am,
Kosiya có nhiều hoa quả,
Khe suối quanh năm chảy ngập tràn,
Lại thấy từng đoàn Hiền thánh giả,
Vẫn thường lui tới các thôn làng.
261. Rậm rạp khóm cây đang trổ hoa,
Piyāla, xoài, mít, cạnh juda,
Sāla, đào đỏ tươi tô điểm,
Hùng vĩ sung, bàng đổ bóng xa.
262. Theo gió, nhiều hoa tỏa ngát hương,
Đậu, kê, gạo đủ thứ, kìa trông,
Nơi nơi buồng chuối trồng phong phú,
Tre, sậy chen nhau rậm nhất vùng.
263. Ở về phía Bắc, được viền quanh,
Bờ bến phẳng phiu, mát dịu lành,
Khe suối trong ngần tuôn chảy mãi,
Hãy nhìn hồ nước dáng uy linh.
264. Đàn cá tung tăng hạnh phúc tràn,
Tự do nô giỡn thật bình an,
Giữa bao thực phẩm đầy phong phú,
Hưởng thọ sao cho thỏa ước mong.
265. Bầy chim hạnh phúc chốn an bình,
Thưởng thức cao lương thật thỏa tình,
Thiên nga, ưng, hạc, chim công quý,
Cu gáy, ngỗng hồng với trĩ xanh.
266. Cọp, beo, sư tử đến từng bầy,
Làm dịu ngay cơn khát chốn này,
Gấu, chó, sói rừng thường lảng vảng,
Đấy là nguồn nước uống tràn đầy.
267. Trâu nghé, tê ngưu cũng đến đây,
Linh dương, nai đỏ, lợn từng bầy,
Hươu rừng rất lớn và nhiều loại,
Xuất hiện mèo tai thỏ lắm thay.
268. Các sườn núi rực rỡ muôn hoa,
Tươi thắm bao màu sắc điểm tô,
Vang dội tiếng chim muông ríu rít,
Lượn bay khắp cả chốn rừng thưa.
Đức Thế Tôn đã ca tụng vùng thảo am của Kosiya như vậy. Bấy giờ, Ngài ngâm kệ để miêu tả cung cách thiên nữ Hirī đi vào am:
269. Nàng thiên nữ dựa một cây cành,
Bao phủ quanh bằng tán lá xanh,
Như chớp từ vầng mây sấm sét,
Nàng vào rực sáng cảnh am tranh.
Sàng tọa thanh lịch soạn cho nàng,
Ở phía trên đầu, nệm thật sang,
Bằng cỏ kusa thơm sực nức,
Phủ ngoài da quý của linh dương.
Vị Thánh ẩn cư lại bảo ban,
Cùng nàng Hirī, vị tiên nương,
“Sàng tọa đã soạn cho nàng hưởng,
Xin hãy an tâm nhận tọa sàng.”
270. Ẩn sĩ lấy ra nước uống trong,
Đựng vào lá mới hái, nhanh chân,
Biết điều thầm kín nàng mơ ước,
Hoan hỷ người trao thực phẩm thần.
271. Bằng cả hai tay nhận thức ăn,
Hỷ hoan thiên nữ đáp lời ngài:
“Giờ đây, thiếp được ngài dâng cúng,
Người thắng nên đi đến cõi trời.”
272. Thiên nữ say kiêu hãnh vẻ vang,
Với ân huệ yết kiến Thiên hoàng:
“Hãy nhìn, Thiên đế ngàn con mắt,
Tiên thực đây, phần thưởng hãy ban!”
273. Sakka cùng với chúng thiên thần,
Kính lễ nàng thiên nữ tuyệt luân,
Trong lúc nàng ngồi trên bảo tọa,
Thiên nhân đồng ái mộ dung nhan.
Trong lúc tôn vinh nàng như vậy, ý tưởng này chợt đến với Thiên chủ Sakka: “Vì duyên cớ gì Kosiya từ chối ban tặng vật cho các nàng kia, lại ban thực phẩm thần tiên cho nàng này thôi?” Để xác định lý do này, ngài lại triệu Mātali đến.
***
Bậc Đạo sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:
274. Sakka Thiên chủ cõi Băm Ba,
Phán lệnh Mātali quản xa,
Truyền đến bảo Hiền nhân giải thích,
Cớ gì Hirī được ban quà?
Tuân lệnh ngài, Mātali cưỡi thiên xa Vejayanta (Tối Thắng xa của Đế-thích)[15] khởi hành đến nơi kia.
Bậc Đạo sư ngâm kệ diễn tả vấn đề:
275. Vì vậy Mātali vội vàng,
Phóng xe du lịch giữa không gian,
Phụ tùng mọi thứ đều cân xứng,
Trong vẻ vinh quang đẹp dị thường,
Càng đúc bằng vàng tinh luyện kỹ,
Khung xe đóng khéo được trang hoàng,
Cầu kỳ đủ các hình tô điểm,
Tất cả xe đều chạm trổ vàng.
276. Trên vàng được phát họa chim công,
Khéo tạo thành con số thật đông,
Bò, ngựa, hổ, voi và báo nữa,
Linh dương, nhung lộc sắp tranh hùng,
Ở trong bảo ngọc này đều khắc,
Đàn cưỡng cùng chim khác lượn vòng.
277. Xe được thắng thiên mã cả ngàn,
Mạnh như voi trẻ, sắc kim hoàn,
Cảnh này xem thực vinh quang quá,
Ngực chúng đều bao mạng lưới vàng,
Cùng các tràng hoa treo lủng lẳng,
Được buông lơi lỏng sợi dây cương,
Vừa khi nghe một lời ra lệnh,
Chúng lướt nhanh như gió nhẹ nhàng.
278. Ngay lúc Mātali nhảy vụt nhanh,
Cưỡi thiên xa ấy giữa thiên thanh,
Âm thanh mười hướng đồng vang dội,
Qua giữa không gian đã tốc hành,
Thiên tử làm trần gian chấn động,
Biển, trời, đất với núi rừng xanh.
279. Chẳng bao lâu đến thảo am kia,
Mong ước tỏ lòng tôn kính ra,
Để một vai trần chào Thánh giả,
Mātali lại bắt đầu thưa,
Với vị Bà-la-môn trí tuệ,
Tinh thông thánh điển thật cao xa:
280. “Nghe đây, Tôn giả Kosiya,
Lời nói của Thiên chủ Sakka,
Về việc ngài đang mong muốn biết,
Kìa xem, sứ mạng được giao ta,
‘Trong khi Tôn giả không công nhận,
Quyền của Āsā, Saddhā và
Sirī, xin hỏi sao Hirī
Riêng nhận từ tay ấy thưởng quà?’”
Khi nghe những lời này, vị ẩn sĩ khổ hạnh ngâm vần kệ:
281. Mātali hỡi, nàng Saddhā,
Là ngọc nữ không được vẹn toàn,
Trong lúc Sirī tâm bất định,
Hỡi ngài, thiên tử quản xa thần,
Nàng Āsā vẫn thường lừa dối,
Thích phản bội lời hứa của nàng,
Hirī riêng mình theo đức hạnh,
Trú thân trong Thánh đạo bình an.
Bấy giờ, vị ấy lại ngâm kệ ca ngợi đức hạnh của nàng:
282. Sống ở gia môn, gái má hồng,
Vẫn luôn được bảo vệ, canh phòng,
Nữ nhân đã quá thời xuân sắc,
Và những kẻ đang sống với chồng,
Ví thử có khi nào nhục dục,
Bỗng nhiên phát khởi ở trong lòng,
Nghe lời nói của nàng Hirī,
Chế ngự dục tâm hạ xuống dần.
283. Khi các giáo, tên ở chiến trường,
Phóng nhanh rào rạt tựa mưa tuôn,
Trong cơn trốn chạy, bao đồng đội,
Ngã xuống hay đào tẩu loạn cuồng,
Nghe được lời nàng Hirī nói,
Nhiều người dừng chạy, dẫu nguy nan,
Và dầu đang ngập tràn kinh hoảng,
Lần nữa xông ra chốn kiếm thương.
284. Giống như bờ biển vẫn thường ngăn,
Những đợt ba đào giữa đại dương,
Hirī cũng thường hay trấn áp,
Con đường của những bọn tà gian.
Mātali hỡi, mau về gặp,
Thiên chủ Inda, nói rõ ràng,
“Bậc Thánh khắp nơi trên thế giới,
Thảy đều tôn trọng đại danh nàng.”
Nghe vậy, Mātali ngâm vần kệ:
285. Kosiya, kẻ ấy là ai,
Đã gợi ý kia đến với ngài,
Có phải là Inda Đại đế,
Phạm thiên, hay Pajāpati?
Nàng Hirī ấy, thưa Tôn giả,
Phải biết được sinh bởi ý trời,
Thiên chủ Inda trên thượng giới,
Riêng nàng đức hạnh tối cao ngôi.
Trong lúc vị thiên tử nói, ngay chính thời khắc ấy, Kosiya sắp phải tái sinh. Mātali liền bảo:
– Này Kosiya, thân ngũ uẩn đang lìa Tôn giả. Việc thực hành hạnh bố thí đã viên mãn. Tôn giả còn có gì liên hệ với nhân thế nữa đâu? Bây giờ chúng ta sẽ lên thiên giới.
Vừa quyết định đưa vị ấy lên trời, thiên tử vừa ngâm kệ:
286. Thánh nhân, hãy bước đến bây giờ,
Lập tức lên xe quý của ta,
Ta sẽ dẫn ngài về thượng giới,
Cung đình ngự trị cõi Băm Ba,
Inda đang đợi chờ Tôn giả,
Quyến thuộc Inda quả thực là,
Thiên đạo hôm nay lên cộng trú,
Ngài thành đạt với Chúa Inda.
Trong lúc Mātali đang nói, Kosiya từ trần và hóa sanh vào hàng thiên chúng mà không cần qua trung gian cha mẹ, rồi bước lên đứng trên thiên xa. Sau đó, Mātali đưa vị ấy đến yết kiến Thiên chủ Sakka. Khi thấy vị ấy, Thiên chủ rất đẹp ý và thưởng thiên nữ Hirī cho vị ấy đưa về làm vương hậu chánh cung, lại ban cho vị ấy vương quyền cai trị một miền rộng bao la nữa.
Hiểu rõ điều này, bậc Đạo sư bảo: “Chính hành động của một số Hiền nhân được thanh tịnh theo cách ấy.” Và Ngài ngâm vần kệ cuối cùng:
287. Chính hành động của Thánh, Hiền nhân,
Đưa đến đời sau quả phước ân,
Kết quả thiện hành an trú mãi,
Người nhìn thực phẩm của thiên thần,
Được đem trao tặng nàng Hirī,
Thân hoại, trú an với Ngọc hoàng.
***
Đến đây, bậc Đạo sư chấm dứt pháp thoại với những lời này:
– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà ngày xưa nữa, Ta cũng đã giáo hóa kẻ xan tham này vốn là gã keo kiệt cố hữu.
Nói xong, Ngài nhận diện tiền thân:
288. Uppalavaṇṇā là nàng Hirī,
Tỷ-kheo bố thí ấy Kosiya,
Pañcasikha là Anuruddha,
Mātali là thị giả Ānanda.
289. Suriya chính Kassapa,
Canda ngày ấy, Moggallāna,
Nārada là Sāriputta,
Vua trời Đế-thích chính là Như Lai.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.