Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 07  » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »

Kinh Tiểu Bộ Quyển 3 
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch

Mục Lục

§534. CHUYỆN ĐẠI THIÊN NGA (Mahāhaṁsajātaka)[6] (J. V. 355)

Kìa đàn thiên nga cất cánh bay...

Chuyện này bậc Đạo sư kể trong lúc trú tại Trúc Lâm về việc Trưởng lão Ānanda hy sinh tính mạng. Phần duyên khởi cũng giống hệt như chuyện đã kể trên, nhưng vào dịp này, trong lúc bậc Đạo sư kể chuyện quá khứ đã tường thuật chuyện sau đây.

***

Ngày xưa, ở thành Ba-la-nại, một vị quốc vương mệnh danh là Saṃyama có vị chánh hậu tên là Khemā (Thái Hòa). Thời ấy, Bồ-tát cùng đoàn tùy tùng chín mươi ngàn con thiên nga trú trên đỉnh Cittakūṭa.

Một ngày kia, vào lúc tảng sáng, Hoàng hậu Khemā chiêm bao thấy một bầy thiên nga màu vàng ánh đến đậu trên ngai vua và thuyết pháp với giọng ngọt ngào. Trong khi hoàng hậu đang lắng tai nghe và tán thán mà chưa được trọn bài thuyết giảng thì bình minh đã đến, bầy thiên nga liền chấm dứt pháp thoại và bay qua cửa sổ mở rộng. Hoàng hậu vội vàng thức dậy kêu to:

– Bắt lấy chúng, bắt lấy bầy thiên nga trước khi chúng thoát thân!

Và trong lúc vừa dang rộng cánh tay, bà tỉnh dậy. Nghe lời bà, các cung nữ thưa:

– Tâu Lệnh bà, bầy thiên nga ở đâu?

Và chúng cười khúc khích. Lúc ấy, hoàng hậu biết đó chỉ là giấc mơ và nghĩ thầm: “Ta không thể thấy một vật không có thật, chắc chắn có loài kim nga trên đời này, song nếu ta tâu đức vua: ‘Thiếp mong muốn nghe chim kim nga thuyết pháp’, ngài sẽ bảo: ‘Ta chưa từng thấy giống kim nga nào cả, làm gì có chuyện chim kim nga thuyết pháp’ và ngài sẽ không quan tâm đến vấn đề đó. Tuy nhiên, nếu ta tâu: ‘Thần thiếp có niềm ao ước ấy trong lúc mang thai’, ngài sẽ cho tìm chúng bằng mọi cách và thế là ta được thỏa tâm nguyện.”

Vì vậy, vừa giả bệnh vừa dặn dò các cung nữ xong, bà đi nằm. Khi vua đã ngự lên ngai mà không thấy bà đến yết kiến như thường lệ liền hỏi Hoàng hậu Khemā ở đâu và khi nghe bà bị bệnh, vua đến thăm, vừa ngồi một bên giường vừa vuốt lưng và hỏi thăm bệnh tình của bà. Bà đáp:

– Tâu Chúa thượng, thần thiếp không có bệnh gì cả, song thiếp chợt có những niềm ao ước của một thai phụ.

– Này Ái khanh, cứ nói đi, Ái khanh muốn gì, trẫm sẽ tìm được cho Ái khanh ngay.

– Tâu Chúa thượng, thiếp ao ước nghe chim kim nga thuyết pháp trong lúc chim ấy ngự trên ngai vàng có chiếc lọng che trên đầu, và thiếp mong dâng lên chim ấy nhiều tràng hoa thơm cùng các lễ vật khác để tỏ lòng cung kính tán thán của thiếp. Nếu thiếp đạt được điều này thì quý biết bao, nếu không thiếp chẳng muốn sống nữa.

Vua liền an ủi bà và bảo:

– Nếu có vật ấy trên thế giới này thì Ái khanh sẽ được toại nguyện, chớ lo buồn.

Rồi ra khỏi cung thất của hoàng hậu, vua tham vấn các vị đại thần và phán:

– Này các khanh, hãy lưu ý, Hoàng hậu Khemā bảo: “Nếu thiếp nghe được chim kim nga thuyết pháp thì thiếp sẽ sống, nếu không thiếp sẽ chết.” Vậy hãy cho trẫm biết, có loài chim kim nga nào chăng?

Triều thần đáp:

– Tâu Chúa thượng, chúng thần chưa từng nghe hoặc thấy loài ấy.

– Thế ai biết được chuyện này?

– Tâu Chúa thượng, các Bà-la-môn.

Vua liền triệu tập các Bà-la-môn đến và hỏi:

– Có chuyện nào như việc loài chim kim nga thuyết pháp chăng?

– Tâu Đại vương, có. Theo truyền thuyết của chúng thần, các loài cá, cua, rùa, nai, công và thiên nga đều có sắc vàng ánh. Trong số ấy, người ta bảo dòng giống thiên nga Dhataraṭṭha rất tinh khôn, thông thái. Cộng thêm loài người nữa là bảy loài sinh vật có màu vàng ánh.

Vua vô cùng hoan hỷ, hỏi:

– Vậy loài thiên nga Dhataraṭṭha thông thái này cư ngụ ở đâu?

– Tâu Đại vương, chúng thần không biết.

– Thế thì ai biết chứ?

Họ đáp:

– Tâu Đại vương, những người bẫy chim.

Vua liền tập hợp tất cả dân bẫy chim từ khắp nước về và hỏi họ:

– Này các hiền hữu, các chim kim nga thuộc dòng giống Dhataraṭṭha cư trú ở đâu?

Một người bẫy chim đáp:

– Tâu Đại vương, theo truyền thuyết từ đời nọ sang đời kia, người ta bảo chúng cư trú trong dãy Tuyết Sơn, trên đỉnh Cittakūṭa.

– Vậy khanh có biết làm cách nào bắt được chúng chăng?

– Tâu Đại vương, thần không biết.

Vua liền triệu tập các Bà-la-môn thông thái. Sau khi cho họ biết có loài chim kim nga trên đỉnh Cittakūṭa, vua hỏi họ có cách nào để bẫy chúng chăng. Họ đáp:

– Tâu Đại vương, cần gì chúng thần phải bắt chim? Chúng thần sẽ bày mưu kế đưa chim về gần kinh thành và bắt chúng.

– Mưu kế gì vậy?

– Tâu Đại vương, về phía Bắc kinh thành, xin Đại vương ra lệnh đào một cái hồ rộng ba dặm, một địa điểm thật an toàn, chứa đầy nước, trồng đủ loại ngũ cốc cùng năm loại hoa sen phủ mặt hồ. Rồi giao hồ cho một người bẫy chim thiện xảo chăm sóc, không cho phép ai đến gần hồ và phân công nhiều người canh giữ bốn góc, rao truyền cho dân chúng biết đây là hồ bảo tồn chim muông. Khi nghe vậy, mọi loài chim sẽ đến đó. Sau đó, các con chim kim nga này nghe bọn chúng bảo nhau hồ này thật an toàn, tất nhiên sẽ đến thăm hồ và Đại vương bảo lấy thòng lọng bẫy chúng.

Vua nghe vậy liền bảo đào hồ như họ miêu tả ở vùng họ nói, rồi triệu một người bẫy chim thiện xảo đến ban cho gã một ngàn đồng tiền và phán:

– Từ nay ngươi hãy bỏ nghề cũ, trẫm sẽ cấp dưỡng cho vợ con, gia đình ngươi. Hãy cẩn thận canh giữ hồ Khema này và buộc mọi người phải tránh xa hồ! Truyền rao khắp bốn phương rằng đây là hồ bảo tồn chim muông, hễ có loài chim nào lai vãng đến nơi đây đều là của trẫm và khi loài chim kim nga đến, ngươi sẽ được vinh hoa phú quý.

Cùng với những lời khích lệ này, vua giao gã chăm nom hồ bảo tồn. Từ ngày ấy, gã bẫy chim làm đúng như lệnh vua truyền, canh giữ nơi ấy và do gã bảo vệ hồ được bình an nên được mệnh danh là Khemaka “người bẫy chim ở hồ Khema.”

Từ đấy, mọi loài chim bay đến đậu nơi ấy, và vì chúng truyền tin cho nhau rằng hồ này bình an ổn định nên nhiều loài thiên nga bay đến. Trước hết là loài thiên nga màu cỏ xanh, rồi nhờ chúng loan báo, kế đó là loài hoàng nga, và theo cách này, giống thiên nga đỏ tía, thiên nga trắng và thiên nga Pāka lần lượt bay đến.

Khi chúng đến, Khemaka trình vua như vầy:

– Tâu Đại vương, năm loài thiên nga đã đến và chúng vẫn đang tiếp tục ăn uống ở hồ này. Giờ đây thiên nga Pāka đã đến, chỉ vài ngày nữa là loài kim nga sẽ đến. Xin Đại vương chớ lo âu!

Vua nghe vậy liền truyền đánh trống lệnh công bố khắp kinh thành rằng không ai được phép đến nơi kia, bất cứ kẻ nào bất tuân lệnh sẽ chịu hình phạt chặt tay chân và tịch thu gia sản nên từ đó không ai dám đến đó nữa.

Bấy giờ, thiên nga Pāka cư trú trong Kim động, không xa đỉnh Cittakūṭa. Loài chim này có sức mạnh phi thường và cũng giống như thiên nga dòng họ Dhataraṭṭha, màu sắc thân của chúng rất đặc sắc, còn con gái của thiên nga vương Pāka lại có màu vàng ánh. Vì thế, vua cha nghĩ rằng nàng xứng đôi với thiên nga vương Dhataraṭṭha và gả nàng cho vua chim. Nàng rất được vua chim sủng ái, nhờ vậy hai dòng họ thiên nga này trở nên thân thiết nhau.

Một hôm, bầy thiên nga hầu cận Bồ-tát hỏi thiên nga Pāka:

– Hiện giờ, các bạn tìm thức ăn ở đâu?

– Chúng tôi đang kiếm ăn gần Ba-la-nại, trong một vùng nước an toàn, nhưng còn các bạn bay tận đâu?

Chúng đáp:

– Đến nơi như vầy, như vầy.

– Sao các bạn không đến hồ bảo tồn chim muông? Đó là một cái hồ tuyệt đẹp, đủ các loài chim, được năm loại sen bao phủ, có rất nhiều loại ngũ cốc và quả cây cùng nhiều đàn ong đủ loại bay lượn vo ve. Tại bốn phía đều có người canh giữ, công bố hồ được vĩnh viễn tránh khỏi hiểm nguy, không ai được phép đến gần, lại càng không có việc hại nhau đâu.

Theo cách này, chúng cứ ca tụng hồ Khema mãi. Khi nghe chuyện thiên nga Pāka nói, chúng trình với Sumukha (Sư-mục-kha):

– Bầy chim kia bảo với chúng thần ở gần Ba-la-nại có một hồ Khema như vầy, dòng họ Pāka vẫn thường đi ăn tại đó. Xin tướng quân tâu với đại vương Dhataraṭṭha và nếu ngài cho phép chúng thần thì chúng thần cũng sẽ kiếm mồi tại đó.

Sumukha trình với chúa chim, ngài suy nghĩ: “Loài người quả thật đầy mưu thần chước quỷ. Chắc chắn phải có lý do gì đây. Từ xưa tới nay không hề có hồ như vậy. Chắc hẳn bây giờ hồ đã được xây để bắt chúng ta.” Ngài liền bảo Sumukha:

– Khanh đừng tán thành việc đi đến hồ kia. Hồ này chẳng được họ xây bằng thiện ý đâu mà nó được xây để bắt chúng ta đó. Chắc chắn loài người đầy ác tâm và mưu mô xảo quyệt. Hãy ở lại chỗ các khanh thường kiếm mồi!

Lần thứ hai, lần thứ ba, bầy kim nga thưa với tướng quân Sumukha rằng chúng rất nóng lòng đi đến hồ Khema và vị ấy lại trình nguyện vọng của chúng lên Bồ-tát. Bồ-tát suy nghĩ: “Không nên để quyến thuộc bất mãn vì ta. Vậy chúng ta cùng đến đó.” Vì vậy, được chín mươi ngàn chim thiên nga hộ tống, ngài bay đến đó và gặm chồi non, vui đùa theo cung cách của loài thiên nga xong rồi bay về đỉnh Cittakūṭa.

Sau khi bầy chim đã ăn uống và giã từ, người bẫy chim Khemaka đi trình với vua xứ Ba-la-nại việc chim đã đến. Vua vô cùng hoan hỷ phán:

– Này hiền hữu Khemaka, hãy cố gắng bắt lấy một hai thiên nga, rồi ta sẽ ban thưởng vinh hoa phú quý cho khanh!

Cùng với các lời này, vua ban bổng lộc cho gã và bảo gã ra về. Khi trở lại hồ, người bẫy chim ngồi giấu mình trong cái thùng rỗng và ngắm các hoạt động của bầy thiên nga. Các vị Bồ-tát quả thật đã thoát ly tham dục vì thế Bồ-tát bắt đầu từ nơi đã hạ cánh xuống, bước đi ăn lúa một cách chừng mực, từ tốn. Còn các con chim kia đều bay nhảy kiếm mồi khắp nơi. Do vậy, người bẫy chim suy nghĩ: “Thiên nga này đã thoát ly tham dục. Đây chính là con chim ta phải bắt lấy.”

Ngày hôm sau, trước khi bầy thiên nga hạ cánh xuống hồ, gã đến một nơi gần đó giấu mình trong cái thùng rỗng, ngồi yên tại đó nhìn qua khe hở của thùng. Lúc ấy, Bồ-tát được chín mươi ngàn chim thiên nga hộ tống đáp xuống nơi ngài đã đến hôm trước và đậu ngay tại chỗ ăn hôm qua, tiếp tục ăn lúa.

Người bẫy chim nhìn qua khe hở của thùng, chú ý ngay vẻ đẹp phi thường của chim này và suy nghĩ: “Chim này lớn bằng cỗ xe, lông vàng ánh và cổ lại có ba khoang đỏ. Ba khoang này chạy từ cổ xuống dọc theo phần giữa bụng, trong khi ba khoang khác chạy xuống nổi rõ trên lưng, toàn thân tỏa sáng như một khối vàng ròng treo trên sợi dây làm bằng chỉ đỏ. Đây chắc hẳn là chim chúa và chính là con chim ta quyết bắt lấy.”

Còn chúa thiên nga, sau khi ăn lúa trên đồng ruộng xong, lại vui đùa trong vũng nước và sau đó được đàn chim hộ tống trở về đỉnh Cittakūṭa. Suốt sáu ngày liền, ngài kiếm mồi theo kiểu ấy. Vào ngày thứ bảy, Khemaka kết một sợi dây lớn bằng lông ngựa đen và buộc dây thòng lọng trên cây sào, rồi vì biết chúa thiên nga sẽ đáp xuống ngày mai vào chỗ cũ, gã đặt cây sào có buộc cái bẫy ở trên vào trong vũng nước.

Hôm sau, chúa thiên nga hạ cánh xuống liền bị mắc chân vào bẫy, nó kẹp chặt chân chim như sợi dây sắt siết mạnh. Chim chúa muốn phá bẫy nên kéo lê nó đi và lấy hết sức đạp mạnh vào bẫy. Trước tiên, chỗ da vàng ánh bị bầm dập, kế đó thịt màu đỏ thắm bị rách, rồi gân đứt lìa, cuối cùng đáng lẽ chân chim đã bị gãy, song nghĩ rằng thân thể tàn tật không xứng đáng với một chúa chim nên chim không chống cự nữa. Trong khi các chỗ đau bắt đầu nhức nhối, chim suy nghĩ: “Nếu ta thốt tiếng kêu cứu, quyến thuộc ta sẽ hoảng hốt và dù chưa ăn no đủ chúng cũng sẽ chạy trốn thì e còn đói lòng, chúng sẽ rơi xuống nước.”

Vì thế cố chịu đựng nỗi đau, chim đứng yên trong gọng kìm của chiếc bẫy, giả vờ ăn lúa. Nhưng khi đàn chim đã no nê rồi và đang chơi đùa theo kiểu cách của thiên nga, chim chúa liền thốt lên tiếng kêu bị nạn. Bầy thiên nga nghe vậy bay bổng lên đi mất như đã được tả trước đây. Tướng quân Sumukha cũng xem xét mọi việc như đã kể rồi bay đi tìm quanh quẩn mà không thấy Bồ-tát trong ba đàn thiên nga lớn kia liền suy nghĩ: “Chắc hẳn đây là một chuyện khủng khiếp đã xảy ra với đức vua”, thế rồi Sumukha quay lại và nói:

– Tâu Chúa thượng, xin đừng sợ, thần sẽ giải cứu Chúa thượng dù phải hy sinh tánh mạng của thần!

Rồi vừa đáp xuống vũng bùn, chim ấy an ủi vỗ về Bồ-tát. Bồ-tát suy nghĩ: “Chín mươi ngàn chim thiên nga đã bỏ ta bay đi mất, chỉ còn chim này một mình trở lại đây. Ta không biết khi người bẫy chim đến, Sumukha cũng sẽ bỏ ta mà bay đi không.” Rồi để thử lòng chim kia, ngài dựa mình đầy máu vào chiếc sào buộc cái bẫy và ngâm ba vần kệ:

89. Kìa đàn thiên nga cất cánh bay,

Cả bầy hốt hoảng hãi kinh đầy,

Đi ngay, Sumukha vàng ánh,

Khanh muốn gì chăng ở chốn này?

90. Họ hàng ta đã bỏ rơi ta,

Bọn chúng đều cao chạy vút xa,

Đào tẩu ngay không hề nghĩ ngợi,

Sao khanh đơn độc ở đây mà?

91. Thiên nga cao thượng, hãy bay về,

Tù tội làm sao có bạn bè?

Lúc được tự do, Sumukha hỡi,

Bay đi, đừng bỏ dịp may kề!

Nghe vậy, Sumukha nghĩ thầm: “Thiên nga vương này không biết bản tính của ta, ngài tưởng ta chỉ là thứ bạn nói lời xu nịnh. Ta sẽ tỏ cho ngài thấy ta yêu quý ngài biết bao”, rồi chim ấy ngâm bốn vần kệ:

92. Không, thần sẽ chẳng bỏ nga vương,

Khi đến gần tai họa thảm thương,

Song ở lại đây thần đã quyết,

Bên ngài, dù sống chết không màng.

93. Không, thần sẽ chẳng bỏ nga vương,

Khi đến gần tai họa thảm thương,

Chẳng dự vào hành vi hạ liệt,

Với bầy chim nọ, chẳng theo gương.

94. Thần đồng tâm hiệp ý cùng ngài,

Đồng bạn vui chơi thuở thiếu thời,

Giữa các quần thần, tâu Chúa thượng,

Nổi danh là thủ lãnh hùng oai.

95. Khi về với quyến thuộc thân bằng,

Thần biết làm sao để nói năng,

Ví thử bỏ ngài cho số phận,

Vô tình bay bổng thật nhanh chân?

Không, thà chịu chết hơn là sống,

Khi phải đóng vai hạ liệt thần!

Khi Sumukha đã ngâm bốn vần kệ như giọng sư tử rống, Bồ-tát lên tiếng nêu rõ đức độ của bạn:

96. Bản tính khanh, Sumukha tướng quân,

Vẫn thường an trú lý như chân,

Không bao giờ bỏ rơi vua chúa,

Thân hữu, hãy tìm cách thoát thân!

97. Khi ta nhìn thấy mặt hiền khanh,

Trong trí ta không khỏi hãi kinh,

Dù cảnh ngộ buồn, khanh cũng sẽ,

Tìm đường giải cứu bạn thân mình.

Trong lúc đôi chim đang đàm luận như vậy, người bẫy chim đứng trên bờ hồ thấy bầy thiên nga bay rẽ ra thành ba đàn và không biết việc này có ý nghĩa gì, gã chợt nhìn đến nơi gã đã đặt bẫy và thấy Bồ-tát dựa mình vào cây gậy có cột thòng lọng. Vô cùng mừng rỡ, gã buộc thắt lưng lại, cầm gậy vội vàng đến gần và đứng trước đôi chim; như ngọn lửa ở đầu chiếc vòng, đầu gã vươn cao trên đôi chim và gót chân chôn chặt dưới bùn.

***

Bậc Đạo sư ngâm kệ làm sáng rõ vấn đề:

98. Đôi chim cao thượng đã trao nhau,

Tư tưởng như vầy, thật quý cao,

Hãy ngắm kẻ săn chim táo bạo,

Tay cầm chiếc gậy bước chân mau!

99. Thấy gã đến gần, Sumukha,

Đứng lên ngay trước chúa thiên nga,

Hiên ngang khích lệ quân vương ấy,

Đầy nỗi lo trong bước sẩy sa.

100. “Nga vương cao quý, chớ kinh hoàng,

Kinh hãi chẳng là cách đại vương,

Với lẽ công bằng, thần nỗ lực,

Khẩn cầu với lý luận khôn ngoan,

Bằng hành động hết lòng can đảm,

Lần nữa chúa công được thoát nàn.”

Sumukha an ủi Bồ-tát như vầy, rồi vừa đi đến bên người bẫy chim vừa dùng tiếng người thật êm dịu hỏi:

– Này hiền hữu, danh tánh của bạn là gì?

Y đáp:

– Này chúa loài kim nga, ta có tên là Khemaka.

Sumukha đáp:

– Này hiền hữu, đừng tưởng rằng chỉ một thiên nga tầm thường đã bị bắt vào bẫy lông ngựa của hiền hữu. Đó chính là chúa công Dhataraṭṭha, lãnh tụ của chín mươi ngàn thiên nga đang bị mắc bẫy. Ngài thật là hiền trí, đức hạnh và đang sẵn sàng hòa giải. Ta sẽ làm bất cứ việc gì mà ngài phải làm cho hiền hữu. Ta cũng có sắc vàng ánh và ta muốn hy sinh thân mạng mình vì ngài. Nếu hiền hữu muốn nhổ lông ngài, xin hãy nhổ lông ta, hoặc nếu hiền hữu muốn làm việc gì khác với da, thịt, gân, xương của ngài, xin cứ lấy ra từ thân ta. Hơn nữa, giả sử hiền hữu muốn luyện ngài thành chim thuần, xin hãy luyện ta, bán ta lúc còn sống, hoặc nếu muốn kiếm tiền, xin hãy bán ta, chứ đừng giết ngài, vì ngài là bậc đầy đủ trí tuệ và đức hạnh như thế. Nếu hiền hữu muốn giết ngài, hiền hữu sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi địa ngục hoặc đọa xứ khổ cảnh tương tự!

Sau khi đe dọa kẻ bẫy chim bằng nỗi kinh hoàng địa ngục khiến y phải nghe lời khuyến dụ êm tai của mình, Sumukha lại đến gần đứng cạnh Bồ-tát và an ủi ngài. Gã bẫy chim nghe lời ấy, suy nghĩ: “Chỉ là một con chim như thế, nó lại có thể làm được những gì loài người không thể làm được. Vì loài người không chung thủy trong tình bằng hữu. Ôi, đấy thật là một chim thần đầy trí tuệ và biện tài!” Toàn thân gã rúng động với nỗi hoan lạc kỳ diệu, tóc gã dựng đứng vì kinh ngạc, gã làm rơi chiếc gậy và chắp hai tay lên trước trán như người kính lễ mặt trời. Gã đứng đó tuyên dương công hạnh của Sumukha.

***

Bậc Đạo sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

101. Người săn chim nọ đã nghe lời,

Chim ấy nói ra với biện tài,

Tóc dựng đứng lên, tay chắp lại,

Tôn sùng kính lễ trước chim trời.

102. Chưa được nghe hay thấy trước giờ,

Chim dùng tiếng nói của người ta,

Và bằng giọng lưỡi, chim tuyên thuyết,

Chân lý tối cao quả thật là!

103. “Với ngươi, chim có họ hàng gì,

Khi cả đàn cùng chạy trốn đi,

Dù được tự do, ngươi ở lại,

Bên chim bị bắt một mình kia?”

Khi nghe người bẫy chim độc ác hỏi câu này, Sumukha suy nghĩ: “Kẻ ấy đã động lòng, ta muốn bày tỏ cho y thấy đức tính của ta để y hồi tâm thêm nữa.” Và chim ngâm kệ:

104. Hỡi cừu nhân của đàn thiên nga,

Ngài chúa công, ta đại tướng mà,

Ta chẳng bỏ ngài cho số phận,

Bình an đào thoát một mình ta.

105. Đừng để thiên nga chúa đại hùng,

Nơi đây phải chết thật đơn thân,

Bên ngài, hạnh phúc ta tìm thấy,

Ta được ngài như đáng chúa công.

Khi nghe lời thuyết giáo dịu dàng về cách nhận lãnh trách nhiệm của chim kia, người bẫy chim tràn ngập hân hoan và lông tóc dựng đứng vì kinh ngạc, suy nghĩ: “Giả sử ta giết thiên nga chúa đầy đủ đạo hạnh và mọi đức tính này, ta sẽ chẳng bao giờ thoát khỏi bốn khổ hình. Vậy cứ để vua xứ Ba-la-nại muốn làm gì ta cũng mặc, ta sẽ trao chim mắc bẫy này như quà biếu không cho Sumukha và thả chim đi.” Gã liền ngâm kệ:

106. Ngươi kính điểu vương cao quý thay,

Vì ngươi vẫn sống với chim này,

Hãy bay về chốn ngươi chung sống,

Ta thả tự do hiền chúa ngay.

Nói vậy xong, người bẫy chim đầy thiện ý đến gần Bồ-tát, uốn cây sào xuống, đặt chim chúa trên bùn và lại nhấc sào ra khỏi thòng lọng. Sau đó gã kéo chim ra khỏi hồ, vừa đặt chim trên đám cỏ kusa non, gã vừa nhẹ tay tháo chiếc bẫy đã kẹp chân chim. Lòng gã dạt dào tình thân mến Bồ-tát và với từ tâm, gã lấy nước rửa sạch máu rồi chùi đi chùi lại nhiều lần. Nhờ uy lực của từ tâm ấy, gân dính liền gân, thịt liền thịt, da liền da, chân chim lại lành như trước, chẳng còn gì khác với chân kia, và Bồ-tát ngồi đó hân hoan thư thái vì được như xưa.

Sumukha thấy chim chúa hạnh phúc [dường nào] nhờ hành động của mình nên vô cùng hoan hỷ, nghĩ thầm: “Người này đã đem lại lợi ích cho ta, nhưng ta chưa làm gì cho y cả. Nếu y bắt ta và giao cho các triều thần, y sẽ được một số tiền lớn, và nếu y bắt ta cho chính y, y sẽ bán ta rồi thu lợi lớn. Ta muốn hỏi y đôi điều.” Như vậy, do lòng mong ước làm lợi ích cho gã, chim ngâm kệ hỏi:

107. Nếu vì mục đích của riêng tây,

Ông đã bắt ta, đặt bẫy này,

Ta được tự do ông trả lại,

Lòng không lo lắng, nghĩ suy đầy.

108. Song bằng không, quả thật to gan,

Người bẫy chim tha mạng điểu vương,

Mà chẳng vì ân vua phép nước,

Hiển nhiên trộm cướp chẳng gì hơn.

Người bẫy chim nghe vậy, bảo:

– Ta không bắt chim cho ta đâu, ta được Vua Saṃyama ở Ba-la-nại sai làm.

Rồi gã kể cho chim nghe toàn thể câu chuyện, từ lúc đầu hoàng hậu nằm mộng cho đến khi vua nghe có loài thiên nga đến và vua phán rằng: “Này hiền hữu Khemaka, hãy cố bắt một hai con thiên nga rồi trẫm sẽ ban đại phú quý cho khanh!” và cấp lương thực cho gã lên đường.

Khi nghe vậy, Sumukha suy nghĩ: “Người bẫy chim này không kể gì đến kế sinh nhai của riêng mình, khi thả chúng ta ra là gây khó khăn cho y. Song nếu từ đây ta trở về đỉnh Cittakūṭa thì trí tuệ siêu phàm của thiên nga Dhataraṭṭha cũng như hành động vì tình bằng hữu của ta đều không được biểu lộ, người bẫy chim cũng sẽ không hưởng đại phú quý, nhà vua cũng không được an trú vào ngũ giới và ước nguyện của hoàng hậu cũng không thành tựu.” Vì thế, chim ấy đáp:

– Này hiền hữu, nếu quả thật như vậy thì ông không thể để cho chúng ta đi. Hãy đưa chúng ta đến yết kiến vua và ngài sẽ đối xử với chúng ta tùy thích.

Chim ấy lại ngâm vần kệ làm sáng tỏ vấn đề:

109. Ông là tôi tớ của quân vương,

Ý nguyện ngài, ông phải vẹn toàn,

Tùy thích Vua Saṃyama định đoạt,

Với ta, đối xử hợp tâm can.

Nghe vậy, người bẫy chim nói:

– Thưa các ngài, các ngài không nên mong ước diện kiến đức vua. Vua chúa quả thật là những người vô cùng nguy hiểm. Họ sẽ luyện các ngài thành chim thuần tính hoặc giết đi.

Sumukha liền đáp:

– Này hiền hữu bẫy chim, đừng bận lòng vì chúng ta. Nhờ thuyết pháp, ta đã khiến cho một người độc ác như ông phát khởi từ tâm. Vậy sao ta không làm việc này với vua? Vua chúa đủ trí tuệ để hiểu lời chân thiện. Hãy mau đưa ta đến yết kiến vua. Ông đừng đem chúng ta đi như đôi chim mắc bẫy mà hãy đặt ta vào chiếc lồng hoa và đưa đi như vậy. Hãy làm chiếc lồng lớn phủ sen trắng cho thiên nga Dhataraṭṭha và lồng nhỏ hơn phủ sen đỏ cho ta, đặt ngài phía trước, ta phía sau, hơi thấp hơn một chút, rồi khẩn cấp đưa ta đi yết kiến vua!

Khi nghe lời Sumukha, người bẫy chim suy nghĩ: “Sumukha đến yết kiến đức vua chắc hẳn mong ta được đại vinh hiển.” Lòng vô cùng hoan hỷ, gã làm đôi lồng bằng các cành liễu mềm phủ hoa sen xong liền lên đường cùng với đôi chim theo cách đã miêu tả.

***

Bậc Đạo sư ngâm kệ để làm sáng tỏ vấn đề:

110. Người săn chim nắm cả hai tay,

Trong lúc được nghe nói thế này,

Liền đặt vào lồng đôi ngỗng đỏ,

Sắc da vàng ánh đẹp như vầy.

111. Bộ lông ngời sáng, chúa thiên nga,

Càng đẹp mắt trông với Sumukha,

Yên ổn trong lồng người đặt bẫy,

Cầm lên cùng với ngỗng đi ra.

Ngay khi người bẫy chim lên đường cùng với đôi ngỗng, chim chúa Dhataraṭṭha chợt nhớ đến vương hậu của mình là công chúa của thiên nga vương Pāka; do lòng tham ái chi phối, chim chúa than thở với Sumukha.

***

Bậc Đạo sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

112. Nga vương vừa mới được mang ra,

Liền nói như vầy với Sumukha:

“Vương hậu diễm kiều đầy quý tướng,

Bây giờ đang khổ não vì ta.

Nếu nàng nghe nói rằng ta chết,

Ta sợ đời nàng cũng phải sa.

113. Như cò hương khóc bạn tình lang,

Đơn độc bên bờ vắng đại dương,

Rực rỡ, Suhemā[7] da óng ả,

Sẽ còn thương tiếc mãi quân vương.”

Nghe vậy, Sumukha suy nghĩ: “Thiên nga này, dù luôn sẵn sàng khuyến giáo kẻ khác, lại bị tham dục chi phối, tất cả chỉ vì chim mái nên cứ lảm nhảm như nước đang sôi sùng sục, hoặc chẳng khác tiếng bầy chim từ bến bờ vụt lên rồi sà xuống mổ lúa trên ruộng. Hay ta cố dùng trí tuệ nêu rõ cho ngài thấy những thói xấu của nữ giới và làm ngài tỉnh táo lại.” Rồi chim này ngâm kệ:

114. Thiên nga vĩ đại, trí vô song,

Lãnh đạo anh minh của giống dòng,

Sao phải ưu phiền vì nữ giới,

Tỏ bày bao nhược điểm trong lòng.

115. Như gió mang đi đủ thứ mùi,

Dù là thơm ngát hoặc tanh hôi,

Tham lam như trẻ thành mù quáng,

Ăn thức còn tươi hoặc chín rồi.

116. Không xét suy chân chánh việc làm,

Mê mờ, ngài chẳng thấy trên đàng,

Việc gì cần tránh, gì làm được,

Trong lúc sa cơ gặp hiểm nàn.

117. Hóa dại, ngài ca tụng má hồng,

Có đầy vẻ diễm lệ say lòng,

Tầm thường, tuy vậy là đa số,

Chẳng khác trà đình của túy ông.

118. Ưu phiền, bệnh tật với tai ương,

Như xích xiềng, gông, cực bạo tàn,

Ảo ảnh, dối gian và cạm bẫy,

Tử thần cất kín tận tâm can.

Nữ nhân đều thế, ai tin chúng,

Hạ liệt quả là nhất thế gian!

Lúc ấy, chúa chim Dhataraṭṭha đang say mê nữ giới liền bảo:

– Hiền hữu không biết các đức tính của phái nữ, nhưng các bậc Hiền trí biết rõ, nữ giới không đáng bị chỉ trích đâu.

Rồi ngài giải thích qua các vần kệ:

119. Bậc Trí nhìn chân lý rõ ràng,

Còn ai khiển trách, dám phê bình?

Nữ nhân sinh ở trong trần thế,

Để hưởng đặc quyền với đại danh.

120. Nhi nữ sinh ra để cợt đùa,

Tình yêu lạc thú được ban cho,

Hạt mầm nảy nở trong nhi nữ,

Nguồn gốc đời ta được hộ phò,

Từ đó nam nhân bừng nhịp thở,

Khó lòng khinh thị phái quần thoa.

121. Riêng khanh, Sumukha có tinh thông,

Cung cách dung nghi giới má hồng,

Xúc động hãi kinh, khanh có thấy,

Trí này sáng suốt muộn màng không?

122. Khi một nam nhân gặp bất an,

Giữa tai biến chịu đựng can cường,

Trong cơn khủng hoảng, bao Hiền trí,

Cố sức cho ta được thoát nàn.

123. Quân vương muốn gặp bậc anh hùng,

Để có người khuyên nhủ hộ phòng,

Chống nỗi kinh hoàng do nghịch cảnh,

Giãi bày thích đáng cứu nguy vong.

124. Ta mong đầu bếp của hoàng gia,

Đừng nướng thân ta đã xác xơ,

Như trái cây tre thường giết mẹ,

Bộ lông vàng cũng giết đời ta.

125. Tự do, khanh chẳng muốn bay đi,

Tự nguyện giam cầm để cứu nguy,

Giờ phút hiểm nghèo, đừng nói nữa,

Hãy hoàn thành sứ mạng nam nhi!

Bằng cách tán tụng nữ giới, Bồ-tát đã làm cho Sumukha phải im lặng, nhưng khi thấy vị ấy buồn bực như vậy, ngài muốn hòa giải với bạn liền ngâm kệ này:

126. Gắng sức làm sao thật đúng thời,

Với công bằng biện hộ như lời,

Anh hùng hành động, xin hiền hữu,

Đem lại cho ta cả cuộc đời.

Lúc ấy, Sumukha suy nghĩ: “Ngài hết sức kinh hãi vì sợ chết, ngài không biết uy lực của ta. Sau khi yết kiến vua xứ Ba-la-nại và đàm đạo đôi điều với vua, ta sẽ biết cách hành động. Lúc này ta muốn an ủi đại vương của ta.” Rồi vị ấy ngâm vần kệ:

127. Nga vương cao quý, chớ kinh hoàng,

Kinh hãi chẳng là cách đại vương,

Với lẽ công bằng, thần nỗ lực,

Khẩn cầu với lý luận khôn ngoan,

Bằng hành động hết lòng can đảm,

Lần nữa chúa công được thoát nàn.

Trong lúc hai vị đang nói chuyện với nhau bằng tiếng chim như vậy, người bẫy chim chẳng hiểu lời nào chim nói cả, cứ mang đôi chim trên đôi gánh đi vào thành Ba-la-nại. Gã được một đám đông theo sau vì tràn đầy thích thú, kinh ngạc trước cảnh kỳ dị kia, họ đưa hai tay lên trời với dáng điệu nguyện cầu. Khi đến hoàng môn, người bẫy chim nhờ trình vua về việc gã đến chầu.

***

Bậc Đạo sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

128. Người săn chim đến cổng hoàng gia,

Tiến lại gần cùng gánh nặng kia:

“Trình tấu Đại vương, thần yết kiến,

Thưa rằng đây chính hiệu kim nga.”

Người canh cổng đi vào trình vua là y đã đến. Vua vô cùng hoan hỷ, phán:

– Cho phép y vào chầu tức thì.

Rồi được triều thần vây quanh, vua ngự lên ngai vàng có lọng trắng che trên đầu, thấy Khemaka bước lên bệ với gánh nặng trên vai, vừa khi nhìn đôi thiên nga sắc vàng óng ả, vua phán:

– Ước nguyện của ta đã thành tựu.

Rồi vua truyền lệnh cho quần thần làm mọi việc xứng đáng để đền đáp lại người bẫy chim.

***

Bậc Đạo sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

129. Nhìn thấy đôi chim dáng thánh thần,

Tràn đầy quý tướng, đẹp vô ngần,

Vua Saṃyama ấy liền lên tiếng,

Cùng với lời trao các cận thần:

130. “Ban gã săn chim thức uống ăn,

Loại mềm, y phục đẹp oai hùng,

Vàng ròng cả khối màu hồng đỏ,

Ban thật nhiều như dạ ước mong.”

Lòng vô cùng hân hoan, vua muốn bày tỏ nỗi thích thú của mình liền phán:

– Hãy đi trang điểm cho người bẫy chim rồi đưa y đến đây!

Thế là các triều thần đưa người bẫy chim ra khỏi cung, tỉa râu tóc cho y. Sau khi y đã tắm rửa, thoa dầu thơm và mặc y phục lộng lẫy, họ đưa y vào yết kiến vua. Lúc đó, vua ban cho y hai thôn làng hưởng lợi tức hàng năm một trăm ngàn đồng tiền, một cỗ xe do bầy ngựa thuần chủng kéo, một ngôi nhà rộng rãi đầy đủ tiện nghi cùng đại phú quý vinh hiển. Khi nhận được đại danh vọng như vậy, người bẫy chim tâu trình để giải thích những việc y đã làm:

– Tâu Đại vương, thần không dâng Đại vương loại thiên nga bình thường đâu. Đây chính là chúa tể của cả đàn chín mươi ngàn thiên nga, mệnh danh Dhataraṭṭha và đây là đại tướng Sumukha.

Sau đó, vua hỏi:

– Này hiền hữu, làm sao khanh bắt được đôi chim ấy?

***

Bậc Đạo sư ngâm kệ giải thích vấn đề:

131. Đại vương nhìn thấy kẻ đi săn,

Đẹp ý hân hoan mới phán rằng:

“Hồ ấy, Khema, đàn ngỗng đến,

Hàng ngàn con để kiếm đồ ăn.

132. Giữa cả đàn chim một giống dòng,

Làm sao khanh cố sức thi công,

Chọn ra chim chúa này kiều diễm,

Và bắt thiên nga vẫn sống còn?”

Người săn chim đáp lời vua:

133. Bảy ngày ròng rã, dạ âu lo,

Thần đã hoài công đánh dấu hồ,

Tìm vết thiên nga này tuyệt đẹp,

Ẩn mình trong một cái lu to.

134. Hôm nay thần thấy bãi chim ăn,

Mà chính thiên nga đã đến gần,

Lập tức chỗ kia thần đặt bẫy,

Thiên nga phút chốc bị sa chân.

Khi nghe vậy, vua suy nghĩ: “Kẻ này lúc đứng ở cổng chỉ kể chuyện chim chúa Dhataraṭṭha bay đến, và bây giờ y cũng chỉ nói về chim này thôi. Thế việc này có ý nghĩa gì?” và vua ngâm vần kệ:

135. Thợ săn trình chỉ một chim thôi,

Nhưng trẫm thấy đầy đủ cả đôi,

Nhầm lẫn gì chăng, khanh đến tặng,

Trẫm đây thêm một chú chim trời?

Lúc ấy, người bẫy chim đáp:

– Tâu Đại vương, không có gì thay đổi trong ý định của thần và thần cũng không muốn dâng thiên nga thứ hai này cho ai cả. Hơn nữa, thần chỉ bắt được một con trong bầy thôi.

Rồi y nói tiếp để giải thích:

136. Thiên nga có những sọc vàng hồng,

Tất cả đều vòng xuống dưới thân,

Đã bị bắt vào trong chiếc bẫy,

Thần dâng đây đúng lệnh Minh quân.

137. Chim tuyệt đẹp này được tự do,

Vẫn ngồi bên cạnh bạn sa cơ,

Dùng lời lẽ thế nhân êm dịu,

Cố sức làm cho bạn khỏi lo.

Theo cách này y tuyên dương đức hạnh của Sumukha:

– Ngay khi biết thiên nga Dhataraṭṭha bị bắt, chim ấy ở lại an ủi bạn và khi thần đến gần, nó liền bay đến gặp thần, đứng giữa không gian vừa đàm luận vui vẻ với thần bằng tiếng người và nói rõ mọi đức hạnh của chim chúa Dhataraṭṭha. Và sau khi đã làm cho lòng thần dịu lại như vậy, nó liền đến đứng trước bạn mình lần nữa. Tâu Đại vương, khi nghe tài hùng biện của Sumukha, thần đã được cảm hóa và thả chim Dhataraṭṭha. Do vậy, việc thả chim Dhataraṭṭha khỏi bẫy và việc thần đến đây với đôi chim này đều nhờ công Sumukha cả.

Khi nghe vậy, vua nóng lòng nghe Sumukha thuyết giáo, và trong khi người bẫy chim vẫn đang cung kính đảnh lễ vua thì mặt trời vừa lặn, đèn đuốc được thắp sáng, một số tướng lãnh và nhiều người khác tụ họp lại. Hoàng hậu Khemā được đoàn nữ nhạc hộ tống đến ngự bên phải vua. Ngay lúc ấy vua muốn thuyết phục Sumukha cất tiếng nói liền ngâm kệ:

138. Sao ngươi im tiếng, hỡi thiên nga,

Ta đoán phải chăng bởi sợ ta,

Đến trước quân vương, ngươi diện kiến,

Mà sao chẳng thốt một lời ra?

Nghe vậy, Sumukha đáp để chứng tỏ mình không sợ gì cả:

139. Ta chẳng sợ gì, tấu Đại vương,

Khi trao lời giữa chốn triều đường,

Nếu cơ hội tốt nào đi đến,

Ta quyết sẽ không tránh luận bàn.

Nghe vậy, vua mong ước làm chim ấy nói nhiều hơn liền ngâm kệ chê bai vị tướng chim:

140. Chẳng đoàn xạ thủ mặc quân bào,

Chẳng mão, chẳng da bảo hộ nào,

Không có tùy tùng người hoặc ngựa,

Cũng không xa, pháo để theo hầu.

141. Chẳng thấy vàng đâu, chẳng thị thành,

Chẳng lâu đài tráng lệ quang vinh,

Tháp canh không có, phòng xâm phạm,

Với lũy hào bao bọc bản doanh,

Do tướng Sumukha xây dựng vậy,

Không gì đáng sợ ở bên mình.

Khi vua dùng cách này hỏi chim tại sao không kinh hãi, Sumukha liền đáp kệ:

142. Chẳng ai bảo vệ hoặc quân canh,

Chẳng muốn kim ngân hoặc thị thành,

Giữa chốn không gian, ta kiếm lối,

Vân du khắp cả cõi trời xanh.

143. Nếu ngài an trú lý như chân,

Ta ước mong tuyên thuyết, Đại vương,

Bài học giúp cho ngài lợi lạc,

Bằng lời tinh tế lại khôn ngoan.

144. Song nếu Đại vương chỉ dối gian,

Một người tâm tính thật tồi tàn,

Lời người đặt bẫy này hùng biện,

Chẳng ích gì cầu khẩn Đại vương.

Nghe vậy, vua liền đáp:

– Tại sao ngươi dám bảo trẫm lừa dối tồi tàn? Thế trẫm đã làm gì chăng?

Sumukha liền đáp:

– Vậy Đại vương hãy nghe đây!

Và chim nói như sau:

145. Nghe lời các vị Bà-la-môn,

Ngài dựng hồ lạc lẫy lừng,

Và đã truyền rao khắp thập hướng,

An toàn đây chỗ của chim muông.

146. Trong chốn hồ này thật tịnh thanh,

Các dòng nước phẳng lặng trong xanh,

Chim muông thấy thức ăn phong phú,

Sống cuộc đời an ổn trọn lành.

147. Nghe tiếng đồn này vọng thật xa,

Chúng ta thăm cảnh đẹp hoàng gia,

Than ôi! Mắc bẫy, ta tìm thấy,

Lời hứa quân vương hóa phỉnh phờ.

148. Song lời dối trá khéo bao che,

Hành động tham lam, tội lỗi kia,

Chẳng tái sinh thiên, người thế tục,

Thẳng đường địa ngục sẽ đưa về.

Như vậy, ngay giữa triều thần, chim đã làm vua phải hổ thẹn. Sau đó, vua phán:

– Này Sumukha, trẫm không bắt ngươi để giết và ăn thịt đâu, song nghe tiếng ngươi thông tuệ biết bao nên trẫm muốn tận tai nghe ngươi hùng biện đấy thôi.

Rồi vua ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

149. Sumukha, trẫm chẳng phạm sai lầm,

Trẫm chẳng bắt chim bởi dục tâm,

Đây chính nguyên nhân gây việc ấy,

Danh ngươi thông tuệ, trí cao thâm.

150. “Nơi đây chắc hẳn chúng nêu ra,

Chân thật, những lời ích lợi ta”,

Nên kẻ bẫy chim, ta hạ lệnh,

Đem ngươi về đó, hỡi thiên nga!

Nghe thế, Sumukha đáp:

– Tâu Đại vương, ngài đã hành động sai lầm.

Và chim ngâm các vần kệ sau:

151. Ta chẳng thể tuyên thuyết thật chân,

Khi ta kinh hãi chết kề gần,

Cũng không hít thở hơi từ giã,

Hấp hối phút giây của tử thần.

152. Ai muốn lấy chim để bẫy mồi,

Săn mồi bằng thú dữ tìm tòi,

Pháp sư đánh bẫy bằng bài giảng,

Kẻ ấy không sao khỏi đọa rồi.

153. Ai buông lời lẽ thật cao sang,

Dự định hành vi hạ liệt tràn,

Thì ở đời này, đời kế nữa,

Sa từ hạnh phúc đến đau buồn.

154. Đừng say sưa quá phút vinh quang,

Cũng chớ khổ đau lúc hiểm nàn,

Hãy sửa lỗi lầm thành tốt đẹp,

Hết lòng phấn đấu trước tai ương.

155. Bậc Trí đến khi cuối cuộc đời,

Đã nhìn thấy đích tử thần rồi,

Sống trên trần đúng đường chân chánh,

Theo hướng đi lên đến cõi trời.

156. Nghe những lời này, giữ chánh chân,

Mau mau giải phóng, hỡi Minh quân,

Dhataraṭṭha ấy là chim chúa,

Tuyệt thế thiên nga giữa cả đàn.

Nghe vậy, vua phán:

157. Mau hãy đi tìm nước rửa chân,

Đem vào đây cả chiếc kim đôn,

Hãy nhìn trẫm thả từ lồng ấy,

Tối thượng thiên nga ở cõi trần.

158. Cùng bậc anh hùng đại tướng quân,

Thật là tài giỏi lại tinh thông,

Dầu khi hoạn nạn hay vinh hiển,

Đều dạy thiết thân với chúa công.

159. Bậc chân chánh ấy xứng uy danh,

Theo bước chúa công suốt lộ trình,

Vì đã sẵn sàng trang bị đủ,

Với vua chia sẻ tử cùng sinh.

Nghe lời vua phán, quan hầu đem bảo tòa đến mời đôi chim. Hai vị đậu ở đó rửa chân với nước hoa và thoa dầu thơm đã được lọc cả trăm lần.

***

Bậc Đạo sư ngâm kệ giải thích vấn đề:

160. Chim chúa ngự trên một chiếc ngai,

Tám chân ngời chói, đặc vàng thoi,

Bên ngoài có lụa Kāsi phủ,

Quang cảnh này trông thật tuyệt vời.

161. Sumukha ngồi bên cạnh điểu vương,

Tướng công trung tín lại can cường,

Ở trên bảo tòa trùm da hổ,

Tất cả đều nguyên cả khối vàng.

162. Nhiều chúa Kāsi đựng chén vàng

Chọn đầy thực phẩm đủ cao lương,

Mang vào mời cặp thiên nga ấy,

Tặng vật cúng dâng của Đại vương.

Khi thực phẩm được đem thiết đãi hai vị như thế, vua xứ Kāsi muốn đích thân đón tiếp hai vị liền tự tay lấy chén vàng mời khách. Hai vị thưởng thức mật ong, gạo rang và uống rượu đường. Sau đó, Bồ-tát nhận thấy cung cách vua thiết đãi thật ân cần như vậy liền đàm đạo thân mật với vua.

***

Bậc Đạo sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

163. Nghĩ thầm lễ vật thật cao sang,

Chúa tể Kāsi đã cúng dường?

Thông hiểu triều nghi nên ngỗng chúa,

Như vầy cất tiếng hỏi quân vương.

[Thiên nga:]

164. Đại vương, ngọc thể có khang an,

Vạn sự Đại vương thảy vẹn toàn,

Quý quốc hẳn là đang thịnh vượng,

Được ngài cai trị thật công bằng?

[Quân vương:]

165. Nga vương, trẫm vẫn được khang an,

Vạn sự trẫm đây được vẹn toàn,

Bổn quốc hiện giờ rất thịnh vượng,

Hưởng nền cai trị thật công bằng.

[Thiên nga:]

166. Ngài có triều thần thật chánh chân,

Biết khuyên nhủ chúa chẳng sai lầm,

Nếu cần, họ sẵn sàng liều chết,

Vì chánh nghĩa và danh Chúa công?

[Quân vương:]

167. Trẫm có triều thần thật chánh chân,

Biết khuyên nhủ trẫm chẳng sai lầm,

Nếu cần, họ sẵn sàng liều chết,

Vì chánh nghĩa và danh quả nhân.

[Thiên nga:]

168. Phải chăng hoàng hậu cũng chung dòng,

Lời lẽ ôn nhu, biết phục tòng,

Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,

Vâng chiều mọi thánh ý Minh quân?

[Quân vương:]

169. Trẫm nay có chánh hậu chung dòng,

Lời lẽ ôn nhu biết phục tòng,

Diễm lệ, nhiều con, danh tiếng tốt,

Vâng chiều mọi ý trẫm cầu mong.

[Thiên nga:]

170. Và nay quốc độ lạc an chăng,

Thoát được bao đàn áp bạo tàn,

Chẳng chịu độc tài chuyên chế trị,

Hưởng nền cai trị thật công bằng?

[Quân vương:]

171. Ngày nay vương quốc trẫm bình an,

Thoát được bao đàn áp bạo tàn,

Chẳng chịu độc tài chuyên chế trị,

Hưởng nền cai trị thật công bằng.

[Thiên nga:]

172. Có xua ác đảng khỏi giang san,

Đưa các thiện nhân đến vẻ vang?

Ngài có tránh xa điều chánh trực,

Hoặc theo đường lối bọn tà gian?

[Quân vương:]

173. Trẫm xua ác đảng khỏi giang san,

Đưa các thiện nhân đến vẻ vang;

Trẫm quyết tránh xa bao ác hạnh,

Và theo đường lối bậc Hiền lương.

[Thiên nga:]

174. Đại vương có thấy quãng đời mình,

Đã vụt trôi qua thật quá nhanh,

Hay mãi say sưa vì vọng tưởng,

Nhìn thấy đời sau chẳng hãi kinh?

[Quân vương:]

175. Thiên nga, trẫm thấy quãng đời mình,

Đã vụt trôi qua thật quá nhanh,

Nên vẫn hành trì mười giới hạnh,

Chẳng hề kinh hãi cõi lai sinh.

176. Bố thí, ăn năn, trí chánh chân,

Ôn nhu, hiền dịu, chuộng bình an,

Từ bi, nhẫn nhục, đầy thân ái,

Đạo đức không ô nhiễm bụi trần.

177. Những điều đức hạnh tận tâm can,

Vững chắc vươn lên thấy rõ ràng,

Từ đó nảy sinh nguồn hạnh phúc

Hân hoan cho trẫm, quý muôn vàn.

178. Song dù Sumukha chẳng hề hay,

Tội ác trẫm đâu có phạm này,

Vẫn cứ vô tình tuôn xối xả,

Những lời thô lỗ, giọng nồng cay.

179. Ta chẳng biết chi các việc này,

Chim kia đổ trách nhiệm lầm đây,

Nói năng thô lỗ nên ta nghĩ,

Trí tuệ yếu non đã hiển bày.

Khi nghe vậy, Sumukha suy nghĩ: “Vị vua đức hạnh này đang phẫn nộ vì ta đã khiển trách ngài. Rồi ta sẽ xin ngài tha thứ.’’ Rồi chim ấy ngâm kệ:

180. Thần đã lỗi lầm với Đại vương,

Nói năng bừa bãi, thật điên cuồng,

Song khi chim chúa này lâm nạn,

Lòng của hạ thần tựa nát tan.

181. Như đất chứa đầy mọi chúng sinh,

Như người cha đối với con mình,

Đại vương, xin rộng lòng tha thứ,

Lỗi chúng thần đây phạm đã đành.

Lúc ấy, vua liền nâng chim lên ôm vào lòng và đặt chim trên một kim đôn. Vua chấp nhận lời thú nhận lỗi lầm kia và phán:

182. Trẫm cám ơn Sumukha tướng quân,

Khanh không hề giấu tính chơn thuần,

Khanh làm nhụt chí ta cương quyết,

Trẫm thấy khanh cương trực, thật chân.

Cùng với những lời này, vua hết sức hoan hỷ về bài thuyết pháp của Bồ-tát và lời lẽ cương trực của Sumukha liền suy nghĩ: “Khi ta hoan hỷ, ta phải hành động để bày tỏ niềm hoan hỷ của ta.” Rồi muốn nhường cảnh vinh hiển của mình cho đôi chim, vua phán:

183. Những gì châu báu với kim ngân,

Bảo vật, ngọc trai, hoặc ngọc hồng,

Ở tại Kāsi thành của trẫm,

Trữ trong kho báu chốn hoàng cung.

184. Đồng, sắt, vỏ sò với ngọc trai,

Bảo châu vô số, đám ngà voi,

Gỗ chiên-đàn quý màu vàng ánh,

Y phục cao sang, da hổ, nai,

Tất cả kho tàng, quyền trị nước,

Trẫm xin ban tặng hết cho ngài.

Cùng với những lời trên, vua làm vinh dự đôi chim bằng chiếc lọng trắng và trao vương quốc cho đôi chim. Sau đó, Bồ-tát ngâm kệ đàm đạo với vua:

185. Ngài muốn làm vinh dự chúng thần,

Xin hãy vui lòng, tấu Đại quân,

Làm đạo sư cho thần học hỏi,

Mười điều vương pháp để an dân.

186. Rồi nếu chúng thần được Đại vương,

Chuẩn phê đồng ý, lạc an tràn,

Chúng thần xin phép ngài từ biệt,

Và trở về thăm viếng họ hàng.

Vua cho phép đôi chim ra đi và trong khi Bồ-tát còn đang thuyết pháp, mặt trời đã mọc.

***

Bậc Đạo sư ngâm kệ giải thích vấn đề:

187. Kāsi chúa tể suốt đêm thâu,

Chìm đắm trong tư tưởng thật sâu,

Sau đó vua bằng lòng chấp thuận,

Theo lời vương điểu ấy yêu cầu.

Khi đã được vua cho phép từ giã, Bồ-tát lại nói:

– Xin Đại vương tỉnh giác và trị nước chân chánh.

Và ngài an trú vua vào ngũ giới. Vua ban hai vị bắp rang với mật ong và nước đường trong đĩa vàng. Khi hai vị đã dùng bữa ăn xong, vua cung kính dâng hai vị các hoa thơm và nhiều lễ vật khác, rồi tự tay nâng Bồ-tát lên trong chiếc lồng vàng và Hoàng hậu Khemā nâng Sumukha lên. Khi mặt trời mới mọc, vua và hoàng hậu mở cửa sổ và nói:

– Xin các Tôn giả hãy ra đi!

Rồi hai vị tháo lồng thả đôi chim ra.

***

Bậc Đạo sư ngâm vần kệ giải thích vấn đề:

188. Cũng vừa lúc ấy mặt trời lên,

Ngày tỏa sáng dần mất bóng đêm,

Phút chốc đôi chim vừa khuất bóng,

Trong vùng sâu thẳm của thanh thiên.

Bồ-tát là một trong đôi chim bay ra khỏi lồng vàng đứng trên không và bảo:

– Xin Đại vương chớ lo âu, phải luôn tỉnh giác và an trú vào giáo pháp của ta!

Ngài an ủi vua như vậy rồi cùng Sumukha bay về thẳng đỉnh Cittakūṭa. Chín mươi ngàn thiên nga kia cất cánh bay ra khỏi Kim động, tụ tập trên cao nguyên và khi thấy hai vị đến, chúng ra nghênh tiếp và hộ tống hai vị về nhà. Như vậy, hai vị được cả đàn chim quyến thuộc đưa về tận cao nguyên Cittakūṭa.

Bậc Đạo sư ngâm vần kệ làm sáng tỏ vấn đề:

189. Nhìn chủ tướng chim được vạn an,

Trở về từ cõi chết nhân gian,

Đàn chim vỗ cánh kêu ầm ĩ,

Chào đón chúa chim lại họp đàn.

190. Vây quanh chúa tể chúng tôn sùng,

Tin tưởng, giờ đây đàn ngỗng hồng,

Kính cẩn nghiêng mình chào chúa tể,

Hân hoan vì chúa được an thân.

Trong khi hộ tống chúa chim, bầy thiên nga hỏi ngài:

– Tâu Đại vương, làm thế nào ngài thoát nạn?

Bồ-tát kể cho chúng nghe ngài thoát nạn nhờ Sumukha giúp đỡ và các hành động của Vua Saṃyama cùng triều thần.

Nghe vậy, bầy thiên nga hân hoan ca ngợi các vị:

– Vạn tuế đại tướng Sumukha của chúng ta! Vạn tuế Đại vương và người bẫy chim! Cầu mong các vị được hạnh phúc và thoát khỏi khổ đau!

Bậc Đạo sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:

191. Ai có từ tâm ắt đạt thành,

Việc gì các vị ấy thi hành,

Như thiên nga trở về bằng hữu,

Lần nữa, đôi chim được trọn lành.

Chuyện này đã được kể đầy đủ trong Chuyện tiểu thiên nga.[8]

***

Đến đây, bậc Đạo sư chấm dứt pháp thoại và nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy, người bẫy chim là Channa (Xa-nặc), Hoàng hậu Khemā là Tỷ-kheo-ni Khemā (Thái Hòa), vua là Sāriputta (Xá-lợi-phất), Sumukha là Ānanda (A-nan), đoàn tùy tùng của vua là các đệ tử Như Lai và chúa thiên nga Dhataraṭṭha chính là Ta.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.