Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »
Kinh Tiểu Bộ Quyển 3
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch
§532. CHUYỆN HAI HIỀN GIẢ SONA VÀ NANDA (Sona-Nanda-jātaka)[3] (J. V. 312)
Phải ngài là nhạc thần, thiên nam...
Chuyện này do bậc Đạo sư kể trong lúc đang trú tại Kỳ Viên về một Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ mình. Chuyện này cũng tương tự như trong Chuyện hiếu tử Sāma.[4] Nhưng vào dịp này, bậc Đạo sư bảo:
– Này các Tỷ-kheo, chớ xúc phạm Tỷ-kheo này. Các bậc Hiền trí thời xưa, dù được thỉnh cầu thống trị toàn cõi Diêm-phù-đề cũng đã từ chối việc ấy và phụng dưỡng song thân.
Nói vậy xong, Ngài kể một chuyện quá khứ.
***
Ngày xưa, thành Ba-la-nại được mệnh danh là Brahmavaddhana. Thời ấy, Vua Manoja[5] trị vì ở đó, có một Bà-la-môn có thế lực và giàu sang với tài sản lên đến tám trăm triệu đồng nhưng không có con thừa kế. Bà vợ của Bà-la-môn ấy vâng lời chồng đi cầu tự.
Lúc ấy, Bồ-tát từ giã Phạm thiên giới và nhập mẫu thai bà, khi sinh ra đời, ngài được gọi tên là Sona. Vào thời ấu nhi, khi ngài biết đi, một vị thiên tử khác từ giã Phạm thiên giới và cũng nhập mẫu thai bà. Lúc ra đời, vị ấy được gọi là Nanda. Ngay khi hai vị nam tử đã trưởng thành, được dạy đủ các thánh điển Vệ-đà và thông thạo mọi môn học thuật, vị Bà-la-môn nhìn thấy hai con trai mình đầy đủ hảo tướng liền bảo vợ:
– Này phu nhân, chúng ta cần sắp đặt việc hôn nhân cho nam tử Sona.
Bà vợ chấp thuận ngay và thông báo việc này cho con trai. Chàng đáp:
– Con sống đời gia đình thế này là vừa đủ rồi. Bao lâu cha mẹ còn sống, con muốn phụng dưỡng cha mẹ, đ?n khi cha m? qua ??i, con mu?n lui v? v?ng ến khi cha mẹ qua đời, con muốn lui về vùng Tuyết Sơn và thành người tu khổ hạnh.
Bà mẹ kể chuyện này với vị Bà-la-môn và khi họ nhắc đi nhắc lại nhiều lần nhưng không thuyết phục được con liền bảo Nanda:
– Này con yêu, con hãy yên bề gia thất!
Chàng đáp:
– Con không muốn lượm những vật mà anh con đã vứt bỏ như thể một cục đờm. Con cũng nguyện khi cha mẹ từ trần, con cùng anh con gia nhập hội chúng khổ hạnh.
Song thân suy nghĩ: “Nếu các con ta dù còn thanh xuân đã từ bỏ mọi dục lạc thân xác thì chúng ta lại càng phải sống đời khổ hạnh.” Và hai vị bảo:
– Này con yêu, sao con lại nói chuyện làm người tu khổ hạnh sau khi cha mẹ qua đời? Cả nhà ta đều muốn cùng phát nguyện xuất gia.
Khi trình vua về mục đích của mình, họ quyết định phân phát tất cả tài sản theo cách bố thí, giải phóng các gia nhân, nô tỳ và đem tặng những tài sản xứng đáng thích hợp cho thân quyến; rồi sau đó cả bốn vị khởi hành đi từ kinh thành Brahmavaddhana đến lập thảo am ở vùng Tuyết Sơn, trong một khu rừng đầy an lạc, cạnh một hồ nước được phủ năm loại sen và sống đời khổ hạnh.
Hai anh em cùng săn sóc cha mẹ. Từ sáng sớm, hai vị đưa tăm xỉa răng và nước súc miệng cho song thân. Hai vị lại quét dọn am thất, đem nước uống, dâu rừng ngọt ngon để cha mẹ ăn, nước nóng, nước lạnh để tắm, kết tóc cha mẹ thành từng búi, thoa dầu thơm vào chân cùng phục vụ mọi việc tương tự. Thời gian cứ trôi qua như thế, Trí giả Nanda suy nghĩ: “Ta sẽ dâng đầy đủ mọi loại trái cây làm thức ăn cho cha mẹ.” Thế là bất cứ loại trái cây nào hái được tại chỗ ấy ngày hôm trước và hôm trước đó nữa, vị ấy đều đem dâng cha mẹ vào sáng sớm hôm sau. Hai vị dùng trái cây xong liền súc miệng và giữ giới kiêng ăn.
Còn Trí giả Sona đi thật xa để hái trái chín ngọt về dâng lên cha mẹ. Hai vị liền bảo:
– Này con yêu, chúng ta đã ăn từ sáng các thứ em con mang về và bây giờ chúng ta đang kiêng ăn nên không cần thứ trái cây này nữa.
Vì thế các thứ trái cây của ngài không được dùng và phải bỏ phí cả. Ngày hôm sau và sau đó nữa cũng vậy. Do đó, ngài đã dùng năm thắng trí đi thật xa để đem trái cây về nhưng song thân cũng không ăn. Sau đó, bậc Đại sĩ suy nghĩ: “Cha mẹ ta giờ đây rất yếu ớt và Nanda lại đem về toàn trái cây chưa chín hoặc mới chín cho cha mẹ ăn. Nếu thế này mãi, cha mẹ sẽ không sống lâu. Ta quyết ngăn cản em ta làm việc này.” Vì vậy, ngài bảo em:
– Này Nanda, từ nay về sau, khi em đem trái cây, em phải đợi đến lúc ta về và hai chúng ta đều dâng cha mẹ các thức ăn cùng một lần.
Mặc dù đã được bảo vậy, Nanda vẫn muốn làm công đức riêng một mình nên không quan tâm lời anh dặn. Bậc Đại sĩ suy nghĩ: “Nanda hành động không đúng khi bất tuân lời ta. Ta muốn đuổi nó đi xa.”
Rồi nghĩ rằng tự ngài muốn chăm sóc cha mẹ, ngài bảo:
– Này Nanda, em đã bỏ qua lời răn dạy và không lưu tâm đến lời nói của bậc Trí. Ta là huynh trưởng, cha mẹ thuộc về trách nhiệm của ta. Ta muốn chỉ mình ta săn sóc cha mẹ. Em không thể ở đây được nữa. Hãy đi nơi khác!
Rồi ngài búng các ngón tay vào mặt em. Sau khi bị đuổi như vậy, Nanda không thể nào ở lại trước mặt anh nữa liền đến từ giã cha mẹ và thưa hết mọi việc xảy ra. Sau đó lui về am thất riêng, ông chú tâm thiền định và ngay hôm ấy, ông phát khởi năm thắng trí và tám thiền chứng. Ông suy nghĩ: “Ta có thể đi tìm loại cát quý từ chân núi Sineru (Tu-di) về rải khắp thảo am của anh ta và xin anh ta thứ lỗi. Nếu anh ta chưa hồi tâm, ta sẽ đi tìm nước hồ Anotatta về xin anh ta thứ lỗi. Nếu anh ta cũng chưa hồi tâm bằng cách ấy, giả sử vì chư thiên, anh ta không tha thứ cho ta thì ta sẽ đem Tứ Thiên Vương và Thiên chủ Sakka ra xin anh ta thứ lỗi. Và nếu anh ta cũng chưa hồi tâm, ta sẽ mang vị Đại đế Manoja của toàn cõi Diêm-phù-đề cùng các vương hầu khác ra xin anh ta thứ lỗi. Làm như vậy, danh tiếng về đức hạnh của anh ta sẽ vang dậy khắp cả Diêm-phù-đề và sẽ sáng ngời ở mọi nơi như đôi vầng nhật nguyệt.”
Lúc bấy giờ, nhờ thần lực, ông bay xuống kinh thành Brahmavaddhana đến trước cửa cung của vua và dâng sớ lên tâu vua:
– Có một vị khổ hạnh muốn yết kiến Đại vương.
Vua phán:
– Một vị khổ hạnh muốn gặp ta làm gì chứ? Chắc vị ấy đến khất thực.
Vua truyền bảo đem cơm cho ông, nhưng ông không dùng chút nào. Rồi vua bảo cho gạo, y phục và các loại củ, khoai môn, nhưng ông cũng không muốn gì cả. Cuối cùng vua gửi một sứ giả đi hỏi tại sao ông đến, ông nói với sứ giả:
– Bần đạo đến để hầu hạ đức vua.
Khi nghe vậy, vua gửi lời nhắn lại:
– Ta thiếu gì nô tỳ, bảo vị ấy hãy làm phận sự của một ẩn sĩ khổ hạnh!
Nghe vậy, ông nói:
– Nhờ thần lực riêng, bần đạo sẽ được quyền thống trị toàn cõi Diêm-phù-đề, xin dâng tất cả lên đại vương của các vị.
Vua nghe vậy liền suy nghĩ: “Quả thật các vị khổ hạnh rất thông thái. Chắc chắn các vị ấy biết được vài mưu thần.” Sau đó vua triệu ông vào yết kiến, mời ông ngồi lên bảo tọa, kính lễ và hỏi:
– Thưa Thánh giả, chúng tâu với trẫm rằng ngài sẽ được quyền thống trị toàn cõi Diêm-phù-đề và muốn ban quyền ấy cho trẫm phải chăng?
– Tâu Đại vương, thật vậy.
– Làm thế nào Thánh giả đạt được việc ấy?
– Tâu Đại vương, không cần đổ một giọt máu của người nào cả, dầu là một giọt vừa đủ cho con ruồi tí hon hút được, cũng không cần tiêu phí kho báu của Đại vương; chỉ cần nhờ thần lực của riêng mình, bần đạo sẽ chiếm quyền thống trị và dâng hết lên Đại vương. Chỉ cần ngay lập tức không chút trì hoãn, Đại vương phải khởi hành ngay hôm nay.
Vua tin lời ấy và khởi hành ngay với một đạo quân hộ tống. Nếu đạo quân gặp trời nóng, Trí giả Nanda dùng thần lực tạo bóng cây khiến cho trời mát. Nếu trời mưa, ông không để cho mưa rơi xuống đạo quân. Ông ngăn cản luồng gió oi nồng. Ông phá bỏ gai góc trên đường đi cùng các thứ hiểm nguy khác. Ông làm cho con đường bằng phẳng như vòng tròn dùng trong pháp môn thiền định đề mục biến xứ, rồi trải một tấm da, ông ngồi kiết-già trên không và cứ thế tiến dần về phía trước đạo quân.
Theo cách này, trước tiên ông cùng đạo quân trên đến vương quốc Kosala, đóng trại gần kinh thành, gửi sớ lên vua xứ Kosala, bảo hoặc tham chiến hoặc đầu hàng trước uy lực của ông. Vua nổi trận lôi đình, quát:
– Thế thì trẫm không phải là quốc vương hay sao? Trẫm sẽ chinh phạt các ngươi!
Vua dẫn đầu bốn đạo quân và hai phe lâm trận. Trí giả Nanda trải tấm da hươu ra ngồi giữa hai đạo quân, dùng tấm da bắt hết mọi mũi tên do hai phe chiến đấu bắn ra nên không có một ai trong đạo quân nào bị thương vì trúng tên cả. Đến khi tất cả số tên của họ đều dùng hết, hai đạo quân đứng ngẩn ngơ không còn biết nương tựa vào đâu nữa.
Rồi Trí giả Nanda đến yết kiến vua xứ Kosala và trấn an vua:
– Tâu Đại vương, xin đừng lo âu tuyệt vọng, không có nguy cơ nào đe dọa Đại vương cả! Vương quốc vẫn thuộc về Đại vương, chỉ cần Đại vương thần phục Vua Manoja thôi.
Vua tin lời ông nói và thỏa thuận điều ấy. Sau đó, dẫn vua ấy đến yết kiến Vua Manoja, ông thưa:
– Tâu Đại vương, quốc vương xứ Kosala xin thần phục Đại vương. Hãy để yên quốc độ ấy như cũ!
Vua Manoja sẵn sàng chấp thuận và nhận sự quy phục ấy. Vua cùng hai đạo quân tiến đến quốc độ Aṅga và chiếm Aṅga, sau đó chiếm quốc độ có tên Magadha, và nhờ các phương cách này, vua trở thành bá chủ của mọi vương quốc trên toàn cõi Diêm-phù-đề, rồi được chư hầu hộ tống đi thẳng đến thành Brahmavaddhana.
Bấy giờ, vua chiếm được mọi quốc độ từ các vua này trong bảy năm, bảy tháng, bảy ngày. Từ mỗi kinh thành, vua truyền đem đủ thức ăn loại cứng, loại mềm và mời một trăm lẻ một quốc vương nâng chén rượu khải hoàn suốt bảy ngày đại lễ hội. Trí giả Nanda suy nghĩ: “Ta không muốn xuất hiện trước mặt vua cho đến khi ngài đã hưởng mọi lạc thú của vương quyền thống trị trong bảy ngày.” Rồi khi đi khất thực trong xứ Bắc Kuru, ông an trú suốt bảy ngày ở Tuyết Sơn, ngay cửa vào Kim động.
Phần Hoàng đế Manoja, vào ngày thứ bảy, sau khi ngắm cảnh đại vinh quang quyền lực của mình, tự nghĩ: “Cảnh huy hoàng này không phải do cha mẹ ta hay người khác trao tặng mà nó xuất phát từ ẩn sĩ Nanda. Và rõ ràng đã bảy ngày trôi qua từ khi ta thấy ngài, không biết nay vị Hiền hữu đã ban cho ta cảnh huy hoàng này đang ở đâu trên đời này?” Và vua nhớ đến Trí giả Nanda.
Còn Trí giả Nanda khi biết vua đang nhớ đến mình liền xuất hiện trước vua trên không. Vua suy nghĩ: “Ta không biết vị khổ hạnh này là người phàm hay thần thánh. Nếu là người phàm, ta sẽ dâng ngài quyền thống trị khắp cõi Diêm-phù-đề. Còn nếu ngài là thần thánh, ta sẽ bày tỏ lòng tôn kính xứng đáng với ngài.” Và để thử vị ấy, vua ngâm vần kệ đầu:
92. Phải ngài là nhạc thần, thiên nam,
Hay ngẫu nhiên ta gặp Ngọc hoàng,
Hoặc một người thần thông quảng đại,
Ngự bao thành, cúng dường, ban tặng,
Nay ta ao ước ngài cho biết,
Quý tánh phương danh thật rõ ràng.
Nghe lời của vua, Trí giả Nanda ngâm vần kệ thứ hai nêu rõ thân thế mình:
93. Ta chẳng thiên nam, hoặc nhạc thần,
Cũng không Thiên chủ hoặc Quân vương,
Ta là người đủ thần thông lực,
Sự thật nay ta đã tỏ tường.
Vua nghe vậy, nghĩ thầm: “Ngài bảo ngài là một con người, như vậy ngài đã làm nhiều công đức cho ta lắm. Ta sẽ bày tỏ sự tôn kính tối cao với ngài để ngài đẹp ý.” Và vua đáp lời:
94. Công đức ngài ban bố chúng tôi,
Làm sao nói hết được nên lời,
Giữa dòng mưa lũ tuôn ồ ạt,
Chẳng có trên đầu một giọt rơi.
95. Bóng mát ngài làm cho chúng ta,
Khi luồng gió đốt cháy bay qua,
Khỏi làn tên ác, ngài bao phủ,
Giữa biết bao cừu địch quốc gia.
96. Thật nhiều quốc độ, lạc an tràn,
Ngài bảo tôn ta Đại đế vương,
Hơn cả một trăm vị lãnh chúa,
Trở thành tuân phục lệnh ta ban.
97. Những gì ngài chọn giữa kho tàng,
Hoan hỷ ta trao nhượng sẵn sàng,
Xe thắng đàn voi hay tuấn mã,
Cung tần xiêm áo đẹp trang hoàng,
Vương cung mỹ lệ nào ngài thích,
Đều sẽ trở thành của đại nhân.
98. Nếu muốn ngự cung Magadha,
Hoặc là quốc độ xứ Aṅga,
Avanti, trẫm vui lòng nhượng,
Hoặc đến trị dân Assaka.
99. Dẫu ngài muốn một nửa giang sơn,
Trẫm nhượng với tâm hỷ lạc tràn,
Chỉ nói một lời điều ước muốn,
Tức thì vật ấy của hiền nhơn.
Nghe vậy, Trí giả Nanda ngâm vần kệ giải thích ước nguyện của mình:
100. Vương quốc ta nào có ước ao,
Kinh thành, lãnh địa chẳng mong cầu,
Cũng không tìm kiếm nhiều tài sản,
Từ chính bàn tay Đại đế đâu.
Vị ấy nói tiếp:
– Nhưng nếu Đại vương có lòng ưu ái ta, xin hãy làm theo lời thỉnh cầu của ta về việc duy nhất này:
101-02. Dưới quyền ngài, ngụ lão song thân,
Hưởng cảnh am tranh ở núi rừng,
Ta chẳng được làm gì phước đức,
Với song thân ấy, lão Hiền nhân,
Nếu ngài nói hộ điều ta muốn,
Hiền giả Sona hết hận sân.
Vua liền bảo vị ấy:
103. Hoan hỷ ta xin sẽ vẹn tròn,
Lệnh ngài, hỡi vị Bà-la-môn,
Song ai là kẻ ta cần chọn,
Để tiến hành ngay lệnh đại nhơn?
Hiền giả Nanda đáp:
104. Hơn trăm phú hộ, Bà-la-môn,
Võ tướng oai quyền, danh vọng vang,
Đại đế Manoja, đủ số,
Làm ta thỏa nguyện ước hoàn toàn.
Vua lại bảo:
105. Thắng ngay tượng, mã vào vương xa,
Từ trụ, càng xe, vẫy ngọn cờ,
Theo gió ta đi tìm ẩn sĩ,
Trú nơi xa vắng, Kosiya.
106. Hộ giá theo hầu, bốn đạo binh,
Đại vương tiến bước để đăng trình,
Đi tìm chốn thảo am tươi đẹp,
Ẩn sĩ trú an với hạnh lành.
Các vần kệ này là của bậc Giác Ngộ.
Bấy giờ, vào ngày ấy, vua đến vùng thảo am, Trí giả Sona suy nghĩ: “Đã hơn bảy năm, bảy tháng, bảy ngày kể từ lúc tiểu đệ ta ra đi khỏi nhà. Không biết bây giờ em ta đang ở đâu?” Rồi dùng thiên nhãn, ngài nhìn thấy em liền nghĩ thầm: “Em ta đang đến đây với một trăm lẻ một vị vua và một đoàn hộ tống gồm hai mươi bốn đạo quân để xin ta thứ lỗi. Các vua này cùng đoàn tùy tùng đã chứng kiến nhiều thần thông do em ta biến hóa, và vì không biết gì về thần lực của ta nên họ bảo: ‘Vị ẩn sĩ giả mạo này quá tự cao về thần lực của mình và tự sánh mình với vị chúa tể của chúng ta.’ Do lời kiêu mạn này, họ sẽ đọa vào địa ngục. Vậy ta sẽ cho họ xem một điển hình về phép thần thông của ta.”
Rồi đặt đòn gánh giữa không gian, không chạm vào vai ngài một khoảng chừng bốn phân, cứ thế ngài du hành giữa khoảng không bao la, bay ngang gần vua để đi lấy nước từ hồ Anotatta.
Nhưng khi Trí giả Nanda thấy ngài đến, lại không có can đảm lộ diện mà lập tức biến mất ngay nơi vị ấy đang ngồi và ẩn mình trong vùng Tuyết Sơn. Tuy thế, khi Vua Manoja thấy Trí giả Sona đến gần trong dáng điệu uy nghi của bậc tu hành liền ngâm kệ này hỏi:
107. Ai đi tìm nước giữa không gian,
Với bước chân kia thật nhịp nhàng,
Đòn gánh cách xa chừng một tấc,
Chẳng hề đụng chạm tới mình vàng?
Khi nghe nói vậy, bậc Đại sĩ liền đáp hai vần kệ:
108. Sona đạo sĩ chẳng bao giờ,
Đi lạc ra ngoài luật ẩn cư,
Phụng dưỡng song thân ta sớm tối,
Ngày đêm không mỏi mệt, ưu tư.
109. Khoai sắn, chùm dâu, ấy thức ăn,
Trong rừng ta kiếm để đem dâng,
Đời đời ghi nhớ ơn hai vị,
Xưa đã cho ta hưởng phước phần.
Nghe lời này, vua muốn làm bạn với ngài liền ngâm vần kệ khác:
110. Ta mong đến tận chốn am tranh,
Đạo sĩ Kosiya ẩn mình,
Hiền giả Sona xin chỉ lối,
Đưa ta đến tịnh thất an lành.
Lúc ấy, bậc Đại sĩ dùng thần lực vạch ra một con đường mòn đưa đến thảo am và ngâm vần kệ này:
111. Đây lối Đại vương hãy nhớ rành,
Đằng xa khóm lá đậm màu xanh,
Giữa lùm mun mọc như rừng nhỏ,
Nơi ấy thảo am sẽ hiện hình.
112. Như vậy bậc Hiền trí đại hùng,
Chỉ đường cho các vị vương quân,
Xong ngài vội vã về am thất,
Lần nữa du hành giữa cõi không.
113. Kế đó quét xong chốn thảo am,
Đi tìm nơi ẩn dật nghiêm đường,
Ngài vừa thức lão Hiền nhân dậy,
Vừa tặng dâng cha một tọa sàng.
114. Ngài nói: “Thánh nhân sẽ đến ngay,
Con xin cha tọa lạc nơi này,
Các vua quý tộc danh lừng lẫy,
Sắp ngự giá qua giữa lối này.”
115. Như vậy sau khi vị lão niên,
Nghe con đòi hiện diện cầu xin,
Vội vàng chân bước từ am thất,
An tọa ở bên cạnh cửa tiền.
Các vần kệ này là của bậc Giác Ngộ.
Phần Trí giả Nanda đi yết kiến vua ngay khi Bồ-tát vừa về đến am thất và đem nước về từ hồ Anotatta rồi cắm trại không xa am thất ấy.
Sau đó vua tắm rửa và phục sức vô cùng lộng lẫy, được một trăm lẻ một tiểu vương hộ tống, vua cùng Trí giả Nanda bước vào am thất trong cảnh huy hoàng trọng thể và cầu khẩn Bồ-tát tha thứ cho hiền đệ của ngài. Lúc ấy phụ thân của Bồ-tát thấy vua ngự đến gần liền hỏi Bồ-tát và ngài giải thích vấn đề với cha.
***
Bậc Đạo sư ngâm kệ làm sáng tỏ việc này:
116. Thấy vua đứng đó đại vinh quang,
Được hộ tống quanh bởi tiểu vương,
Bậc lão Hiền nhân liền cất tiếng,
Hỏi thăm con trẻ chuyện trên đường:
117. “Ai đến đây trong tiếng rộn ràng,
Tù và, trống lớn nhỏ lừng vang,
Âm thanh làm các vua hoan hỷ,
Ai đến đây ca khúc khải hoàn?[6]
118. Ai đây đang đến thật huy hoàng,
Khăn quấn đầu cao dệt sợi vàng,
Như chớp sáng ngời, cung tiễn đủ,
Anh hùng trẻ tuổi thật can tràng?
119. Ai đây đang đến thật vinh quang,
Nét mặt vui tươi tỏa ánh vàng,
Như đám lửa tàn, cành phượng vĩ,
Sáng ngời đang cháy ở lò than?
120. Ai đến đây cùng chiếc lọng cao,
Được giương lên thật khéo làm sao,
Lọng che với gọng sườn tô điểm,
Xua ánh nắng gay gắt chói vào?
121. Ai kia xòe quạt để phòng thân,
Quạt kết lông đuôi trâu chúa rừng,
Như một vị Hiền nhân trí giả,
Cưỡi lưng voi nọ, dáng oai phong?
122. Ai đang đến rực rỡ, huy hoàng,
Các lọng giương cao trắng vẹn toàn,
Tuấn mã giáp bào dòng quý tộc,
Vây quanh phải trái thật hiên ngang?
123. Ai kia đang đến tận nơi đây,
Được cả hơn trăm lãnh chúa này,
Hộ tống một đoàn vua quý tộc,
Sau lưng và trước mặt như vầy?
124. Các vương xa với một đàn voi,
Bộ binh cùng với đám ngựa nòi,
Ai đến với oai nghi chiến đấu,
Bốn đoàn quân bố trận kia rồi?
125. Ai đến cùng toàn thể đạo quân,
Theo sau hộ giá nhiều vô cùng,
Không hề gián đoạn, dài vô tận,
Như sóng đại dương vỗ chập chùng?”
126. “Manoja Đại đế với Nanda,
Ngự giá đến đây viếng, hỡi cha,
Như thể Inda Thiên chủ ấy,
Đến đây thăm chốn ẩn am ta.
127. Hộ tống ngài đang đến cả đoàn,
Sẵn sàng tuân lệnh, thật hùng cường,
Không hề gián đoạn, dài vô tận,
Như sóng chập chùng giữa đại dương.”
Bậc Đạo sư lại ngâm kệ:
128. Lụa tốt cao sang, khoác cẩm bào,
Dầu trầm hương ngát điểm tô vào,
Các vua này đến gần hai vị,
Thánh giả, dáng cung kính khẩn cầu.
Sau đó Vua Manoja kính lễ xong, ngồi xuống một bên, vừa trao đổi những lời chào hỏi ân cần vừa ngâm đôi vần kệ:
129. Trẫm vẫn tin rằng các Thánh nhân,
Sống đời thịnh vượng lẫn an khang,
Kiếm nhiều mễ cốc cùng rau trái,
Phong phú khắp nơi chốn trú an.
130. Hẳn các ngài không bị bọ rầy,
Loài bò sát quấy nhiễu lâu nay,
Các ngài tránh được bao phiền lụy,
Do thú săn mồi ở chốn đây?
Các vần kệ sau đây do hai bên đối đáp nhau:
[Ẩn sĩ:]
131. Xin cám ơn ngài, hỡi Đại vương,
Chúng ta luôn thịnh vượng, an khương,
Kiếm nhiều mễ cốc cùng rau quả,
Phong phú khắp nơi chốn náu nương.
132. Bần đạo cũng không bị bọ rầy,
Loài bò sát quấy nhiễu lâu nay,
Chúng ta tránh được bao phiền lụy,
Do thú săn mồi đến chốn đây.
133. Các loại cây cao vẫn mọc đầy,
Cho người ẩn sĩ sống như vầy,
Cũng không bệnh tật gây tai hại,
Từng thấy xảy ra ở chốn này.
134. Bần đạo xin nghênh tiếp Đại vương,
Dịp may nào chỉ lối đưa đường,
Trông ngài hùng hậu, vinh quang quá,
Sứ mệnh gì mang, hãy tỏ tường?[7]
135. Tiṇḍuka, piyāla, các lá cây,
Kāsumā chín, ngọt ngào thay,
Như đường mật, kính dâng ngài ngự,
Thứ tuyệt hảo nhà có sẵn đây.[8]
136. Và nước mát này ở động sâu,
Ẩn mình trong một ngọn đồi cao,
Đại vương, xin kính dâng bình nước,
Ngài ngự cho lòng thỏa khát khao.
[Đại vương:]
137. Trẫm đây cùng tất cả vị vua,
Xin nhận quà ngài tặng chúng ta,
Song hãy lắng nghe lời sắp nói,
Của Hiền hữu, Trí giả Nanda.
138. Chúng ta tất cả bước theo hầu,
Hiền giả Nanda, đến khẩn cầu,
Ngài chiếu cố nghe lời Hiền giả,
Và lời hội chúng sẽ trình sau.
Nghe nói vậy, Trí giả Nanda đứng dậy từ chỗ ngồi, vừa đảnh lễ cha mẹ và huynh trưởng vừa ngâm kệ đàm đạo với đoàn tùy tùng của mình:
139. Xin cả toàn dân lẻ một trăm,
Những người danh vọng Bà-la-môn,
Các vua Sát-lỵ dòng cao quý,
Sáng chói với tên tuổi lẫy lừng,
Cùng với Manoja Đại đế,
Thảy đều công nhận việc cầu ân.
140. Dạ-xoa thần ở thảo am này,
Các vị đang quy tụ ở đây,
Lão, ấu các sơn thần, thổ địa,
Lắng nghe ta nói chuyện như vầy:[9]
141. “Tiểu nhi xin kính lễ song thân,
Kế đến xin thưa bậc Thánh nhân,
Tiểu đệ là em đây thuở trước,
Ngài xem có mặt tựa tay chân.
142. Làm sao phụng dưỡng lão song thân,
Ấy chính em cầu nguyện đặc ân,
Xin Thánh nhân thôi đừng cản trở,
Cho em làm thánh sự riêng phần.
143. n cần phụng dưỡng cả song thân,
Trước đã được làm bởi Thánh nhân,
Người thiện tán đồng bao thiện sự,
Sao phiên tiểu đệ chẳng nhường phần?
Do vầy em đạt nhiều công đức,
Đạo lộ lên thiên giới sẵn sàng.
144. Nhiều người khác biết rõ nơi đây,
Đạo lộ dành cho phận sự này,
Ấy chính con đường lên thượng giới,
Xin Hiền nhân nhận thức như vầy.
145. Song bậc Thánh nhân đã cản ngăn,
Em làm thiện sự thế này chăng?
Khi em mong muốn nhờ công đức,
Đem lại song thân trọn lạc an.”
Khi được Trí giả Nanda nói như vậy, bậc Đại sĩ bảo:
– Các vị đã nghe những lời Nanda nói ra, giờ đây hãy nghe ta!
Và ngài ngâm các vần kệ sau:
146. Các vị theo hầu tiểu đệ ta,
Hãy nghe ta nói lượt bây giờ,
Kẻ nào thái độ mà khinh suất,
Đối với người trong tộc, mẹ cha,
Phạm tội ác cùng chư Trưởng lão,
Tái sinh địa ngục đốt tiêu ma.
147. Song kẻ tinh thông đạo Thánh nhân,
Con đường chân lý hiểu tinh tường,
Giữ gìn giới luật và công hạnh,
Quyết sẽ chẳng sa cảnh khổ buồn.
148. Anh em cùng các bậc thân sinh,
Tất cả do đây kết hợp thành,
Nhiệm vụ suốt đời luôn đặt nặng,
Trên vai của vị trưởng hiền huynh.
149. Làm trưởng huynh, thiên chức nặng sao,
Hân hoan ta gánh vác đi đầu,
Như thuyền trưởng hộ phòng thuyền nọ,
Chân lý ta không hề lãng xao.
Khi nghe lời này, tất cả các vua đều vô cùng hoan hỷ và nói:
– Hôm nay, chúng ta đều biết được rằng toàn thể gia đình là trách nhiệm đặt lên người huynh trưởng.
Rồi các vị rời bỏ Trí giả Nanda và vừa chú tâm hướng về bậc Đại sĩ vừa ngâm hai vần kệ tán dương ngài:
150. Tri kiến tìm ra tựa lửa bừng,
Sáng ngời chiếu rọi giữa đêm trường,
Cũng như Thánh giả Kosi ấy,
Hiển lộ cho ta lý chánh chân.
151. Như nhật thần kia chiếu ánh quang,
Sáng ngời khắp mặt biển mênh mang,
Phô bày hình thể bao sinh vật,
Dù chúng xấu xa hoặc thiện lương,
Cũng vậy Kosiya Thánh giả,
Hiển bày chân lý với quân vương.
Như vậy là mặc dù từ lâu các vua chúa đã tin tưởng vào Trí giả Nanda vì chứng kiến các kỳ tích thần thông của vị ấy, tuy thế bậc Đại sĩ nhờ uy lực của tri kiến đã phá hủy lòng tin của họ, khiến họ phải chấp nhận lời ngài. Do vậy tất cả đều trở thành những người hầu cận tuân phục ngài nhất trên đời.
Lúc ấy, Trí giả Nanda suy nghĩ: “Đại huynh ta là một bậc Trí giả tinh thông am tường kinh điển. Ngài đã chinh phục các vị vua này và đưa họ về phía ngài. Ngoài ngài ra, ta không có nơi nương tựa nào khác. Ta chỉ còn biết khẩn cầu ngài thôi.” Thế rồi, ông ngâm vần kệ này:
152. Huynh chẳng lưu tâm dáng khẩn cầu,
Cũng không dang rộng cánh tay đâu,
Em mong làm kẻ hèn nô lệ,
Đợi lệnh huynh ban, vội đến hầu.
Dĩ nhiên bậc Đại sĩ không cảm thấy hờn giận hay oán trách gì đối với Nanda, nhưng ngài đã hành động như một cách khiển trách em để hạ bớt lòng kiêu mạn của vị ấy khi phát biểu tự cao thái quá như vậy. Nhưng bây giờ khi nghe những lời em nói ra, ngài vô cùng hoan hỷ và muốn ban ân huệ cho em. Ngài bảo:
– Nay ta tha thứ hiền đệ rồi và sẽ cho phép hiền đệ chăm sóc cha mẹ.
Và ngài ngâm kệ nêu rõ đức tính của hiền đệ:
153. Em thông chánh pháp, hỡi Nanda,
Như các Thánh nhân đã dạy mà,
Duy nhất quý cao là thiện sự,
Em làm đẹp ý thỏa lòng ta!
154. Mẹ cha xứng đáng được tôn thờ,
Em hãy nghe điều ta nói ra,
Nhiệm vụ phần em lo gánh vác,
Mà không cảm thấy nặng bao giờ.
155. Mẹ cha, ta bảo dưỡng lâu nay,
Cũng để cầu mong hạnh phúc vầy,
Đến lượt Nanda nay đã tới,
Cầu xin khúm núm phụng thờ đây.
156. Vị nào trong nhị Thánh nhân hiền,
Mong muốn Nanda phụng dưỡng riêng,
Xin nói một lời và tiểu đệ,
Phải theo hầu vị ấy ưu tiên.
Lúc ấy, mẹ ngài từ chỗ ngồi đứng dậy và bảo:
– Sona thân yêu, em con đã vắng nhà lâu nay. Bây giờ rốt cuộc nó đã trở về, ta không đích thân hỏi thăm nó vì chúng ta đều nương tựa vào con cả. Song nếu con cho phép, bây giờ ta xin được ôm lấy nam tử thánh thiện này trong tay và hôn lên trán nó.
Rồi bà ngâm kệ này nêu rõ ý của bà:
157. Sona, cha mẹ dựa con đây,
Nếu được con cho phép việc này,
Mẹ sẽ ôm vào lòng của mẹ,
Nanda thánh thiện, quý cao vầy.
Sau đó, bậc Đại sĩ nói với mẹ:
– Này mẹ yêu quý, con cho phép mẹ rồi, mẹ hãy đi ôm lấy Nanda con trai mẹ, rồi ngửi tóc và hôn lên đầu nó để xoa dịu nỗi sầu trong lòng mẹ.
Thế là bà đi đến Trí giả Nanda và ôm choàng lấy con trước toàn thể hội chúng và ngửi tóc, hôn lên đầu con, làm tiêu tan mọi nỗi khổ trong lòng bà và bà ngâm kệ nói với bậc Đại sĩ:
158. Giống như cây yếu ớt Bồ-đề,
Rung động vì cơn gió nặng bề,
Cũng vậy tim ta vui rộn rã,
Thấy Nanda đã được quay về.
159. Dường như ta thấy lại Nanda,
Cũng chẳng khác nào một giấc mơ,
Hóa dại, vui mừng ta hét lớn:
“Nanda nay trở lại cùng ta!”
160. Song nếu khi tàn giấc ngủ mê,
Thấy Nanda ấy đã ra đi,
Tâm ta sẽ chịu bao giày xéo,
Do nỗi buồn đau quá não nề.
161. Trở lại hôm nay với mẹ cha,
Nanda rốt cuộc đã về nhà,
Thân yêu với mẹ cha đồng đẳng,
Con tạo ngôi nhà với chúng ta.
162. Dù nghiêm đường quý mến Nanda,
Hãy để em con ở tự do,
Con phục vụ nhu cầu lão phụ,
Nanda cần trọn nghĩa cùng ta.
Bậc Đại sĩ chấp thuận lời mẹ và nói:
– Con mong được như vậy.
Và ngài khuyến giáo em:
– Này Nanda, em đã lãnh phận sự của người anh cả, quả thật mẫu thân chính là đại ân nhân của ta. Em hãy thận trọng chăm nom mẹ!
Ngài lại ngâm hai vần kệ tán thán công đức của mẹ hiền:
163. Là nơi nương tựa thật ân cần,
Mẹ đã nuôi ta với sữa nguồn,
Mẹ chính là đường lên thượng giới,
Mẹ thương hiền đệ nhất trên trần.
164. Mẹ đã chăm lo bảo dưỡng ta,
Mẹ nhiều ân huệ phát ban ra,
Mẹ là đường dẫn lên thiên giới,
Và mẹ yêu hiền đệ nhất nhà.
Như vậy, bậc Đại sĩ đã nêu lên công đức của mẹ qua hai vần kệ và khi mẹ ngài đã về chỗ ngồi, một lần nữa ngài bảo:
– Này Nanda, em có một bà mẹ đã chịu đựng nhiều gian lao khó vượt qua. Cả hai ta đã được mẹ nuôi nấng rất nhọc nhằn. Em hãy thận trọng chăm sóc mẹ và không được đưa thứ dâu chua cho mẹ ăn nữa!
Và để làm sáng tỏ cho hội chúng thấy rõ những công việc cực kỳ gian khổ được dành cho số phận bà mẹ, ngài ngâm kệ:
165. Cầu nguyện khát khao một đứa con,
Mẹ quỳ trước mỗi một đền thần,
Bốn mùa thay đổi thường quan sát,
Khảo cứu thiên văn thật tận tường.
166. Hoài thai theo với khoảng thời gian,
Mẹ thấy lòng mong đợi dịu dàng,
Thoáng chốc hài nhi vô ý thức,
Bắt đầu quen biết một thân bằng.
167. Suốt khoảng thai kỳ ngót một năm,
Mẹ chăm chút kỹ một kho tàng,
Rồi sau sinh hạ con yêu quý,
Ngày ấy vui lòng tiếng “mẹ” mang.
168. Với bầu sữa, mẹ hát ru con,
Xoa dịu hài nhi khóc nỉ non,
Ấp ủ trong vòng tay ấm áp,
Nỗi đau của trẻ được xua tan.
169. Trông nom trẻ tội nghiệp thơ ngây,
Sợ nắng gió làm hại trẻ đây,
Được gọi “vú nuôi” thôi cũng được,
Nâng niu con trẻ cứ như vầy.
170. Tài vật nào cha mẹ có đây,
Mẹ dành cho trẻ để sau này,
Bà suy: “Cũng có ngày con hỡi,
Gia sản may ra đến tận tay.”
171. “Làm như này, thế nọ, con ơi!”
Bà mẹ lo âu nhắc thế hoài,
Khi trẻ thành người trai lực lưỡng,
Mẹ còn kêu khóc, thở than dài,
Nó liều lĩnh dám đi tìm gặp,
Vợ láng giềng nhân lúc tối trời.
Bà mẹ buồn rầu, đau khổ hỏi:
“Chiều hôm, sao chẳng về, con ơi?”
172. Nếu được nuôi đầy khổ nhọc vầy,
Mà người xao lãng mẹ hiền này,
Chơi trò gian dối thì ta hỏi,
Còn đợi gì ngoài ngục đọa đày?
173. Nếu được nuôi đầy khổ nhọc vầy,
Mà người xao lãng phụ thân này,
Chơi trò gian dối thì ta hỏi,
Còn đợi gì ngoài ngục đọa đày?
174. Kẻ nào tài sản quá mê say,
Tài sản mất đi cũng có ngày,
Còn kẻ thờ ơ xao lãng mẹ,
Hối hận vì tai hại đắng cay.
175. Kẻ nào tài sản quá mê say,
Tài sản mất đi cũng có ngày,
Còn kẻ thờ ơ thân phụ nó,
Hối hận vì tai hại đắng cay.
176. An vui nhàn nhã với cười đùa,
Giải trí là tài sản tại gia,
Của kẻ chăm lo đầy tận tụy,
Mẫu thân khi tuổi tác già nua.
177. An vui nhàn nhã với cười đùa,
Giải trí là tài sản tại gia,
Của kẻ chăm lo đầy tận tụy,
Phụ thân khi tuổi tác già nua.
178. Quà tặng cùng lời nói dễ thương,
Ân cần phục vụ cạnh song đường,
Nhiệt tình tâm trí luôn bình đẳng,
Bày tỏ đúng thời, đúng chốn luôn.
Đối với thế nhân, sự tử tế,
Giống như mấu trục bánh xe lăn.
179. Nếu như tử tế không tồn tại,
Hiếu thảo mẹ cha chẳng có ai,
Chẳng quà dâng biếu, hay tôn trọng,
Chẳng kính song thân, chẳng đoái hoài.
180. Do tử tế này, các Hiền nhân,
Thảy đều quý trọng những ai ngoan,
Có lòng hiếu thảo cha và mẹ,
Thành bậc thượng nhân, được tán dương.[10]
181. Song thân hiền phải được tôn vinh,
Xứng đáng từ con cái của mình,
Người dưỡng mẹ cha theo chánh hạnh,
Là người có trí tuệ thông minh.
182. Đem dâng thức uống với đồ ăn,
Sàng tọa và y phục xứng phần,
Phải tắm mẹ cha, dầu tẩm ướt,
Rửa cho sạch sẽ cả đôi chân.[11]
183. Bậc Trí tán dương các việc trên,
Làm con phụng sự mẹ cha hiền,
Hân hoan tràn ngập trên trần thế,
Thân hoại, an vui hưởng cõi thiên.[12]
Như vậy, bậc Đại sĩ chấm dứt pháp thoại khác nào làm cho núi Sineru (Tu-di) xoay chuyển. Nghe ngài nói, tất cả các quốc vương cùng đoàn tùy tùng phát khởi đức tin. Sau đó an trú hội chúng vào ngũ giới và khuyến giáo họ tinh cần bố thí, v.v… ngài bảo họ ra về. Sau khi cai trị quốc độ một cách chân chánh, vào cuối đời, tất cả các vua ấy đều đi lên cộng trú với chư thiên. Hai Trí giả Sona và Nanda suốt đời sống phụng sự cha mẹ và về sau được sinh lên Phạm thiên giới.
***
Đến đây, bậc Đạo sư chấm dứt pháp thoại và tuyên thuyết các Thánh đế. Lúc kết thúc tuyên thuyết các Thánh đế, vị Tỷ-kheo phụng dưỡng mẹ được an trú vào Sơ quả (Dự lưu) và Ngài nhận diện tiền thân:
– Thời ấy, song thân là phụ mẫu trong hoàng gia, Trí giả Nanda là Ānanda, Vua Manoja là Sāriputta, một trăm lẻ một vị vua là tám mươi Đại trưởng lão và một số vị khác, hai mươi bốn đạo quân là đệ tử Như Lai, còn Trí giả Sona chính là Ta.
Kusāvatī là thủ phủ của người dân Malla. Ngày nay có tên gọi là Kusinārā (拘尸那羅, Câu-thi-na-la). Đức Phật đã nhập Niết-bàn tại đây. Tham khảo: D. II. 146f, 573; DA. II. 572f; M. II. 238f; UdA. 238, 402f; J. I. 392; A. I. 247f; V. 79f; Vin. I. 247f. ↑
Xem J. V. 250, Sonakajātaka (Chuyện Hiền giả Sonaka), số §529. ↑
Xem Cp. 95, Soṇapaṇḍitacariya (Hạnh của vị Hiền trí Soṇa). ↑
Xem J. VI. 70, Sāmajātaka (Chuyện hiếu tử Sāma), số §540. ↑
Xem J. III. 322, Manojajātaka (Chuyện sư tử Manoja), số §397. ↑
Các câu kệ từ 117-21, xem J. VI. 163, Bhūridattajātaka (Chuyện bậc Đại trí Bhūridatta), số §543. ↑
Xem J. VI. 77, Sāmajātaka (Chuyện hiếu tử Sāma), số §540; J. VI. 481, Vessantarajātaka (Chuyện Đại vương Vessantara), số §547. ↑
Hai câu kệ 135-36, xem J. IV. 432, Sattigumbajātaka (Chuyện anh vũ Sattigumba), số §503; J. VI. 77, Sāmajātaka (Chuyện hiếu tử Sāma), số §540; J. VI. 481, Vessantarajātaka (Chuyện Đại vương Vessantara), số §547. ↑
Xem Ap. I. 81, Kuṇḍadhānattheraapadāna (Ký sự về Trưởng lão Kuṇḍadhāna). ↑
Các câu kệ 179-80, xem D. III. 180, Siṅgālovādasutta (Kinh Giáo thọ Thi-ca-la-việt), số 31; A. II. 32, Saṅgahasutta (Kinh Nhiếp pháp). ↑
Xem A. I. 132, Sabrahmakasutta (Kinh Có Phạm thiên); A. II. 70, Brahmasutta (Kinh Phạm thiên); It. 109, Sabrahmakasutta (Kinh Có Phạm thiên). ↑
Xem S. I. 181, Mātuposakasutta (Kinh Mātuposaka); A. I. 132, Sabrahmakasutta (Kinh Có Phạm thiên); A. II. 70, Brahmasutta (Kinh Phạm thiên); It. 109, Sabrahmakasutta (Kinh Có Phạm thiên). ↑
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.