Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 07  » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »

Kinh Tiểu Bộ Quyển 3 
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch

Mục Lục

§530. CHUYỆN HIỀN GIẢ SAṀKICCA (Saṁkiccajātaka) (J. V. 261)

Vừa thấy Brahmadatta đại vương...

Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể lại trong khi trú ở vườn xoài của Jīvaka về việc mưu sát phụ vương của Vua Ajātasattu (A-xà-thế). Theo sự xúi giục của Devadatta (Ðề-bà-đạt-đa), vua ấy đã nhờ vị này sát hại phụ vương.

Nhưng sau khi Tăng chúng chia rẽ xong thì bệnh tật tràn lan trong nhóm người ly khai, Devadatta quyết định ra đi và xin đức Như Lai thứ tội. Trong lúc đi đường đến Sāvatthi (Xá-vệ), trên một chiếc cáng, vị này bị nuốt vào lòng đất ngay tại cổng tinh xá Kỳ Viên. Khi được tin trên, Vua Ajātasattu suy nghĩ: “Vì Devadatta thù nghịch với đức Thế Tôn nên phải bị mất xác vào trong lòng đất và đọa vào địa ngục Avīci (A-tỳ hay Vô Gián). Vì lão ấy mà ta đã can tội giết hại phụ vương thánh thiện, vị vua của công lý, chắc chắn ta cũng sẽ bị nuốt vào lòng đất.”

Vì thế, vua kinh hoàng đến độ không còn hứng thú an hưởng cảnh vương giả trong triều đình. Và trong khi tưởng rằng chỉ nằm nghỉ ngơi chốc lát, vua đã ngủ thiếp dần, rồi thấy mình dường như rơi vào một cảnh giới toàn bằng sắt dày chín do-tuần, bị đâm bằng cọc sắt nhọn và bị bầy chó xâu xé, chúng cứ nhe răng dọa nạt ông, làm ông kêu lớn và giật mình tỉnh dậy.

Vì vậy, vào ngày lễ hội trăng tròn rằm tháng Mười, khi được đám đông quần thần vây quanh, ông nghĩ đến cảnh vinh quang của mình, lại thấy cảnh vinh quang của phụ vương còn vượt xa hơn mình nữa, mà chỉ vì Devadatta, ông đã giết một vị vua chân chính như vậy. Trong khi nghĩ đến điều này, một cơn sốt nổi lên khắp thân thể, mồ hôi đổ ra như tắm. Rồi ông xem xét ai có thể xua tan nỗi sợ hãi này khỏi lòng mình, ông kết luận là ngoại trừ đấng Thập Lực không còn ai nữa. Ông suy nghĩ: “Ta đã có tội lớn đối với đức Như Lai, vậy ai có thể đem ta đến yết kiến đức Thế Tôn?”

Và xem ra không còn ai ngoài Jīvaka, ông tìm cách mời vị này cùng đi đến yết kiến đức Phật. Vua thốt ra một tiếng kêu vui mừng. Vua bảo:

– Này hiền khanh, đêm nay trăng sáng đẹp quá, hôm nay ta muốn đi cúng dường đảnh lễ một vị Sa-môn hay Bà-la-môn, có nên chăng?

Khi nghe các công đức của Pūraṇa[5] và các vị đạo sư khác được các đệ tử của họ tán thán, vua không quan tâm mà chỉ hỏi Jīvaka. Khi nghe vị này kể các công đức của đức Như Lai và tâu: “Xin Thánh thượng hãy đi đảnh lễ đức Thế Tôn”, vua ra lệnh cho các tượng xa chuẩn bị đi đến vườn xoài của Jīvaka.

Khi đến gần đức Như Lai, vua đảnh lễ và được đức Phật thân ái đáp lễ lại, vua hỏi đức Phật về quả của việc tu hành trong đời này. Sau khi nghe đức Như Lai thuyết pháp êm dịu về Sa-môn quả, cuối bài pháp vua xin làm đệ tử đức Phật và ra về sau khi đã sám hối trước đức Phật.

Từ đó, thực hành bố thí và trì giới, vua thường kề cận đức Như Lai, nghe Ngài thuyết pháp êm dịu và nhờ thân cận bậc thiện hữu tri thức, nỗi lo sợ giảm bớt và cảm giác kinh hoàng của ông dần dần biến mất, ông đã được an tâm trở lại và hân hoan tu tập tứ nhiếp pháp.

Một ngày kia, Tăng chúng bắt đầu bàn luận tại pháp đường, bảo nhau:

– Này các Hiền giả, sau khi giết phụ vương, Vua Ajātasattu quá kinh hoàng, không còn muốn hưởng cảnh vương giả nữa, cứ luôn luôn bị cảm giác khổ đau trong mọi hành động. Sau đó, vua tìm đến đức Như Lai, nhờ thân cận với bậc thiện hữu, vua đã quên hết mọi nỗi lo âu và an hưởng vinh hoa hạnh phúc của đời vương giả.

Bậc Đạo sư đi đến và hỏi:

– Này các Tỷ-kheo, các ông đang bàn luận vấn đề gì?

Và khi nghe các vị ấy nói vấn đề kia, Ngài bảo:

– Không phải chỉ bây giờ mà cả ngày xưa nữa, người này sau khi giết cha mình đã nhờ Ta mà phục hồi sự thanh thản của tâm trí.

Rồi Ngài kể câu chuyện quá khứ.

***

Ngày xưa, tại thành Ba-la-nại, Vua Brahmadatta sinh được một con trai và cũng đặt tên là Brahmadatta. Vào thời ấy, Bồ-tát được sinh vào nhà của vị tế sư. Ngày ngài ra đời, họ đặt tên ngài là Saṁkicca. Hai hài nhi cùng lớn lên trong cung vua nên trở thành đôi bạn chí thân. Khi hai vị đến tuổi khôn lớn, và sau khi đã hoàn tất mọi môn học tại Takkasilā liền trở về nhà. Vua phong cho con làm phó vương và Bồ-tát vẫn sống chung cùng bạn.

Một ngày kia, khi vua cha du ngoạn tại lạc viên, phó vương nhìn thấy cảnh đại vinh quang của ngài, sinh lòng ao ước và nghĩ thầm: “Phụ vương [mạnh] như vương huynh của ta, nếu ta đợi chờ vua cha chết thì ta đã già nua khi lên ngôi báu. Lúc ấy, ta được giang sơn thì có lợi gì? Ta muốn giết cha và làm vua ngay.” Chàng liền nói với Bồ-tát về dự định sẽ làm gì, Bồ-tát phản đối dự tính đó và bảo:

– Này Hiền hữu, giết cha là một tội trọng. Chuyện ấy sẽ đưa đường đến địa ngục, xin ngài đừng làm việc ấy, xin đừng giết đức vua!

Song phó vương cứ nhắc đi nhắc lại chuyện ấy và bị bạn thân phản đối đến lần thứ ba. Phó vương liền vấn kế bọn hầu cận, bọn chúng đồng ý và lập mưu giết vua cha. Khi Bồ-tát nghe tin này, nghĩ thầm: “Ta không muốn thân cận với hạng người như thế.” Rồi không kịp từ giã song thân, ngài trốn đi bằng cửa hậu, và sống cảnh ẩn dật trong vùng Tuyết Sơn. Tại đó, ngài theo đời khổ hạnh và chứng đắc các thắng trí phát xuất từ thiền định, chỉ nuôi thân bằng các thứ củ quả rừng. Còn vương tử, khi bạn bỏ đi rồi, đã mưu giết phụ vương và tận hưởng cảnh vinh quang.

Nghe tin nam tử Saṁkicca xuất gia tu hành, nhiều thiện gia nam tử cũng rời bỏ thế tục và xin thọ giới với ngài để sống đời khổ hạnh. Ngài sống tại đó với hội chúng đông đảo các vị khổ hạnh kia và tất cả đều đạt các thiền chứng.

Phần vua, sau khi giết cha và hưởng thọ dục lạc của đời sống đế vương được một thời gian ngắn, lại thấy lo sợ và tâm bất an như thể một người đã thấy rõ hình phạt của mình trong địa ngục. Lúc ấy, vua nhớ đến Bồ-tát liền nghĩ: “Bạn ta đã cố ngăn cản ta, bảo rằng giết cha là một việc kinh hoàng,[6] song đã không thuyết phục được ta nên đã bỏ đi để khỏi vướng lụy. Nếu trước kia có bạn ta ở đây, ắt hẳn đã không để ta phạm tội giết cha và đã cứu ta thoát được nỗi kinh hoàng này. Không biết bây giờ bạn ta ở đâu. Nếu ta biết được chàng ở đâu, ta sẽ cho mời chàng về. Ai có thể cho ta biết nơi chàng ở chăng?”

Từ đó, ở trong hậu cung cũng như ngoài triều đình, vua vẫn thường tán dương Bồ-tát. Một thời gian lâu sau đó, khi đã sống ở Tuyết Sơn cả năm mươi năm, Bồ-tát nghĩ thầm: “Vua đang nhớ đến ta. Ta phải đi tìm bạn và thuyết pháp để bạn ta khỏi lo sợ.” Thế là được năm trăm vị khổ hạnh theo hầu, ngài bay qua không gian rồi hạ xuống hoa viên Dāyapassa và an tọa trên phiến đá với các Hiền nhân vây quanh.

Người giữ vườn thấy ngài liền hỏi:

– Thưa Thánh giả, vị nào là bậc thượng thủ của hội chúng Hiền nhân này?

Khi được biết đó là Trí giả Saṁkicca và lão cũng nhận ra ngài liền thưa:

– Thưa Tôn giả, xin ngài ở nán lại đây cho đến khi tôi đi thỉnh hoàng thượng đến. Hoàng thượng đang nóng lòng gặp ngài.

Đảnh lễ ngài xong, lão vội đến cung tâu trình về việc ngài trở về. Vua đến thăm ngài và sau khi cung kính đảnh lễ theo đúng phép xã giao xong liền đưa ra vấn đề hỏi ngài.

***

Bậc Đạo sư ngâm kệ làm sáng tỏ việc này:

69. Vừa thấy Brahmadatta đại vương,

Ngôi cao chễm chệ thật huy hoàng,

Lão tâu: “Chúa thượng, thân bằng cũ,

Chúa thượng vẫn thường dạ luyến thương.

70. Tôn giả Saṁkicca đã đến đây,

Giữa Hiền nhân, nổi tiếng vai thầy,

Đại vương, xin vội lên đường sớm,

Chớ chậm tìm thăm bậc Thánh này.”

71. Vua ngự lên xa giá vội vàng,

Sẵn sàng theo lệnh của vua ban,

Triều thần, bạn hữu vây quanh đủ,

Tìm kiếm Thánh nhân tiến thẳng đàng.

72. Cả năm biểu tượng của vương gia,

Vị chúa Kāsi vội bỏ ra,

Lọng, quạt đuôi trâu rừng, mão niệm,

Đôi hài, bảo kiếm cũng trao qua.

73. Rồi vua ngự xuống khỏi vương xa,

Cởi hết bào y rực sáng lòa,

Đến Dāyapassa ngự uyển,

Là nơi an tọa Thánh Saṁkicca.

74. Và vua vội vã tiến lên gần,

Đảnh lễ trang nghiêm, lại hỏi thăm,

Trao đổi đôi câu khi hội ngộ,

Xong rồi vua lại dời chân sang.

75. Cạnh bạn, vua an tọa một bên,

Đến khi dịp tốt bắt đầu lên,

Hỏi câu liên hệ bao điều ác,

Vua vội nêu ra với bạn hiền.

76. “Saṁkicca, thượng thủ Hiền nhân,

Tĩnh tọa ở Dāyapassa,

Phía trước một đoàn nhiều ẩn sĩ,

Bao điều trẫm muốn hỏi thân bằng.

77. Ra sao, kẻ ác lúc từ trần,

Cảnh giới nào đâu phải thọ thân?

Trẫm đã đi sai đường chánh đạo,

Trẫm mong lời giải của Hiền nhân.”

Sau khi nghe như vậy, Bồ-tát nói rằng: “Vậy thì xin Đại vương hãy lắng nghe!” rồi cho lời khuyên.

***

Bậc Đạo sư nói thêm để làm sáng tỏ việc này:

78. Và Saṁkicca bảo Đại vương,

Vua Kāsi giúp thịnh giang sơn,

Tại Dāyapassa ngự viên an tọa:

“Đại đế, lắng nghe sẽ tỏ tường.

79. Ví thử ngài đưa lối chỉ đường,

Cho người đi lạc bước vô phương,

Người kia theo đúng lời khuyên nhủ,

Chẳng gặp chông gai cản bước chân.

80. Nếu kẻ kia đi lạc nẻo tà,

Nếu ngài dẫn dắt đúng đường ra,

Kẻ kia tuân thủ lời khuyên nhủ,

Sẽ thoát ra bao cảnh khổ mà.”

***

Ngài đã khuyến giáo vua như vậy và hơn nữa ngài còn dạy vua pháp lành:

81. Đường đúng chính là pháp chánh ngay,

Còn phi pháp chính là đường sai,

Pháp thì đưa lối lên thiên giới,

Phi pháp dẫn vào ngục đọa đày.

82. Kẻ hành phi pháp, hỡi Quân vương,

Là kẻ có đời sống bất lương,

Khi chết đọa vào trong địa ngục,

Quân vương nghe rõ sẽ am tường,

83. [Các địa ngục kia được gọi là:]

Sañjīva, Kāḷasutta,

Và hai địa ngục Roruva,

Saṅghāta, Đại Avīci,

Tapana, Patāpana,

84. Tám địa ngục kia tiếng lẫy lừng,

Rất nhiều kẻ tạo nghiệp hung tàn,

Thoát thân từ đó đều vô vọng,

Mỗi ngục bằng mười sáu [ngục] Ussada.

85. Lửa cháy hành hình các tội nhân,

Thảy đều tạo ác nghiệp vô ngần,

Kinh hồn, hoảng hốt, đầy đau đớn,

Khổ não, hãi hùng ngập bốn phương.[7]

86. Bốn phía đều xây cửa bốn tầng,

Chia từng khoảng cách, thật cân phân,

Mái vòm bằng sắt trên che phủ,

Tường sắt lại còn bao bọc quanh.[8]

87. Nền ngục này bằng sắt cả vùng,

Ngập tràn lửa dữ, nóng hừng hừng,

Dù xa trăm dặm chung quanh đó,

Cũng thấy nóng lan tỏa chẳng ngừng.[9]

88. Ai làm thương tổn các Hiền nhân,

Bậc khổ hạnh, gìn giới, chánh chân,

Rơi chúi đầu vào miền địa ngục,

Chẳng còn cơ hội để vươn thân.

89. Thân thể tả tơi, cảnh hãi hùng,

Khác nào cá nướng lửa đang nồng,

Cũng vì ác nghiệp chịu nung nấu,

Đày xuống ngục kia vô số năm.

90. Thân thể trong ngoài bị bỏng sôi,

Hành hình làm hoảng sợ con mồi,

Dù mong giải thoát ra ngoài ngục,

Cũng chẳng tìm đâu lối thoát rồi.

91. Chạy tới, chạy lui kiếm lối đi,

Đông, Tây, Nam, Bắc chẳng mong gì,

Vì chư thần đó ngăn đường lối,

Họ cố tìm đường có ích chi.[10]

92. Hàng ngàn năm, số phận đau thương,

Chúng sống trong miền địa ngục môn,

Với cánh tay vươn lên đợi cứu,

Khóc than, nỗi khổ ngập tâm hồn.

93. Cũng như rắn độc giết con mồi,

Nổi giận hung tàn nếu bị khơi,

Phải tránh tổn thương cho Thánh giả,

Những người nguyền khổ hạnh trong đời.

94. Tộc trưởng Kekaka - Ajjuna,

Tan tành vì hại Gotama,

Dù ngàn tay, vóc người cường tráng,

Thiện xạ lẫy lừng một thuở xưa.

95. Daṇḍakī[11] ném đồ dơ vào,

Bậc vô nhiễm Kisavaccha,

Như cọ dừa đang bị chặt gốc,

Vị vua bị hủy diệt kia mà.

96. Mejjha[12] hại bậc Trí Mātaṅga,

Phải rớt từ trên bảo tọa kia,

Đất nước trở thành hoang phế địa,

Chúa tôi đều phải hóa ra ma.

97. Dân Vishṇu - Andha[13] tấn công

Dīpāyana[14] Hắc Hiền nhân,

Rồi dùng chày giết nhau tranh bá,

Phải đến Diêm cung cả hai dân.

98. Bị mắc lời nguyền của Trí nhân,

Cecca[15] xưa bước giữa không trung,

Tương truyền bị nuốt vào lòng đất,

Biến mất vào ngày đã định phần.

99. Do vậy, bậc Hiền trí chẳng khen,

Người nào cứ ham muốn, đua chen,

Thiện nhân tâm tốt thường cân nhắc,

Chỉ nói lời gì thuộc chánh chân.

100. Kẻ nào thường rắp tâm chờ mong,

Soi mói bậc minh, hạnh vẹn toàn,

Sẽ bị cuốn chìm vào địa ngục,

Vì tâm ý độc, phải ăn năn.

101. Kẻ nào lời thô lỗ hung tàn,

Xông đến bậc tôn trưởng, mắng càn,

Sẽ giống cọ dừa bị chặt gốc,

Chẳng con thừa kế, phải tàn dần.

102. Kẻ nào dám giết Đại Hiền nhân,

Hoặc bậc tu hành sống chánh chơn,

Sẽ đọa Kāḷasutta ngục,

Cực hình phải chịu lắm ngày ròng.

103. Còn nếu Maga, một ác vương,

Muốn làm điên đảo cả giang sơn,

Mạng chung vào ngục Tapana ấy,

Phải chịu nhiều đau khổ đoạn trường.

104. Trăm ngàn năm sống đọa đày thân,

Như cách chư thiên tính tháng năm,

Mặc áo làm bằng cây lửa đỏ,

Giữa đau thương địa ngục muôn phần.

105. Lửa phun lên rực sáng nơi nơi,

Tung tóe từ thân thể tả tơi,

Chân cẳng, tóc râu cùng tất cả,

Chỉ dùng nuôi ngọn lửa làm mồi.

106. Thân thể trong ngoài cháy thật nhanh,

Khổ đau hành hạ đến tan tành,

Như voi bị quất bằng cây móc,

Kẻ khốn rống lên hết sức mình.

107. Có kẻ tham sân lại giết cha,

Ấy người hèn hạ, đại gian tà,

Chịu nhiều thống khổ trong hầm ngục,

Tên Kāḷasutta mãi mà.

108. Trong chảo sắt sôi đến lột da,

Bị đâm tên sắt đến mù lòa,

Ăn phân, kẻ giết nhằm thân phụ,

Nước muối chìm thân chuộc tội xưa.

109. Quỷ sứ bèn cầm lấy lưỡi cày,

Đã nung nóng rực trong nhiều ngày,

Có dây thừng buộc lưỡi cày ấy,

Bọn chúng mở banh miệng kẻ này,

Và đặt một hòn sắt nóng đỏ,

Vào nơi miệng của nạn nhân đây.

110. Kên kên đầy lực, quạ, diều hâu,

Chó mực và chim mỏ sắt vào,

Phanh lưỡi nó ra từng mảnh nhỏ,

Nghiến nhai từng miếng, máu tuôn trào.

111. Bầy quỷ theo sau kẻ bị hành,

Đánh cho thân thể họ tan tành,

Tựa cây thốt nốt bị thiêu cháy,

Quỷ thích vui, người thấy khổ nàn,

Ai vào địa ngục chịu như thế,

Là bởi kiếp này giết phụ thân.

112. Còn nếu kẻ nào giết mẫu thân,

Đọa ngay vào ngục Dạ-ma quân,

Để đền tội phạm hành vi ác,

Nhận quả khổ đau thật xứng phần.

113-14. Quỷ dữ nắm người giết mẫu thân,

Dùng dây roi sắt quất nhiều lần,

Máu đào rịn đổ từ cơ thể,

Trông tựa đồng tan chảy cả dòng,

Chúng bèn bắt kẻ giết người mẹ

Uống máu đỏ tươi thỏa khát lòng.

115-16. Hồ máu đỏ kia nó ngập mình,

Hít mùi xác chết hoặc bùn, phân,

Bầy sâu khủng khiếp dùng mồm sắt,

Xuyên suốt da người chịu cực hình,

Xâu xé thịt kia nhai ngấu nghiến,

Hút ngay máu đỏ thật ngon lành.

117. Khi kẻ ấy vào ngục ngập thân,

Tên là Sataporisa,

Tức thì chìm đắm trong hôi thối,

Trăm dặm quanh đầy xác hủy phân.

118. Bởi chính mùi hôi kinh khủng kia,

Xưa dù mắt sáng cũng mờ đi,

Tâu Vua Brahmadatta rõ,

Kẻ giết mẹ mình phải khổ nguy.

119. Khi qua ngục Khuradhāra,

Ngục bén nhọn dao khó vượt qua,

Những kẻ phá thai, sao thoát được,

Sông kinh khiếp Vetaraṇī.

120. Cây vải có gai sắt thật dài,

Cỡ mười sáu ngón tay người đời,

Treo hai bên dọc con sông ấy,

Vượt Vetaraṇī khó thay!

121. Tất cả nạn nhân trong lửa hồng,

Đứng lên bị đốt tựa trời trồng,

Cháy bùng rực rỡ như cây tháp,

Cao cả dặm đường giữa cõi không.

122-23. Trên lửa gai nung, ngục hiện ra,

Gian phu, dâm phụ, bọn gian tà,

Roi da vụt xuống đầu lăn lóc,

Hỗn loạn quay cuồng chạy trốn xa,

Tơi tả tứ chi nhừ nát cả,

Chúng nằm thức đợi suốt đêm qua.

124-25. Tảng sáng vào nồi sắt bỏng thân,

To như núi, nước lửa bừng bừng,

Do si vây bọc tâm tánh ấy,

Bọn ác nhân kia sáng tối ròng,

Vì ác nghiệp gây từ kiếp trước,

Nay đền nợ cũ xứng cân phần.

126. Người vợ được mua với bạc vàng,

Đem lòng coi rẻ đức lang quân,

Hoặc nhìn khinh bỉ người thân thích,

Lưỡi bị móc ra, thống khổ tràn.

127. Thấy lưỡi căng đầy lũ bọ sâu,

Kêu than chẳng thể được đâu nào,

Âm thầm phải gánh bao hình phạt

Trong ngục Tapana, chịu khổ đau.

128-29. Kẻ giết heo cừu, bọn thợ săn,[16]

Chài ngư, trộm cướp, lũ tà nhân,

Xem hành vi thiện là hèn kém,

Bị đánh bằng dùi sắt, kiếm, cung,

Nhào xuống cả toán trong sông nóng,

Bị tên giáo đuổi, ngã vào dòng.

130. Những người lường gạt, suốt ngày đêm

Bị búa sắt kia đánh đập mềm,

Chỉ sống bằng đồ ăn bẩn thỉu,

Nhả ra bởi các kẻ đê hèn.

131. Diều quạ, kên kên với chó rừng,

Hàm nhe toàn sắt, sẵn sàng luôn,

Vồ ngay kẻ khốn đang lăn lộn,

Nuốt sống vào mồm quá hám ăn.

132. Ai dùng thú dữ giết hươu nai,

Hoặc giết chim, bằng chim bẫy mồi,

Tội lỗi đọa vào Ussada,

Ăn năn vì ác độc, nhơ hôi.

Như vậy, miêu tả các địa ngục như trên xong rồi, bây giờ ngài mở bày thiên giới và miêu tả thiên giới như sau:

133. Nhờ tích đức trên cõi thế gian,

Từ xưa, người thiện đến thiên đàng,

Chư thiên, Phạm chúng, kìa Thiên chủ,

Đạt quả công năng, chín vẹn toàn.

134. Ta bảo ngài cai trị chánh chơn,

Suốt trong quốc độ, hỡi Quân vương,

Đạt thành phước đức nhờ công chánh,

Hối tiếc về sau chẳng phải mang.

Nghe xong bài thuyết giáo của bậc Đại sĩ, vua bình tâm lại, còn Bồ-tát sau khi ở đó một thời gian nữa liền trở về nơi an trú của mình.

***

Đến đây, bậc Đạo sư chấm dứt pháp thoại và bảo:

– Không chỉ bây giờ mà cả ngày xưa nữa, vua ấy cũng đã được Ta làm cho an tâm.

Và Ngài nhận diện tiền thân:

– Vào thời bấy giờ, nhà vua kia là Vua Ajātasattu (A-xà-thế), hội chúng của vị khổ hạnh là các đệ tử của Như Lai và Trí giả Saṁkicca chính là Ta.

  1. Xem S. I. 235, Saṅghavandanāsutta (Kinh Đảnh lễ chúng Tăng).

  2. Từ số 43-49, xem J. VI. 35, Mahājanakajātaka (Chuyện Đại vương Mahājanaka), số §539; Ap. II. 351, 354, 365.

  3. Xem J. V. 317, Sona-Nanda-jātaka (Chuyện hai Hiền giả Sona và Nanda), số §532; J. VI. 4, Mūgapakkhajātaka (Chuyện Vương tử què câm), số §538.

  4. Xem J. VI. 4, Mūgapakkhajātaka (Chuyện Vương tử què câm), số §538.

  5. Xem D. I. 47, Sāmaññaphala Sutta (Kinh Sa-môn quả), số 2.

  6. Xem JPTS. 1884, p. 76.

  7. Xem CNid. 57, Khaggavisāṇasuttaniddeso (Diễn giải kinh sừng tê ngưu); MNid. 401, Attadaṇḍasuttaniddeso (Diễn giải kinh uế hạnh của bản thân).

  8. Kệ 86-87, xem M. III. 163, Bālapaṇḍitasutta (Kinh Hiền ngu), số 129; M. III. 178, Devadūtasutta (Kinh Thiên sứ), số 130; A. I. 138, Devadūtasutta (Kinh Thiên sứ).

  9. Xem CNid. 57, Khaggavisāṇasuttaniddeso (Diễn giải kinh sừng tê ngưu); MNid. 401, Attadaṇḍasuttaniddeso (Diễn giải kinh uế hạnh của bản thân).

  10. Như trên.

  11. Xem J. V. 126, Sarabhaṅgajātaka (Chuyện Đại nhân thiện xạ Sarabhaṅga), số §522.

  12. Xem J. IV. 375, Mātaṅgajātaka (Chuyện bậc Hiền trí Mātaṅga), số §497.

  13. Xem J. V. 11, Kumbhajātaka (Chuyện bình rượu), số §512.

  14. Xem J. IV. 80, Ghatajātaka (Chuyện Trí giả Ghata), số §454.

  15. Xem J. III. 11, Cetiyajātaka (Chuyện Quốc vương Ceti), số §422.

  16. Xem Thīg. v. 236. Puṇṇātherīgāthā (Kệ ngôn của Trưởng lão Ni Puṇṇā).

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.