Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »
Kinh Tiểu Bộ Quyển 3
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch
§527. CHUYỆN CÔ GÁI UMMADANTĪ (Ummadantījātaka)[3] (J. V. 209)
Kia nhà ai đó, hỡi Sunanda,…
Câu chuyện này bậc Đạo sư kể trong lúc trú tại Jetavana (Kỳ Viên) về một Tỷ-kheo thối thất.
Chuyện kể rằng, một ngày kia, trong khi đi quanh thành Sāvatthi (Xá-vệ) để khất thực, ông chợt trông thấy một nữ nhân tuyệt sắc với xiêm y diễm lệ liền sinh lòng mê mẩn nàng ấy. Khi trở về tinh xá, ông không thể nào xua tan hình bóng nàng ra khỏi tâm tư. Từ lúc ấy, như thể trúng mũi tên độc của dục tình, ông mắc bệnh tương tư, gầy gò như chú nai rừng, gân xanh nổi khắp mình mẩy và mong manh như cành liễu rũ.
Ông không tìm thấy an lạc trong bất cứ pháp nào của tứ oai nghi, cũng không ham thích trầm tư; một khi xao lãng phận sự đối với vị Giáo thọ sư, ông xao lãng luôn cả việc học hỏi, suy tư và tham thiền nhập định. Các bạn đồng Phạm hạnh bảo:
– Này Hiền giả, trước đây, bạn an tịnh và tự tại trong tứ oai nghi. Sao giờ đây không như vậy nữa, vì cớ gì?
Ông đáp:
– Này các Hiền giả, ta chẳng còn ham thích gì nữa.
Tăng chúng khuyên ông giữ an lạc và bảo:
– Đức Phật thị hiện ở đời thật khó lắm thay, được nghe Chánh pháp và làm người là chuyện cũng khó như vậy, song trước đây, Hiền giả đã đạt được điều này. Và vì mong ước đoạn trừ phiền não, Hiền giả đã để mặc thân nhân khóc lóc và trở thành người tu hành sống đời ẩn sĩ. Tại sao nay Hiền giả lại rơi vào vòng tham dục? Những tham dục xấu xa này rất thông thường đối với mọi chúng sanh si ám từ loài sâu bọ trở lên. Những tham dục này có gốc ở sắc pháp hữu vi, vì thế chúng rất đáng nhàm chán. Tham dục đầy phiền não, khổ ưu ở đây lại tăng trưởng nhiều hơn nữa. Tham dục giống như xương khô, như miếng thịt. Tham dục như bó đuốc làm bằng cỏ khô hay lửa than hồng. Tham dục tan biến như cơn mơ, hay của nợ, hoặc như trái cây. Tham dục làm đau đớn như mũi giáo nhọn hay chiếc đầu rắn. Thế mà Hiền giả, thật vậy, sau khi đã thọ trì giáo pháp sáng ngời như thế này và xuất gia tu tập, giờ đây lại rơi vào vòng tham dục tai hại kia.
Khi thấy những lời khuyến giáo của Tăng chúng không làm ông hiểu được ý nghĩa, Tăng chúng đưa ông đến yết kiến đức Thế Tôn tại pháp đường. Đức Thế Tôn hỏi:
– Này các Tỷ-kheo, tại sao các ông đem người này lại đây dù người đó không muốn?
Tăng chúng đáp:
– Bạch Thế Tôn, vị Tỷ-kheo này bị thối thất.
Bậc Đạo sư hỏi xem có đúng chăng, khi nghe ông thú nhận quả đúng như vậy, Ngài bảo:
– Này Tỷ-kheo, các bậc Trí nhân ngày xưa dù đang trị vì một quốc độ, vậy mà hễ khi nào tham dục khởi lên trong tâm cũng bị chúng chi phối một thời gian, nhưng rồi cũng đã cố điều phục những tâm tư tán loạn ấy và không còn phạm vào tà hạnh bất xứng nữa.
Nói xong, Ngài kể lại một câu chuyện quá khứ.
***
Ngày xưa, trong kinh thành Ariṭṭhapura của quốc độ Sivi có vị vua trị vì mệnh danh là Sivi. Bồ-tát sinh ra làm con của chánh hậu và được đặt tên là Sivi. Vị đại tướng trong triều cũng sinh con trai đặt tên là Ahipāraka (người vượt qua bờ bên kia). Hai thiếu nhi lớn lên trở thành thân hữu; khi được mười sáu tuổi, hai vị đến thành Takkasilā học tập, thành tài xong liền trở về nhà. Vua giao vương quốc cho vương tử, tân vương này phong bạn Ahipāraka làm Đại tướng và cai trị rất đúng pháp.
Trong kinh thành có một phú thương tên gọi Tiriṭavaccha, gia sản đến tám trăm triệu đồng, sinh được một con gái rất yêu kiều diễm lệ, thân nàng có đủ mọi tướng tốt của phúc phận mai sau. Đến ngày lễ đặt tên, nàng được gọi là Ummadantī (người làm điên đảo say mê). Khi đến mười sáu tuổi, nàng đẹp như tiên nữ với một dung sắc siêu phàm. Những phàm nhân nào chiêm ngưỡng nàng đều không thể chế ngự được lòng mình, đều say mê nàng như thể say rượu nồng và mất hẳn tính tự chủ, vì thế thân phụ nàng đến yết kiến vua và tâu:
– Tâu Thánh thượng, nhà hạ thần có một nữ báu thật xứng đáng tiến cung hầu hạ Thánh thượng, xin hãy triệu các tiên tri vào! Những vị này biết cách xem quý tướng trên thân người, để các vị ấy thử xét đoán nàng xong, xin Thánh thượng cứ tuyển dụng nàng tùy thích!
Vua chấp thuận, cho triệu các vị Bà-la-môn. Rồi họ đi đến nhà phú thương ấy, được tiếp đón rất trọng thể linh đình và dự tiệc bánh sữa. Vào lúc ấy, Ummadantī ra tiếp kiến quan khách với xiêm y lộng lẫy. Thoạt trông thấy nàng, họ đều mất hết tự chủ, chẳng khác nào bị say rượu mạnh, họ quên mất rằng đang ăn tiệc dở dang. Có người cầm chiếc bánh lên nghĩ mình sẽ ăn bánh, lại đặt bánh lên đầu. Có người đem bánh kẹp nách, có người lại ném bánh vào tường. Mọi người đều như mất trí. Nàng thấy bọn họ như vậy liền bảo:
– Thế mà họ bảo ta rằng các người này đến đây để xem xét các đặc điểm của ta.
Nàng ra lệnh nắm gáy cả bọn ném ra ngoài đường. Họ rất bực tức, trở về cung với lòng uất hận Ummadantī và trình:
– Tâu Thánh thượng, nữ nhân này không xứng với Thánh thượng, đó là một tay phù thủy.
Vua nghĩ thầm: “Họ bảo ta nàng ấy là một phù thủy.” Vì thế, vua không triệu nàng vào. Nghe được việc ấy, nàng bảo:
– Ta không được vua tuyển vào làm vương hậu vì họ bảo ta là phù thủy, như vậy bọn phù thủy đều giống ta. Được lắm, nếu ta có dịp vào yết kiến vua, ta sẽ biết cách hành động.
Nàng lại sinh lòng thù oán vua. Sau đó, cha nàng đem gả nàng cho Ahipāraka và nàng rất được vị phu quân yêu quý, say mê. Nguyên nhân gì khiến nàng thành diễm lệ như vậy? Đó là nhờ một chiếc áo đỏ. Ngày xưa, đã có một đời nàng sinh ra trong một gia đình nghèo khổ ở Ba-la-nại. Vào một ngày lễ, nàng trông thấy một vài nữ nhân cao quý phục sức lộng lẫy trong những chiếc y rực rỡ nhuộm màu hoa cúc đỏ thắm đang vui đùa, nàng nói với cha mẹ là nàng cũng muốn mặc áo như vậy để chơi đùa. Họ bèn bảo:
– Này con, nhà ta nghèo lắm, làm sao kiếm ra áo ấy cho con được?
Nàng đáp:
– Vậy thì cha mẹ hãy cho con đi làm kiếm tiền ở một gia đình giàu có, khi nào họ biết đến công lao của con, họ sẽ thưởng cho con một chiếc áo!
Được cha mẹ chấp thuận, nàng liền đến một gia chủ xin làm công việc phục dịch để lấy một chiếc áo đỏ, họ bảo:
– Sau khi làm việc ba năm, ta sẽ trả công cho nàng một chiếc áo.
Nàng bằng lòng ngay, bắt đầu làm cho họ. Trước khi mãn hạn ba năm, họ đã thưởng công nàng một chiếc áo dày nhuộm màu hoa rum cùng với một chiếc y khác và đưa nàng ra về, họ bảo:
– Hãy đi tìm các bạn nàng và sau khi tắm gội xong, hãy mặc các y này!
Thế là nàng cùng các bạn ra đi tắm dưới sông, để chiếc áo đỏ trên bờ. Lúc ấy, một vị đệ tử của đức Phật Kassapa (Ca-diếp) vừa bị cướp mất y, đang mặc những mảnh lá cây dùng làm y trong và y ngoài đang đi đến chỗ này.
Thấy vị này, nàng nghĩ:
– Vị Thánh nhân này chắc bị cướp mất y. Ngày xưa ta cũng vậy, vì không có ai cho y nên thật khó kiếm ra một chiếc.
Nàng liền quyết định chia chiếc y làm đôi, cho vị này một nửa, vì vậy nàng bước lên bờ mặc chiếc áo cũ vào và thưa:
– Xin Thánh giả nán lại.
Nàng đảnh lễ vị Tỷ-kheo và xé chiếc y đỏ làm đôi, cúng vị kia một nửa.
Sau đó, vị này đứng nghiêng một bên trong một nơi kín đáo, ném chiếc y bằng lá cây ra, lấy một mảnh áo làm y trong và mảnh kia làm y ngoài rồi bước ra giữa khoảng không, cả người chói rực lên nhờ màu sắc huy hoàng của chiếc y như thể vầng dương mới xuất hiện.
Thấy vậy, nàng suy nghĩ: “Vị Thánh nhân này trước đây trông không sáng chói, thế mà bây giờ ngài rực rỡ như vầng dương mới xuất hiện. Thôi để ta cúng dường ngài thêm cái này nữa.” Nàng liền cúng nửa áo kia và phát nguyện:
– Thưa Thánh giả, con xin nguyện kiếp sau sẽ được sắc đẹp tuyệt trần. Hễ ai thấy con đều không tự chủ được và không nữ nhân nào đẹp hơn con cả!
Vị Tỷ-kheo cảm tạ nàng và ra đi. Sau một kiếp luân hồi trong thiên giới, nàng tái sanh vào thành Ariṭṭhapura và diễm lệ như đã được tả trên đây.
Lúc bấy giờ, trong kinh thành, dân chúng mở hội Kattikā vào ngày rằm trăng tròn tháng Mười âm lịch, họ trang hoàng cả kinh thành. Khi Ahipāraka đi đến trạm canh phòng, chàng dặn dò nàng:
– Phu nhân Ummadantī, hôm nay là ngày hội Kattikā, đức vua dự đám rước linh đình khắp kinh thành, trước tiên sẽ đến trước cửa nhà ta. Vậy phu nhân đừng lộ diện, e ngài thấy phu nhân sẽ không chế ngự được tâm tư ngài.
Trong lúc chàng từ giã nàng, nàng đáp:
– Thiếp xin lưu tâm việc ấy.
Vừa khi chàng đi khuất, nàng liền ra lệnh nữ tỳ phải báo cho nàng biết ngay khi vua tới cổng nhà nàng. Thế rồi vào lúc mặt trời lặn, mặt trăng hiện lên, đèn đuốc sáng rực, khắp kinh thành vừa được trang hoàng như thể một kinh thành của chư thiên. Đức vua phục sức vô cùng lộng lẫy, ngự trên vương xa tuyệt đẹp do các tuấn mã kéo cùng quần thần theo hầu, đi vòng quanh kinh thành với vẻ uy nghi cao cả. Trước tiên, ngài đến trước cửa nhà Ahipāraka.
Lúc bấy giờ, ngôi dinh thự này đứng trong bức tường bao quanh màu son đỏ thắm với các cổng cao và tháp canh được trang hoàng rất sang trọng, rực rỡ. Vừa khi ấy, nữ tỳ đưa tin hoàng thượng giáng lâm, nàng Ummadantī ra lệnh đem đến một giỏ hoa, nàng lại đứng gần bên cửa sổ ném hoa xuống khắp mình vua với tất cả dáng điệu mê hồn của một thiên thần.
Thoạt nhìn lên thấy nàng, vua như ngây ngất điên cuồng và không thể nào tự chủ được tâm trí nên ngài không còn nhận ra nơi đây là tư thất của Đại tướng quân Abhipāraka. Vì vậy, ngài ngâm hai vần kệ hỏi người quản xa:
57. Kia nhà ai đó, hỡi Sunanda,
Bao bọc thành cao, tỏa ánh vàng,
Bảo vật này như sao sáng rực,
Hay thiều quang chiếu đỉnh cao san?
58. Chắc nàng con gái chốn khuê môn,
Chính chủ nhà, hay vợ cậu tôn,
Chỉ một lời, mau cho trẫm biết,
Có chồng hay chưa được cầu hôn?
Người quản xa đáp lời vua qua hai vần kệ:
59. Chuyện ấy, Đại vương hỏi hạ thần,
Đôi bên cha mẹ, thảy am tường,
Chồng nàng tận tụy ngày đêm vẫn,
Phụng sự quân vương đủ mọi đường.
60. Đại thần này chính của Anh quân,
Phú quý vinh hoa hưởng trọn phần,
Mệnh phụ Ahipāraka lừng lẫy ấy,
Lọt lòng được gọi Ummadantī.
Nghe vậy, vua ngâm kệ tán tụng tên nàng:
61. Trời hỡi! Tên kia thật bất tường,
Song thân nàng đã đặt cho nàng,
Ummadantī, từ lúc nàng nhìn trẫm,
Trẫm bỗng hóa ra kẻ dại cuồng.
Trông thấy vua dao động như thế, nàng vội đóng cửa sổ lại và đi thẳng vào khuê phòng. Còn vua từ lúc trông thấy nàng, chẳng còn thiết gì đến việc đi dự đám rước linh đình quanh kinh thành nữa. Ngài bảo người quản xa:
– Này Hiền hữu Sunanda, hãy dừng xe lại! Ðám hội này không hợp với ta nữa, nó chỉ hợp với Ahipāraka, Đại tướng quân của ta thôi. Ngai vàng cũng xứng đáng với vị ấy hơn ta.
Và khi vương xa dừng lại, ngài trở về hoàng cung, vào nằm nghỉ trên long sàng và nói huyên thuyên mê mẩn:
62. Ngọc nữ mắt nai thật dịu hiền,
Trăng rằm vằng vặc mới vừa lên,
Ngắm nàng trong áo bồ câu trắng,
Ta tưởng đôi vầng nguyệt hiện tiền.
63. Thu ba gợn sóng mắt long lanh,
Quyến rũ hồn như sét ái tình,
Nào khác yêu tinh trên đỉnh núi,
Dáng yêu kiều chiếm trọn tim mình.
64. Tố nga huyền bí thật cao vời,
Bảo ngọc lung linh dưới mỗi tai,
Mình chỉ khoác xiêm y độc nhất,
Rụt rè như vẻ một con nai.
65. Các móng tô son, cuốn tóc mây,
Chiên-đàn tỏa ngát dịu đôi tay,
Búp măng duyên dáng, ôi kiều nữ,
Ðến thuở nào cười với trẫm đây?
66. Bao giờ thục nữ có lưng thon,
Trước ngực phô trương món bội hoàn,
Ðôi cánh tay mềm ôm trẫm chặt,
Khác nào cát lũy bám cây rừng?
67. Nàng điểm chấm son sáng rực lên,
Ngực tròn, ngọc nữ trắng như sen,
Bao giờ trao nụ hôn cho trẫm,
Như rượu nồng đưa đến bợm ghiền.
68. Nàng đứng kia, ta chợt thấy nàng,
Cực kỳ diễm lệ trước long nhan,
Không còn tự chủ lòng ta nữa,
Hồn vía quẳng đâu, trí biến tan.
69. Khi ta chiêm ngưỡng dáng Umma,
Sáng rực đôi tai điểm ngọc hoa,
Như kẻ bị đền tiền phạt nặng,
Ngày đêm chẳng chợp mắt phần ta.
70. Nếu được trời ban, trẫm ước nguyền,
Trẫm làm đại tướng một hai đêm,
Hưởng đời cùng với Ummadantī ấy,
Ðể tướng Ahipāraka trị nước liền.
Sau đó, các vị cận thần nói với tướng Ahipāraka:
– Thưa chủ tướng, đức vua đang lúc dự đám rước linh đình khắp kinh thành đã đi đến cửa dinh của ngài rồi trở về cung ngay.
Ahipāraka liền về nhà hỏi Ummadantī xem nàng có xuất hiện trước mắt vua không. Nàng bảo:
– Thưa phu quân, có một lão bụng bự, răng hô đứng trên vương xa đến đây. Tiện thiếp không biết là đức vua hay vương tử, nhưng nghe bảo đó cũng là một vị vương gia nào đó nên tiện thiếp đang lúc đứng trên cửa sổ liền ném hoa xuống người ấy. Sau đó, người ấy liền quay xe bỏ đi mất.
Nghe nói vậy, chàng bảo:
– Thôi nàng đã hại ta tàn đời rồi!
Sáng sớm hôm sau lên đến cung vua, chàng đứng trước cửa vương thất và nghe vua đang nói huyên thuyên về nàng Ummadantī, chàng suy nghĩ: “Ðức vua đang si tình Ummadantī, nếu không chiếm được nàng, ngài sẽ chết mất. Vậy bổn phận ta là phải cứu sống ngài, nếu ta làm việc ấy mà không gây tội lỗi cho ngài hoặc cho ta.” Thế là chàng trở về nhà, gọi một tên gia nô bạo gan đến và bảo:
– Này hiền hữu, ở chốn kia có một gốc cây thân rỗng, trong ấy là đền thờ thần. Hiền hữu đừng cho ai biết cả, đợi lúc sẩm tối hãy đến ngồi trong bọng cây ấy. Ta sẽ đến đó cúng lễ dâng thần thánh và sẽ cầu nguyện như vầy: “Tâu Thiên vương, đức vua của chúng thần, trong lúc đám rước đang diễu hành, ngài đã không dự vào, lại về cung thất nằm nói lảm nhảm không đâu, chúng thần không hiểu cớ gì. Ðức vua đã từng là đại ân nhân của chư thần, hằng năm đã chi tiêu vào việc cúng tế cả ngàn đồng tiền vàng. Xin Thiên vương cho biết tại sao đức vua lại nói nhảm như vậy và xin ban cho chúng thần một điều ước để cứu mạng ngài”, ta sẽ khấn như vậy, và Hiền hữu hãy nhớ lặp lại những lời này: “Này Đại tướng, đức vua chẳng bệnh tật gì cả, song ngài đang si tình phu nhân Ummadantī đấy. Nếu ngài chiếm được nàng, ngài sẽ sống, bằng không e ngài phải chết. Nếu Đại tướng muốn cho ngài sống thì hãy dâng nàng Ummadantī cho ngài”, Hiền hữu nhớ nói như vậy!
Sau khi dặn dò gã ấy xong, chàng bảo gã ra đi. Thế là hôm sau, người gia nô đến ngồi trong bọng cây kia và khi vị đại tướng đến nơi cầu khấn, gã ấy đọc lại đủ điều đã nói ở trên. Ðại tướng bảo:
– Tốt lắm!
Rồi đảnh lễ vị thần xong, đại tướng đến kể chuyện với các vị đại thần của vua, sau đó vào cung, gõ cửa cung thất của vua. Vua đã hồi tỉnh và hỏi ai đó.
– Tâu Thánh thượng, hạ thần là Ahipāraka.
Rồi chàng mở cửa cung thất, bước vào làm lễ triều kiến vua và ngâm vần kệ:
71. Quỳ trước đền thiêng, tấu Ðại vương,
Thần nghe quỷ nói chuyện phi thường:
“Ummadantī mê hoặc lòng Kim thượng”
Mong Chúa thỏa tâm nguyện tuyển nàng.
Vua liền hỏi:
– Này Hiền hữu Ahipāraka, ngay các vị thần dạ-xoa cũng biết trẫm đang nói ngông cuồng vì say mê nàng Ummadantī đấy ư?
– Tâu Thánh thượng, quả vậy.
Vua nghĩ thầm: “Việc hèn hạ xấu xa kia của trẫm đã bị khắp thế gian biết cả rồi” và ngài cảm thấy hổ thẹn khôn cùng. Vừa khi lấy lại được sự bình tĩnh vững vàng, ngài ngâm vần kệ sau:
72. Phước trời chẳng hưởng, trẫm đành sa,
Thế giới đều hay đại tội ta,
Phải biết lòng khanh đầy khổ não,
Nếu khanh chẳng gặp lại Umma.
Các vần kệ sau đây là do hai vị đối đáp xen kẽ:
[Ðại tướng:]
73. Trừ Ðại vương cùng với hạ thần,
Việc kia ai biết giữa trần gian?
Umma tặng vật, xin dâng chúa,
Phỉ nguyện rồi đem trả lại nàng.
[Quân vương:]
74. Kẻ ác nghĩ không một thế nhân,
Hẳn từng chứng kiến tội ta làm,
Song toàn việc ấy đều hay biết,
Bởi các Thánh nhân lẫn quỷ thần.
75. Dù khanh có bảo chẳng yêu nàng,
Ðiều ấy, ai tin giữa thế gian?
Phải biết lòng khanh đầy khổ não,
Nếu khanh chẳng gặp lại phu nhân.
[Ðại tướng:]
76. Nàng quý yêu như mạng sống mình,
Thực là vợ thắm thiết bao tình,
Song hoàng thượng đến Umma gấp,
Như hổ, sư về thạch động nhanh.
[Quân vương:]
77. Bậc Trí dù đau khổ ngập tràn,
Cũng không bỏ việc tạo bình an,
Kẻ ngu dù đắm chìm hoan lạc,
Tội lỗi thế kia chẳng dám làm.
[Ðại tướng:]
78. Bởi Ðại vương là dưỡng phụ thân,
Là Thiên đế, chúa tể thần dân,
Thê nhi xin hiến làm nô lệ,
Thánh thượng Sivi, hãy đẹp lòng!
[Quân vương:]
79. Kẻ làm hại bạn chẳng ăn năn,
Bảo chính đây là chúa vạn năng,
Chỉ nửa đời thôi e khó sống,
Thánh thần thấy vậy chẳng bằng lòng.
[Ðại tướng:]
80. Nếu chánh nhân thâu nhận lễ dâng,
Do người tình nguyện, tấu Minh quân,
Vậy người đem tặng cùng người nhận,
Làm việc thành công, quả lạc an.
[Quân vương:]
81. Dù khanh có bảo chẳng yêu nàng,
Ðiều ấy ai tin giữa thế gian?
Phải biết lòng khanh đầy khổ não,
Ví khanh chẳng gặp lại phu nhân.
[Ðại tướng:]
82. Nàng thiết thân như mạng sống thần,
Thật nàng là vợ quý vô ngần,
Umma tặng vật, xin dâng hiến,
Thỏa nguyện rồi đem trả lại nàng.
[Quân vương:]
83. Làm mình khỏi khổ, hại cho người,
Kẻ khác mất vui, dạ vẫn tươi,
Chẳng cảm niềm đau người khác khổ
Như mình, chẳng biết chánh chân rồi.
[Ðại tướng:]
84-85. Nàng quý như đời sống, Ðại vương,
Thật nàng được ái luyến khôn lường,
Thần dâng bảo vật, không hoài của,
Như vậy người cho đã hưởng phần.
[Quân vương:]
86. Ta có thể làm hại bản thân,
Vì thèm dục lạc của phàm nhân,
Song ta quyết chẳng bao giờ dám,
Làm hại điêu tàn bậc chánh chân.
[Ðại tướng:]
87. Ví thử Minh quân phải khước từ,
Chỉ vì nàng, vợ hạ thần ư?
Từ nay giải phóng nàng, từ biệt,
Xin triệu nô tỳ với chiếu thư.
[Quân vương:]
88. Ví dù đại tướng hại thân mình,
Lìa bỏ phu nhân chẳng tội tình,
E phải chịu bao lời khiển trách,
Chẳng hề ai nói đúng công bình.
[Ðại tướng:]
89. Mặc lời khiển trách, mặc than phiền,
Ðể mặc lời bình phẩm ngợi khen,
Trút xuống hạ thần như ý muốn,
Trước tiên ước chúa thỏa tâm nguyền.
[Quân vương:]
90. Kẻ không màng đến việc khen chê,
Chỉ trích, tuyên dương, chẳng sá gì,
Tài sản, vinh quang đều biến mất,
Như cơn lũ rút, đất khô đi.
[Ðại tướng:]
91. Bất cứ lạc hay khổ nảy sinh,
Vượt qua ngay, hoặc não lòng mình,
Thần xin đón nhận dù ưu, hỷ,
Như đất khoan dung cả dữ, lành.
[Quân vương:]
92. Ta chẳng muốn người khác khổ đau,
Làm càn cho bạn phải ưu sầu,
Gánh sầu mang nặng, mình riêng chịu,
Chân chánh, không làm vướng bận nhau.
[Ðại tướng:]
93. Thiện hành dẫn dắt tới thiên đường,
Xin chớ cản chân, tấu Ðại vương,
Tặng vật Umma, thần cống hiến,
Như vua ban thưởng bậc Sa-môn.
[Quân vương:]
94. Khanh đối cùng ta thật chí thành,
Khanh và hiền nội, bạn chân tình,
Ðạo nhân, thần thánh đều chê trách,
Nguyền rủa ta mang mãi nặng mình.
[Ðại tướng:]
95. Thần chắc dân quê đến thị dân,
Chẳng hề than chúa thiếu công bằng,
Vì Umma, chính thần dâng hiến,
Thỏa nguyện rồi đem trả lại thần.
[Quân vương:]
96. Khanh cùng trẫm quả thật ân cần,
Khanh với phu nhân chính bạn vàng,
Chánh nghiệp thiện nhân vang vọng khắp,
Chánh hành khó vượt, tựa triều dâng.
[Ðại tướng:]
97. Tâu Chúa công, ban thưởng hạ thần,
Những gì thần ước, đại ân nhân,
Xin hoàn gấp bảy quà thần tặng,
Xin nhận lấy nàng, của biếu không.
[Quân vương:]
98. Tri kỷ Ahipāraka quả thật tình,
Theo đường chân chánh tự xuân xanh,
Ðâu còn ai nữa trong nhân thế,
Nỗ lực cho ta được tốt lành?
[Ðại tướng:]
99. Tấu Minh quân, hiển hách vô song,
Thông hiểu chánh hành, Đại Trí nhân,
Vạn tuế pháp vương đầy chánh hạnh,
Tránh đường tà, dạy bảo cho thần.
[Quân vương:]
100. Ðến đây, Ðại tướng Ahipāraka,
Hãy lắng nghe lời nói của ta,
Ta sẽ dạy khanh toàn chánh đạo,
Thực hành bởi các thiện nhân xưa!
101. Vua cầu chánh pháp, được ân trời,
Bậc Trí tối ưu giữa mọi người,
Không phản bạn lành là thiện hảo,
Tránh đường tà, cực lạc cao vời.
102. Dưới quyền đức độ của minh quân,
Như bóng cây che nắng trú thân,
Tất cả thần dân đều lạc nghiệp,
Hưởng đời phú quý mãi gia tăng.
103. Việc ác, nào ta có tán đồng,
Dù là vô ý vẫn sai lầm,
Ngu si là tội ta khinh ghét,
Nghe ví dụ này khắc tận tâm.
104-05. Bò già đi lạc giữa dòng sông,
Cả đám bò con lạc bước luôn,
Vậy nếu trưởng đoàn đi lạc lối,
Mục tiêu hạ liệt lại đưa đường,
Cả đoàn thấp kém liền theo gót,
Cả nước than “thời loạn nhiễu nhương.”
106-07. Song nếu bò cha dẫn đúng dòng,
Ðàn bò thẳng tiếp bước sau lưng,
Vậy khi tướng lãnh theo chân chánh,
Dân chúng sẽ cùng tránh bất công,
Thanh tịnh, an bình liền phát khởi,
Khắp miền cương thổ với non sông.
108. Ví dầu trẫm được cả trần gian,
Cũng chẳng làm sao, hỡi tướng quân,
Trẫm chẳng thể nào gây ác nghiệp,
Mà mong đạt đến cõi thiên đàng.
109-10. Những gì quý giá giữa nhân gian,
Nô lệ, bò trâu với bạc vàng,
Tuấn mã, xiêm y, kho của cải,
Ngọc châu sáng rực, gỗ chiên-đàn,
Mọi nơi nhật nguyệt ngày đêm chiếu,
Ðổi lấy bất công cũng chẳng màng,
Trẫm vốn Sivi dòng quý tộc,
Người cai trị chính đáng công bằng.
111. Làm cha, lãnh đạo, giữ giang sơn,
Trẫm bảo tồn quyền lợi nước non,
Trẫm quyết trị dân theo chánh đạo,
Chẳng còn ai lệ thuộc riêng phần.
[Ðại tướng:]
112. Luật pháp Ðại vương thật tốt lành,
Mong ngài ngự trị hưởng trường sinh,
Dẫn đường đưa nước nhà an lạc,
Cường thịnh nhờ ngài đại trí minh.
113. Hân hoan tràn ngập chúng thần dân,
Vì Ðại vương chân chánh nhiệt tâm,
Các bạo chúa nào quên chánh đạo,
Từ nay ắt phải mất ngai vàng.
114. Với xuân huyên là đấng song thân,
Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
Nhờ tiến bước lên theo chánh đạo,
Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
115. Với hoàng nam, chánh hậu, cung tần,
Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
Nhờ tiến bước lên theo chánh đạo,
Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
116. Với bao bằng hữu, các triều thần,
Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
Nhờ tiến bước lên theo chánh đạo,
Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
117. Trong chinh chiến hoặc bước hành trình,
Xin Ðại vương chân chánh thực hành,
Nhờ tiến bước lên theo chánh đạo,
Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
118. Nơi thôn dã hoặc chốn kinh thành,
Xin Ðại vương chân chánh thực hành,
Nhờ tiến bước lên theo chánh đạo,
Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
119. Mọi miền quốc độ khắp giang sơn,
Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
Nhờ tiến bước lên theo chánh đạo,
Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
120. Với La-môn, các bậc Sa-môn,
Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
Nhờ tiến bước lên theo chánh đạo,
Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
121. Với loài súc vật, các chim muông,
Xin thực hành chân chánh, Ðại vương,
Nhờ tiến bước lên theo chánh đạo,
Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
122. Thực hành chân chánh, tấu Quân vương,
Do đấy nguồn ân phước tưới tràn,
Nhờ tiến bước lên theo chánh đạo,
Ðại vương sẽ đạt đến thiên đường.
123. Chính nhờ tỉnh giác, tấu Quân vương,
Thiện đạo tiến lên vững bước luôn,
Giáo sĩ, chư thiên và Đế-thích,
Từ xưa đã đạt đến thiên đường.
Khi vua nghe Đại tướng Ahipāraka thuyết pháp như vậy xong, ngài đoạn trừ hết lòng tham đắm đối với nàng Ummadantī.
***
Sau khi chấm dứt pháp thoại, bậc Ðạo sư thuyết giảng các Thánh đế và nhận diện tiền thân:
– Thời bấy giờ, Ānanda (A-nan) là người lái xe Sunanda, Sāriputta (Xá-lợi-phất) là Tướng quân Ahipāraka, Uppalavaṇṇā (Liên Hoa Sắc) là nàng Ummadantī, các đệ tử của Như Lai là các triều thần và Ta chính là Vua Sivi.
Vào đoạn kết thúc các Thánh đế, vị Tỷ-kheo kia đã được an trú vào Sơ quả (Dự lưu).
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.