Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 07  » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »

Kinh Tiểu Bộ Quyển 3 
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch

Mục Lục

§526. CHUYỆN CÔNG CHÚA NAḶINIKĀ (Naḷinikājātaka)[1] (J. V. 193)

Nhìn kia, mặt đất cháy khô cằn...

Câu chuyện này bậc Đạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc một Tỷ-kheo bị người vợ trước đây cám dỗ.

Khi kể chuyện này, Ngài hỏi vị Tỷ-kheo:

– Vì ai mà ông khởi tâm ham muốn.

Ông đáp:

– [Bạch Thế Tôn], vì người vợ cũ.

Bậc Đạo sư bảo:

– Quả vậy, này Tỷ-kheo, nữ nhân ấy đã làm hại ông. Ngày xưa, chính vì nàng ấy mà ông đã sa đọa mất hết thiền lực và bị sụp đổ hoàn toàn.

Nói xong, Ngài kể câu chuyện quá khứ.

***

Ngày xưa, khi Vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát tái sinh vào một gia đình Bà-la-môn giàu có ở phương Bắc. Khi ngài khôn lớn và đã được huấn luyện đủ các môn học thuật, ngài xuất gia làm ẩn sĩ. Sau khi đạt được thần lực nhờ tu tập thiền định, ngài vào trú ẩn tại Tuyết Sơn.

Giống như câu chuyện được kể trong Chuyện thiên nữ Alambusā,[2] một con nai cái đã thụ thai vì ngài và hạ sinh một nam tử được đặt tên là Isisiṅga. Khi cậu bé lớn khôn, cha cậu truyền giới cho cậu và dạy cậu đủ mọi pháp môn đưa đến thiền định. Nhờ pháp môn này, không bao lâu chàng đạt được thần lực và hưởng thú cực lạc trong miền Tuyết Sơn, rồi nhờ pháp khổ hạnh, chàng trở thành một bậc Hiền trí chuyên tu khổ hạnh, đến độ cung của Thiên chủ Sakka (Đế-thích) bị rúng động vì đức độ của chàng.

Thiên chủ suy xét, tìm ra nguyên nhân liền suy nghĩ: “Ta phải tìm cách phá tan công hạnh của vị này.” Trong khoảng ba năm liền, trời ngưng không đổ mưa xuống quốc độ Kāsi, xứ sở này bị khô cằn nứt nẻ, không một vụ mùa nào có kết quả cả. Dân chúng bị nạn đói bức bách liền tụ tập trước sân chầu và oán trách vua. Đứng trước cửa sổ mở rộng, vua hỏi họ có việc gì. Dân chúng tâu:

– Tâu Thánh thượng, trong ba năm liền, mưa trên trời không rơi xuống, cả nước bị khô cháy, dân chúng vô cùng khổ sở, xin Thánh thượng hãy cầu trời mưa!

Vua phát nguyện giữ đức độ, hành trì ngày trai giới, nhưng vẫn không có mưa xuống. Rồi vào lúc nửa đêm, Thiên chủ Sakka giáng hạ tại hoàng cung, vừa chiếu sáng lòa khắp vùng vừa đứng trên không. Vua thấy ngài liền hỏi:

– Ngài là ai?

Ngài đáp:

– Ta là Thiên chủ Sakka.

– Tại sao ngài giáng thế?

– Này Đại vương, mưa có rơi trên quốc độ của ngài chăng?

– Không có mưa rơi.

– Thế ngài có biết tại sao chăng?

– Trẫm không biết.

– Trên vùng Tuyết Sơn, này Đại vương, có một ẩn sĩ tên là Isisiṅga. Vị này hành trì khổ hạnh hết sức khắc nghiệt; khi trời sắp mưa, ông giận dữ nhìn lên trời khiến mưa ngưng lại.

– Vậy phải làm sao đây?

– Nếu công hạnh vị này sụp đổ thì mưa sẽ rơi xuống.

– Nhưng ai có thể chiến thắng đức độ của vị ấy?

– Này Đại vương, Công chúa Naḷinikā của ngài có thể làm được việc này. Xin hãy triệu nàng đến đây và bảo nàng đến nơi đó phá tan công hạnh của vị ẩn sĩ kia!

Sau khi khuyên bảo vua như thế xong, Thiên chủ trở về cõi của ngài. Ngày hôm sau, vua hội ý với quần thần và triệu công chúa đến, bảo nàng qua vần kệ đầu:

  1. Nhìn kia, mặt đất cháy khô cằn,

Quốc độ chìm trong cảnh lụi tàn,

Con hỡi, Naḷinikā, đi đến đó,

Khiến La-môn nọ phải quy hàng.

Nghe lời này, nàng đáp vần kệ thứ hai:

2. Làm sao con chịu được gian nan,

Khi giữa bầy voi, lạc bước đàng,

Trong chốn rừng xanh xa vắng ấy,

Làm sao cất bước được bình an?

Vua cha lại ngâm hai vần kệ:

3. Con hỡi, đi về mỹ lạc cung,

Rồi từ đấy phải vội rời chân,

Lên xe gỗ được trang hoàng khéo,

Ngự giá, công nương tiến thẳng đường.

4. Chiến mã, tượng cùng với bộ binh,

Chỉnh tề hàng ngũ hãy bao quanh,

Với mê hồn sắc, con cần kíp,

Khiến đạo nhân kia quy lụy mình.

Như vậy, vì muốn bảo vệ quốc độ, vua đã nói với công chúa những việc không nên nói bằng những lời trên. Nàng bằng lòng tuân theo lệnh cha. Thế là sau khi cung cấp cho nàng đủ mọi thứ cần thiết, vua bảo nàng lên đường cùng những cận thần kia.

Họ đi đến gần biên giới và sau khi đóng trại ở đó, họ đưa công chúa đi theo con đường do các sơn nhân chỉ dẫn. Rạng ngày hôm sau, họ vào đến vùng Tuyết Sơn, tiến sát vùng ẩn am ấy. Lúc bấy giờ, Bồ-tát để con trai ở lại thảo am, còn ngài đã vào rừng hái quả dại. Các sơn nhân đến gần vùng thảo am, đứng ở nơi có thể nhìn thấy rõ, vừa chỉ lều cho Naḷinikā vừa ngâm kệ:

5. Nổi bật với hàng chuối lá xanh,

Giữa ābhujī khóm, lắm cây cành,

Nhìn xem, lều của Isisiṅga đấy,

Xinh đẹp hiện ra một mái tranh.

6. Chắc rằng lắm khói ở đằng kia,

Phát xuất từ trong lửa tỏa ra,

Được ấp ủ nhờ tay bậc Trí,

Nổi danh thần lực thật cao xa.

Đúng lúc Bồ-tát đã đi vào rừng, các cận thần của vua đã vào bao vây vùng ẩn cư ấy và canh chừng kỹ. Họ cho công chúa giả dạng một ẩn sĩ khổ hạnh, khoác lên mình nàng đủ y trong, y ngoài bằng vỏ cây đẹp có tô điểm mọi thứ trang sức rồi bảo nàng cầm một quả cầu được vẽ màu, buộc vào một sợi dây và đưa nàng vào vùng am tranh kia, còn họ đứng canh bên ngoài. Thế là vừa chơi quả cầu, nàng vừa tiến vào am thất ấy.

Lúc bấy giờ, Isisiṅga đang ngồi trên phiến đá đặt tại cửa lều, thoạt trông thấy nàng tiến đến, chàng kinh hoảng đứng dậy chạy trốn vào trong. Nàng cứ tiến lại gần cửa lều và tiếp tục chơi quả cầu.

***

Bậc Đạo sư ngâm ba vần kệ để làm sáng tỏ việc này:

7. Tô điểm bảo châu, tiến lại gần,

Một nàng kiều nữ sáng huy hoàng,

Isisiṅga tội nghiệp liền kinh hoảng,

Vội bước vào am, chốn ẩn thân.

8. Lúc đứng trước thềm của đạo nhân,

Công nương đùa với quả cầu tròn,

Thân hình diễm lệ nàng phô diễn,

Lồ lộ hiện ra trước mắt chàng.

9. Chàng thấy nàng đùa thế thật hay,

Từ trong, chàng vội phóng ra ngay,

Vụt nhanh từ túp lều tranh ấy,

Chàng thốt ra lời lẽ thế này.

10. “Quả cây gì đó, dám thưa ngài,

Dù có tung xa tít tận trời,

Cũng sẽ quay về ngài như vậy,

Chẳng bao giờ quả bặt tăm hơi?”

Nàng đáp vần kệ này, nói cho chàng biết về cây kia:

11. Đỉnh Hương Sơn nọ, chính quê nhà,

Vốn tự hào khoe chốn tệ gia,

Có thật nhiều cây sinh quả ấy,

Dù tung cao vút tận trời xa,

Vẫn còn trở lại tay lần nữa,

Chẳng có bao giờ lạc mất ta.

Nàng nói dối như vậy, nhưng chàng tin nàng ngay, cứ tưởng đấy là một vị tu khổ hạnh nên chàng ân cần chào đón nàng và ngâm vần kệ này:

12. Xin vào an tọa, hỡi Hiền nhân,

Nhận thức ăn và nước rửa chân,

An nghỉ đây, cùng nhau thọ dụng,

Chùm dâu, khoai ấy sẵn lòng dâng.

Nàng đi vào lều, ngồi trên sàn gỗ, cởi hai lớp y vàng ra, lộ thân trần. Vì chưa từng nhìn thấy thân thể của nữ nhân nên khi thấy vậy, ẩn sĩ cho là thân thể này thật đẹp và nói rằng:

13. Cái gì ở giữa hai đùi ông,

Trông dễ thương và có sắc đen,

Xin hãy trả lời ta được rõ,

Bọc trong là của quý phải chăng?

Rồi nàng nói dối chàng qua vần kệ:

14. Khi đi tìm củ, quả trong rừng,

Thiếp đã làm phiền con gấu hung,

Thiếp bị ngã lăn, nó bắt được,

Vội cầm của quý nhổ cho phăng.

15. Vết thương trở thành rát, ngứa đây,

Làm thiếp thấy không dễ chịu gì,

Chàng hãy triệt tiêu cơn ngứa ấy,

Chàng hành hạnh Bà-la-môn đi!

Ẩn sĩ tin lời nói dối kia là sự thật hiển nhiên, chàng nghĩ nếu như vậy thì chàng sẽ thực hiện. Chàng nhìn vào chỗ ấy và nói vần kệ:

16. Vết thương có vẻ sâu và đỏ,

Không có mùi máu mủ thối đâu,

Ta sẽ làm cho ngài loại thuốc,

Khiến ngài dễ chịu nhất, không lo!

Vậy là đúng ý nên nàng ngâm vần kệ:

17. Dùng chú thuật, cao dán, cỏ cây,

Cũng không vào thấm được, thưa ngài,

Hãy trừ bằng vật mềm chàng có,

Như thế thiếp đây dễ chịu ngay.

Chàng cho rằng điều nàng nói là thật nên không biết rằng giới hạnh bị mất do việc hành dâm, thiền lực thì tiêu tan; chàng đã bị cuốn theo lòng dâm dục của nàng vì nàng nói đó là “thuốc trị”, bởi chàng không biết về việc hành dâm với nữ nhân chưa từng thấy trước đây. Chàng thực hiện hai, ba lần, rồi mệt mỏi và đi xuống hồ tắm rửa; và khi đã hết cơn mệt, chàng trở về ngồi trong lều, vẫn còn tưởng nàng là một ẩn sĩ; một lần nữa chàng hỏi nàng ở nơi đâu và ngâm kệ này:

18. Ngài đã đến đây bởi lối nào,

Hẳn ngài thích ở núi ngàn cao,

Đói lòng ăn trái sim, khoai sắn,

Song thú săn mồi tránh được sao?

Tiếp theo, Naḷinikā đáp bốn vần kệ:

19. Hướng Bắc vùng đây, suối Thái Hòa,

Chảy xuôi từ dãy Tuyết Sơn ra,

Trên bờ, thắng cảnh ôi kỳ thú,

Nhìn thấy ẩn am ấy của ta.

20. Đây xoài, tilaka với sāla,

Nở rộ hoa kèn với quế hoa,

Khúc hát yêu tinh văng vẳng lại,

Thưa chàng nơi ấy thấy nhà ta.

21. Ta đoán chà là, củ sắn khoai,

Nhìn đây đủ loại trái cây tươi,

Một nơi vui đẹp và thơm ngát,

Đã lọt phần ta chiếm hết rồi.

22. Mọi thứ mơ, dâu, đậu mọc tràn,

Ngọt ngào, tươi đẹp ngát hương lan,

Song ta sợ lũ cường gian đến,

Sẽ phá nhà ta, chốn lạc an.

Chàng ẩn sĩ nghe nói vậy, muốn cầm chân nàng lại cho tới khi thân phụ chàng về liền ngâm kệ này:

23. Thân phụ đi tìm quả thật xa,

Mặt trời khuất bóng, sẽ về nhà,

Khi người trở lại từ rừng ấy,

Ta sẽ cùng đi viếng đại gia.

Lúc ấy, nàng suy nghĩ: “Chàng trai này sinh trưởng trong rừng nên không biết ta là nữ nhân, chứ cha chàng sẽ biết ngay điều đó khi vừa thấy ta và sẽ hỏi ta có việc gì mà đến đây, ngài sẽ đánh vỡ đầu ta với cái đòn gánh của ngài. Thôi, chắc ta phải chạy trốn trước khi ngài trở về, vì mục đích ta đến đây đã hoàn thành.” Rồi dặn chàng cách tìm đường đi đến nhà nàng, nàng ngâm thêm một vần kệ nữa:

24. Ôi! Ta ngại chẳng ở lâu hơn,

Song tại nơi này, lắm Thánh nhơn,

Xin hỏi một ngài đưa đúng lối,

Hân hoan ngài hướng dẫn lên đường.

Khi nàng nghĩ ra một kế để thoát thân như vậy, nàng liền rời vùng thảo am và bảo chàng cứ ở lại nơi này trong lúc chàng khao khát nhìn theo. Nàng trở về gặp các triều thần theo đúng con đường nàng đã đến trước kia, rồi họ đưa nàng về trại và vượt qua nhiều trạm đường, họ đã về đến thành Ba-la-nại.

Ngay hôm ấy, Thiên chủ Sakka đẹp ý đến độ ngài làm mưa rơi xuống trên khắp quốc độ này. Nhưng cũng ngay khi nàng từ giã ẩn sĩ Isisiṅga, chàng bỗng dưng nổi cơn nóng sốt khắp toàn thân và chàng run rẩy bước vào trong lều đắp thêm y ngoài bằng vỏ cây rồi nằm xuống rên rỉ.

Buổi chiều thân phụ chàng về, không thấy chàng liền tự hỏi: “Con ta đi đâu rồi?” Ngài vội đặt đòn gánh bước vào trong am và khi thấy chàng nằm đó liền hỏi:

– Này con thân, con đau gì vậy?

Và vừa xoa bóp lưng con, ngài vừa ngâm các vần kệ:

25. Không bổ củi, nước chẳng gánh về,

Lửa không đốt sáng, nói ta nghe,

Này con sao trẻ người non dạ,

Mơ mộng suốt ngày mãi thế kia?

26. Củi rừng vẫn chẻ tự xưa nay,

Lửa đốt, đem nồi nấu đặt ngay,

Sắp sẵn sàng tọa rồi lấy nước,

Con làm bổn phận thật vui vầy.

27. Nay củi không, mà nước cũng không,

Lửa không, thức nấu kiếm hoài công,

Sao con chẳng đón mừng cha nữa,

Con mất gì, sao phải nhọc lòng?

Nghe cha hỏi, chàng liền ngâm các vần kệ giải đáp việc này:

28. Cha hỡi, hôm nay một thiếu niên,

Xinh trai, sang trọng, dáng ưa nhìn,

Chàng không thấp quá, không cao quá,

Làn tóc đen sao tựa hạt huyền.

29. Chàng trẻ không râu, má mịn màng,

Sáng ngời trên cổ, ngọc trang hoàng,

Đôi gò bồng đảo phô kiều diễm,

Sáng tựa kim cầu rực ánh quang.

30. Mặt chàng tuyệt đẹp, mỗi bên tai,

Có một vành khuyên lủng lẳng cài,

Chiếc mạng trên đầu chàng tỏa sáng,

Hào quang khi chuyển nhẹ đôi hài.

31. Chàng trẻ còn mang đủ bội hoàn,

Đỏ, xanh trên áo, tóc tai chàng,

Chàng đi mỗi bước đều rung nhạc,

Ríu rít như chim gặp nước tràn.

32. Chẳng áo vỏ cây dáng đạo nhân,

Chẳng dây đai cỏ thắt vào thân,

Lung linh xiêm áo ôm đùi sát,

Như chớp sáng lòe giữa khoảng không.

33. Quả cây gì buộc cạnh sườn ai,

Mềm mại, không nhành, chẳng có gai,

Bên áo kết vào, buông lủng lẳng,

Chạm vào nhau lách tách rung hoài.

34. Tóc đầu chàng kết đẹp phi thường,

Cuộn tóc hàng trăm, tỏa ngát hương,

Đôi mái tóc này chàng rẽ giữa,

Tóc con cũng ước chải như chàng.

35. Tình cờ chàng thả tóc buông dây,

Bao vẻ yêu kiều gửi gió bay,

Sực nức lều ta miền thảo dã,

Như mùi sen thoảng gió lung lay.

36. Người của chàng xinh, ngắm mỏi mòn,

Thân chàng cao thật khác thân con,

Bay mùi thoang thoảng cùng nơi chốn,

Như khóm hoa hè nở ngát hương.

37. Trái chàng sáng đẹp có nhiều màu,

Trên đất, dù chàng ném thật cao,

Nó cũng về nơi chàng đứng mãi,

Trái gì, con muốn hỏi cha nào.

38. Răng chàng đều đặn, trắng trong ngần,

Mọi vẻ yêu kiều sánh bảo trân,

Chàng hé đôi môi, ôi quyến rũ!

Thức chàng ăn khác củ, rau rừng.

39. Tiếng nói chàng êm dịu, rõ, trong,

Vào tai âm hưởng tận trong lòng,

Xuyên vào tim thật du dương điệu,

Giai khúc sơn ca chẳng sánh bằng.

40. Giọng kia dịu xuống, lắng thâm trầm,

Con chắc dành ngâm tụng chú thần,

Tuy thế chàng ân cần quyến luyến,

Cùng chàng con ước kết thân bằng.

41. Cánh tay chàng ấm, sáng kim ngân,

Như chớp bao lần cuộn lấy thân,

Được phủ lông tơ mềm, các ngón

Như san hô đỏ ửng, tròn dần.

42-43. Tứ chi mềm dịu, tóc buông lơi,

Các móng tay tô đỏ thật dài,

Với cánh tay mềm ôm siết chặt,

Trai xinh tạo khoái lạc cho đời.

44. Tay ngà như lụa chiếu huỳnh quang,

Như tấm gương vàng phản ánh dương,

Chạm nhẹ làm con bừng rúng động,

Chàng đi, lòng đốt nóng như rang.

45-46. Chàng không gánh thóc lúa bao giờ,

Tay của chàng không bổ củi ra,

Cũng chẳng đem rìu cưa gỗ xuống,

Không mang cọc nhọn, đẹp lòng ta.

47. Sàng tọa bằng lá kết giày vò,

Chứng kiến đùa vui, trẻ lắm trò,

Rồi đến hồ kia, con tắm mát,

Xong thèm nghỉ mệt ở trong nhà.

48. Thánh kinh, con chẳng đọc nay mai,

Chẳng đốt lửa thiêng tế lễ đài,

Con sẽ nhịn ăn dâu, củ, đậu,

Đến khi con gặp lại chàng trai.

49. Phụ thân, cho biết, hẳn am tường,

Nơi chốn đạo nhân ở cõi trần,

Con muốn phi thân ngay đến đó,

Bằng không con chết tại tiền đường.

50. Nghe rừng chàng nói rực tươi hoa,

Nhộn suốt ngày chim ríu rít ca,

Con muốn phi thân nhanh đến đó,

Bằng không con chết tại đây mà.

Bậc Đại sĩ nghe chàng trai nói lảm nhảm như vậy thì hiểu ngay chàng đã đánh mất công hạnh vì một nữ nhân nào đó nên ngài ngâm sáu vần kệ để giáo huấn con mình:

51. Ngôi nhà xưa của các Hiền nhân,

Ở giữa rừng này ngập ánh quang,

Nơi ẩn của chư thần, thánh nữ,

Chẳng hề cảm thấy mất an toàn.

52-53. Tình bạn phát sinh sẽ diệt vong,

Mọi người yêu mến các thân nhân,

Song kẻ đáng thương nào có biết,

Nhờ ai, có gốc rễ tình thân.

54-55. Tình bạn kết nhờ gặp gỡ luôn,

Đoạn giao, tình bạn phải tiêu vong,

Nếu con nhìn lại chàng trai ấy,

Như trước cùng trò chuyện thiết thân,

Như lụt cuốn trôi thóc lúa chín,

Công năng đức hạnh bại vong dần.

56. Ma quỷ thường đi khắp thế gian,

Thiên hình giả dạng, hãy coi chừng,

Hiền nhân chẳng kết giao cùng chúng,

Công hạnh tan hoang nếu chúng gần!

Nghe những lời cha dạy, chàng trai suy nghĩ: “Cha ta bảo nàng ấy là một con quỷ cái!” Sau đó, chàng xin cha tha lỗi và nói:

– Thưa thân phụ, xin hãy tha tội cho con, con sẽ không rời nơi này đâu!

Cha chàng liền an ủi chàng, ngài bảo:

– Này con thân, con hãy tu tập từ, bi, hỷ, xả!

Và ngài thuyết giảng cho chàng pháp môn đưa đến chứng đắc tứ vô lượng tâm này. Từ đó, chàng trai thực hành theo lời dạy bảo trên và tu tập thiền định như trước.

***

Khi đã chấm dứt pháp thoại, bậc Đạo sư thuyết giảng các Thánh đế và nhận diện tiền thân:

– Thời ấy, người vợ trước đây của người này là Naḷinikā, Tỷ-kheo bị cám dỗ là Isisiṅga và Ta chính là người cha.

Vào lúc kết thúc các Thánh đế, vị Tỷ-kheo bị cám dỗ đã được an trú vào Sơ quả (Dự lưu).

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.