Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 07  » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »

Kinh Tiểu Bộ Quyển 3 
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch

Mục Lục

§525. CHUYỆN TIỂU SUTASOMA (Cullasutasomajātaka) (J. V. 177)

Hiền hữu, thần dân tụ tập đây...

Câu chuyện này bậc Đạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về sự tu tập viên mãn hạnh xuất gia của Ngài. Phần đầu câu chuyện tương tự với phần đầu trong Chuyện bậc Đại trí Nārada Kassapa.[15]

***

Ngày xưa, tại thành Ba-la-nại, trước đây là kinh thành Sudassana có Vua Brahmadatta trị vì. Chánh hậu của ngài sinh ra Bồ-tát. Khuôn mặt ngài sáng rực như trăng rằm, vì thế ngài được đặt tên Soma (Nguyệt Cung). Khi ngài đến tuổi trưởng thành, vì ngài có nhiều kiến thức và thường xuyên học hỏi nên ngài được mệnh danh là Sutasoma (Soma thông thái).

Đến tuổi khôn lớn, ngài được truyền dạy các môn học thuật tại Takkasilā và sau khi trở về nhà, ngài được vua cha ban chiếc lọng trắng. Ngài trị vì quốc độ rất đúng pháp, cai quản cả một lãnh thổ rộng lớn cùng mười sáu ngàn cung tần với nàng Candā làm chánh hậu. Dần dần, ngài có nhiều hoàng tử, công chúa, ngài đâm nhàm chán với cuộc sống gia đình nên lui vào rừng, mong ước thọ trì giới luật tu hành. Một ngày kia, ngài triệu người hớt tóc vào, phán bảo:

– Khi nào khanh thấy sợi tóc bạc trên đầu trẫm, khanh phải nói cho trẫm biết!

Người hớt tóc tuân lệnh, sau đó thấy một sợi tóc bạc liền tâu với ngài ngay. Vua bảo:

– Vậy khanh hãy nhổ ra và đưa cho trẫm!

Người hớt tóc lấy cái nhíp vàng nhổ ra và đặt vào tay ngài. Bậc Đại sĩ thấy sợi tóc bạc, kêu to:

– Thân ta sắp bị tuổi già tàn phá.

Rồi ngài kinh hoảng cầm sợi tóc bạc bước xuống lầu, ngự lên ngai đặt trước thần dân. Sau đó, ngài triệu tám mươi ngàn triều thần do vị đại tướng cầm đầu và sáu mươi ngàn Bà-la-môn do vị tế sư của triều đình lãnh đạo cùng nhiều cận thần và dân chúng đến, bảo:

– Tóc bạc đã xuất hiện trên đầu trẫm, trẫm đã già rồi, các khanh phải biết rằng trẫm muốn trở thành ẩn sĩ.

Rồi ngài ngâm vần kệ đầu:

195. Hiền hữu, thần dân tụ tập đây,

Quân sư tin cẩn, hãy nghe vầy:

“Giờ đầu tóc bạc ta dần hiện,

Ta muốn trở thành ẩn sĩ ngay.”

Nghe vậy, mỗi người trong số đông kia đều thất vọng ngâm vần kệ này:

196. Bất xứng lời kia đã thốt ra,

Mũi tên Hoàng thượng thấu tim ta,

Bảy trăm cung nữ, tâu Hoàng thượng,

Sẽ thế nào khi Chúa xuất gia?

Tiếp theo, bậc Đại sĩ ngâm vần kệ thứ ba:

197. Kẻ khác sẽ khuyên chúng hết buồn,

Chúng đều kiều diễm, tuổi thanh xuân,

Còn ta hướng đích lên thiên giới,

Nên muốn làm tu sĩ ẩn thân.

Các vị quân sư không thể nào đáp lời vua được liền đi yết kiến thái hậu và trình câu chuyện với bà. Thái hậu liền vội vã đi đến hỏi vua:

– Này Vương nhi, quần thần bảo rằng Vương nhi muốn làm ẩn sĩ có đúng chăng?

Bà lại ngâm hai vần kệ:

198. Than ôi! Ngày bất hạnh như vầy,

Ngày được Vương nhi gọi mẹ đây,

Vì quá vô tình nhìn lệ thảm,

Con làm ẩn sĩ kể từ nay.

199. Bạc phận, than ôi, quả đúng thời,

Soma con trẻ đã chào đời,

Vô tình trước lệ sầu cay đắng,

Sao quyết tu hành, Vương tử ôi!

Trong khi thái hậu than khóc như vậy, Bồ-tát không thốt lên lời nào. Thái hậu vẫn ngồi một mình khóc lóc mãi. Sau đó, quần thần tâu với phụ hoàng. Ngài đi đến ngâm kệ sau:

200. Pháp nào đây hướng dẫn Vương nhi,

Mong ước rời vương quốc biệt ly,

Bỏ mặc song thân già quạnh quẽ,

Ẩn am tìm đến để tu trì?

Nghe vậy, bậc Đại sĩ liền trấn an ngài. Phụ vương lại bảo:

– Này Vương nhi Sutasoma, cho dù con không thương tiếc gì đến song thân nữa nhưng con vẫn còn nhiều vương tử, công chúa lắm. Chúng không thể nào sống thiếu con được. Vậy đợi đến khi chúng trưởng thành rồi Vương nhi hãy xuất gia tu hành có được chăng?

Rồi ngài ngâm vần kệ thứ bảy:

201. Vương nhi nhiều ấu tử, e rằng,

Hết thảy còn đang độ búp măng,

Đến lúc Vương nhi vừa vắng bóng,

Nỗi buồn nào sánh chúng hay chăng?

Nghe lời này, bậc Đại sĩ đáp vần kệ:

202. Quả thật thần nhi có lắm con,

Chúng còn đang độ tuổi măng non,

Dù bao năm sống gần bên chúng,

Con phải giờ đây vĩnh biệt luôn.

Thế là bậc Đại sĩ thuyết pháp cho phụ vương và khi nghe ngài thuyết pháp, vua cha bình tâm lại, rồi quần thần thông báo cho bảy trăm cung phi. Họ từ trên thượng lầu bước xuống yết kiến ngài, ôm lấy chân ngài và ngâm vần kệ:

203. Tim chàng có bị vỡ tan ra,

Hay giả là chàng chẳng xót xa?

Cất bước vui theo đời ẩn sĩ,

Khóc than, chúng thiếp mắt lệ nhòa.

Bậc Đại sĩ nghe họ khóc than như vậy, trong lúc họ ngã mình dưới chân ngài và gào thét, ngài liền ngâm thêm một vần kệ:

204. Tim ta cũng nát vỡ tan ra,

Nghĩ đến các nàng, dạ xót xa,

Vì ước nguyện lên thiên giới ấy,

Nên ta kiên quyết sẽ ly gia.

Sau đó, quần thần trình lên chánh cung hoàng hậu. Bà đang mang thai nặng nhọc vì ngày sinh cận kề, bà liền đến gần bậc Đại sĩ, đảnh lễ ngài và kính cẩn đứng qua một bên rồi ngâm ba vần kệ:

205. Than ôi! Bất hạnh chính là ngày,

Thiếp được se duyên Chúa thượng đây,

Vì quá vô tình nhìn lệ thảm,

Đại vương quyết chí xuất gia ngay.

206. Bạc phận, than ôi, đó chính ngày,

Cùng Soma kết tóc se dây,

Vì chàng để mặc ai sầu chết,

Quyết chí theo đời ẩn sĩ đây.

207. Mãn nguyệt khai hoa đã kế gần,

Mong chàng ở lại, hỡi Vương quân,

Khi con sinh hạ, ngày sầu thảm,

Thiếp biết từ đây mất Chúa công.

Đến lượt bậc Đại sĩ ngâm vần kệ đáp:

208. Mãn nguyệt khai hoa đã tới hồi,

Ta chờ đến lúc trẻ ra đời,

Rồi ta từ giã ngay vương tử,

Xuất thế, ta thành ẩn sĩ thôi!

Nghe ngài nói vậy, bà không thể nào kiềm chế nỗi sầu thảm được nữa liền lấy hai tay ôm ngực, bảo ngài:

– Tâu Chúa thượng, từ nay cảnh vinh quang của đôi ta không còn nữa.

Rồi lau dòng lệ xong, bà lại than khóc thảm thiết. Bậc Đại sĩ ngâm kệ an ủi bà:

209. Vương hậu mắt huyền hoa mượt mà,

Xin nàng đừng khóc nữa vì ta,

Candā lên thượng lầu an nghỉ,

Ta sẽ đi, lòng chẳng thiết tha!

Không thể nào chịu đựng những lời nói của ngài được nữa, bà vội bước lên thượng lầu ngồi khóc một mình. Lúc ấy, vị thái tử của Bồ-tát thấy vậy, hỏi bà:

– Tại sao mẫu hậu ngồi khóc ở đây?

Và chàng ngâm kệ này hỏi mẹ:

210. Mẫu hậu, có ai khiến mẹ buồn,

Cớ sao mẹ khóc, lại nhìn con,

Ai không thể giết trong hoàng tộc,

Vì mẹ, con đành giết sạch luôn.

Hoàng hậu liền ngâm vần kệ đáp:

211. Không ai dám hại đến người kia,

Người khiến ta sầu khổ não nề,

Vì chính phụ vương con đã nói:

“Ta không đoái tưởng, sẽ ra đi.”

Nghe lời mẹ, thái tử nói:

– Tâu mẫu hậu, sao mẫu hậu lại nói thế? Nếu quả vậy thì chúng con thật bơ vơ.

Chàng liền than khóc và ngâm kệ:

212. Có lần ta dạo khắp hoa viên,

Nhìn lũ voi giao đấu trận tiền,

Ví thử phụ vương thành ẩn sĩ,

Ta làm gì, hỡi kẻ vô duyên?

Sau đó, một vị vương tử vừa lên bảy, thấy anh và mẹ đang khóc liền đến gần mẹ hỏi:

– Mẫu hậu và hoàng huynh ơi, cớ sao lại than khóc?

Và khi nghe duyên cớ, cậu bé bảo:

– Thôi được, đừng khóc nữa, con sẽ không để phụ vương xuất gia đâu.

Rồi vương tử an ủi hai vị xong, cùng nhũ mẫu bước xuống khỏi thượng lầu, đến yết kiến phụ vương và thưa:

– Tâu Phụ vương, thần nhi nghe nói Phụ vương sắp rời bỏ chúng con mà xuất gia, mặc dù chúng con không muốn. Vậy con không chịu để Phụ vương đi tu đâu.

Rồi ôm chặt lấy cổ vua cha, vương tử ngâm vần kệ:

213. Mẫu hậu đang ngồi khóc nỉ non,

Vương huynh cũng muốn giữ cha thương,

Con ôm vương phụ bằng tay vậy,

Chẳng để cha đi trái ý con.

Bậc Đại sĩ liền suy nghĩ: “Thằng bé này thật là mối nguy hiểm cho ta, ta làm thế nào để thoát được nó đây?” Rồi nhìn người nhũ mẫu, ngài bảo:

– Này hiền nhũ mẫu, hãy nhìn viên ngọc trang sức này, ta cho ngươi đấy, chỉ việc đem đứa bé này đi nơi khác, đừng để nó cản trở ta!

Vì ngài không thể tự mình tránh được cậu bé đang nắm chặt lấy tay ngài, ngài hứa ban thưởng cho nhũ mẫu ấy và ngâm kệ:

214. Gắng nuôi vương tử lớn lên dần,

Đem trẻ vui đùa chốn khác hơn,

E trẻ phá tan niềm hỷ lạc,

Cản chân ta vội đến thiên đường.

Nhũ mẫu nhận món quà thưởng và dỗ dành cậu bé rồi dẫn đi nơi khác. Bà vừa than khóc vừa ngâm kệ:

215. Ví ta từ khước hạt minh châu,

Ta chẳng màng chi, sẽ thế nào,

Vì Chúa thượng ta làm ẩn sĩ,

Bảo châu còn có nghĩa gì đâu?

Lúc ấy, vị đại tướng của ngài suy nghĩ: “Chắc đức vua tưởng ngài chỉ có rất ít bảo vật trong cung thôi. Vậy ta sẽ cho ngài biết ngài có vô số kể.” Vì thế, vị này đứng lên đảnh lễ vua và ngâm kệ:

216. Đại vương đầy ắp mọi kho tàng,

Chúa thượng tạo nên đại phú cường,

Toàn cõi thế gian đều khuất phục,

Chớ làm ẩn sĩ, sống thư nhàn.

Nghe vậy, bậc Đại sĩ đáp vần kệ:

217. Kho tàng đầy ắp các kim ngân,

Ta đã tạo nên đại phú cường,

Toàn cõi thế gian đều khuất phục,

Nay làm ẩn sĩ, bỏ phàm trần.

Khi ấy, một vị đại phú thương vừa đi đến có tên là Kulavaddhana, nghe lời liền đứng lại đảnh lễ vua và ngâm kệ:

218. Đại vương, thần tột đỉnh giàu sang,

Chẳng đếm làm sao xiết bạc vàng,

Xin ngắm hạ thần dâng tất cả,

Đừng làm ẩn sĩ, sống thư nhàn.

Nghe lời này, bậc Đại sĩ đáp vần kệ:

219. Này hỡi Kula, vẫn biết rằng,

Khanh mong dâng hiến cả kho tàng,

Song ta hướng đích về thiên giới,

Nên khước từ nhân giới dục tham.

Ngay khi Kulavaddhana nghe nói vậy và đi khuất rồi, vua liền bảo Hoàng đệ Somadatta:

– Này Hoàng đệ, ta bất mãn như gà rừng bị nhốt trong lồng, ta nhàm chán cuộc sống gia đình này lắm rồi. Ngay hôm nay ta sẽ làm ẩn sĩ, vậy hoàng đệ hãy đảm nhận trọng trách cai trị nước này!

Giao phó xong việc cho vị kia, ngài ngâm kệ:

220. Này Soma, trẫm thấy ngay rằng,

Nhàm chán lạ thường khắp cảm quan,

Khi nghĩ chất chồng đầy ác nghiệp,

Nay đời ẩn sĩ bước lên đàng.

Nghe lời này, Hoàng đệ Somadatta cũng muốn thành ẩn sĩ và để làm sáng tỏ vấn đề này, chàng ngâm kệ nữa:

221. Anh hỡi Suta đến ẩn mình,

Như lòng nguyện ước chốn am tranh,

Cầu mong đệ cũng làm tu sĩ,

Đời chẳng nghĩa gì nếu vắng anh.

Vua Sutasoma muốn từ chối lời này liền ngâm nửa vần kệ:

222. Hoàng đệ đừng đi, kẻo ngại rằng,

Khắp nơi đời sống thảy đều ngưng.

Nghe như vậy, dân chúng quỳ xuống chân bậc Đại sĩ và than khóc:

Ví dầu hoàng đệ này đi khuất,

Rồi sẽ ra sao, phận chúng thần?

Bậc Đại sĩ liền bảo:

– Thôi đừng than khóc nữa, dù lâu nay ta ở cùng các ngươi, giờ đây ta cũng phải xa lìa các ngươi, chẳng có gì trường tồn trong mọi pháp hữu vi cả.

Rồi ngài ngâm kệ thuyết pháp cho dân chúng:

223. Ngày như nước chảy lọc qua sàng,

Ngắn ngủi, than ôi, lướt vội vàng,

Đời sống xoay vần trong hạn hẹp,

Làm sao được phép thiếu siêng năng.

224. Ngày như nước chảy lọc qua sàng,

Ngắn ngủi, than ôi, lướt vội vàng,

Đời sống xoay vần trong hạn hẹp,

Chỉ người ngu xuẩn thiếu siêng năng.

225. Đày đọa vì xiềng xích dục tham,

Lằn ranh đọa xứ cứ lan tràn,

Càng đông ngạ quỷ, súc sanh giới,

Hội chúng Ma vương cứ mãi tăng.

Bậc Đại sĩ thuyết pháp như vậy cho dân chúng rồi bước lên thượng lầu của cung Vạn Hoa, ngài đứng trên tầng thứ bảy, cắt búi tóc và bảo:

– Bây giờ, ta không là gì nữa đối với các ngươi, vậy các ngươi hãy chọn một vị vua khác đi!

Cùng với những lời này, ngài ném búi tóc của ngài, khăn đội đầu cùng các bảo vật khác xuống giữa quần thần dân chúng. Quần thần cầm lấy búi tóc, lăn lóc trên mặt đất kêu gào thảm thiết. Rồi một đám bụi từ nơi ấy tung lên cao, dân chúng đứng lùi lại nhìn theo bảo nhau:

– Có lẽ đức vua đã cắt búi tóc và ném xuống cùng khăn đội đầu đủ cả vào dân chúng cho nên mới có đám bụi tung lên gần cung điện.

Rồi họ khóc than ngâm kệ:

226. Nhìn đám bụi kia chợt tỏa cao,

Gần hoàng cung Đại Vạn Hoa lầu,

Chắc rằng Minh đế lừng danh vọng,

Đã cắt tóc ngài với bảo đao!

Còn bậc Đại sĩ truyền gọi một quân hầu tìm đủ vật dụng cần thiết của một ẩn sĩ đem đến cho ngài, lại bảo người thợ hớt tóc cạo sạch râu tóc cho ngài. Ném chiếc hoàng bào rực rỡ xuống bảo tòa, ngài cắt bỏ mọi dải lụa màu, đắp lên người những miếng vải màu vàng nối lại, buộc cái chén đất lên đầu vai trái rồi cầm chiếc gậy nhỏ đi đường, ngài đi lui đi tới trên thượng lầu, sau đó bước xuống lầu đi ra đường, song không ai nhận ra ngài khi ngài đi xuống cả.

Còn bảy trăm cung tần bước lên thượng lầu không tìm thấy ngài mà chỉ thấy đống xiêm y của ngài liền bước xuống bảo mười sáu ngàn cung phi khác:

– Đại đế Sutasoma, Chúa thượng tôn quý của chúng ta đã trở thành ẩn sĩ rồi.

Và họ than khóc bước ra. Vừa lúc ấy, dân chúng hay tin ngài đã làm ẩn sĩ, cả kinh thành chấn động hẳn lên, dân chúng bảo nhau:

– Người ta bảo đức vua đã trở thành ẩn sĩ rồi.

Họ đều tụ tập tại cung môn, kêu lên:

– Chúa thượng chắc đang ở một nơi nào đó.

Rồi họ đổ xô ra khắp nơi ngài thường lui tới, song không tìm được ngài. Họ đi lang thang đây đó, vừa than khóc vừa ngâm kệ:

227-42. Này đây cung điện, tháp lầu vàng,

Lủng lẳng vòng hoa tỏa ngát hương,

Rộn rịp bao cung tần mỹ nữ,

Ngày xưa Chúa thượng ngự du thường.

Giăng mắc vòng hoa, dát ngọc vàng,

Ta nhìn cung điện nóc cao sang,

Là nơi hoàng tộc chầu bên cạnh,

Đại đế kiêu hùng bước dọc ngang.

Đây vườn thượng uyển rực muôn hoa,

Thay đổi quanh năm với các mùa,

Rộn rịp bao cung tần mỹ nữ,

Ngày xưa Chúa thượng ngự loan xa.

Hồ kia phủ khắp đám sen xanh,

Nơi chốn chim muông đến lượn quanh,

Tất cả hoàng gia chầu cạnh đó,

Ngày xưa Chúa thượng vẫn du hành.

Cứ thế, dân chúng vừa đi khắp nơi vừa than khóc rồi trở lại sân chầu, họ ngâm kệ:

243. Thật buồn thay, Chúa thượng Soma,

Đã bỏ ngai vàng để xuất gia,

Mặc chiếc hoàng y, ngài rảo bước,

Như voi đơn độc lạc đường xa.

Rồi họ ra đi, bỏ hết nhà cửa đồ đạc, dắt theo con cái, cha mẹ và cháu chắt đi theo Bồ-tát. Họ cùng đi theo với mười sáu ngàn cung phi ca múa. Cả kinh thành như bãi sa mạc vì dân chúng đi theo nhau cả. Bồ-tát và dân chúng chiếm cứ một vùng mười hai do-tuần về Tuyết Sơn.

Lúc ấy, Thiên chủ Sakka chú tâm đến đại sự xuất thế của ngài liền bảo Vissakamma:

– Này Hiền hữu Vissakamma, Vua Sutasoma đã từ bỏ thế tục. Ngài phải có nơi ẩn cư, vì dân chúng tụ tập quanh ngài rất đông. Hãy đi dựng am thất ẩn sĩ dài ba mươi do-tuần, rộng năm do-tuần trên bờ sông Hằng ở vùng Tuyết Sơn!

Vị này tuân lệnh, cung cấp các lều ẩn sĩ đầy đủ mọi vật dụng cần thiết và lại làm một con đường dẫn đến đó rồi trở về thiên giới.

Bậc Đại sĩ theo đường này đến vùng am tranh. Sau khi tự xuất gia trở thành ẩn sĩ, ngài độ cho những người còn lại thành ẩn sĩ, nhiều người khác cũng tu theo, khu vực ba mươi do-tuần này đông đảo người tu. Lúc bấy giờ, việc Vissakamma xây am ẩn sĩ ra sao, đại chúng được truyền giới như thế nào, vùng am thất của Bồ-tát được sắp đặt ra sao đã được biết đến trong Chuyện Hiền giả Hatthipāla.[16] Ở đây, nếu có một dục tưởng hay tà kiến nào khởi lên trong tâm bất cứ người nào, bậc Đại sĩ liền đến gần người đó ở trên không, ngồi kiết-già giữa không gian và thuyết pháp qua hai vần kệ:

244. Quên đi chuyện ái dục ngày xưa,

Khi vẻ mặt người vẫn cợt đùa,

Kẻo sợ kinh thành hoan lạc ấy,

Làm bừng dục vọng, phải tiêu ma.

245. Thoát người tham đắm, tự điều thân,

Thiện ý ngày đêm với thế nhân,

Ngươi sẽ hưởng ngôi nhà thượng giới,

Nơi người hành thiện đến chung phần.

Hội chúng ẩn sĩ này hành trì theo lời giáo huấn của ngài nên được tái sinh lên Phạm thiên giới. Câu chuyện được kể giống hệt như trong Chuyện Hiền giả Hatthipāla.[17]

***

Sau khi bậc Đạo sư chấm dứt thời pháp thoại, Ngài bảo:

– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà cả ngày xưa nữa, Như Lai đã làm đại sự xuất thế.

Và Ngài nhận diện tiền thân:

– Lúc bấy giờ, song thân là phụ vương và mẫu hậu trong triều đình, Candā là mẹ Rāhula (La-hầu-la), thái tử là Sāriputta (Xá-lợi-phất), tiểu vương tử là Rāhula, nhũ mẫu là Khujjuttarā, vị phú thương Kulavaddhana là Kassapa (Ca-diếp), vị đại tướng là Moggallāna (Mục-kiền-liên), Hoàng đệ Somadatta là Ānanda (A-nan) và Vua Sutasoma chính là Ta.

  1. Xem Miln. 185, Ahiṃsāniggahapañha (Câu hỏi về sự không hãm hại và sự trấn áp).

  2. Ở đây, “khéo đặt xuống” nghĩa là mỗi một chim cứ đến khéo đẻ trứng; “không có trở ngại” nghĩa là không con nào giành tổ, không bị mổ hư trứng của con khác.

  3. Chỉ cho chim Vessantara, dòng Kosiya.

  4. Xem J. IV. 412, Rohantamigajātaka (Chuyện lộc vương Rohanta), số §501.

  5. Xem S. I. 226, Araññāyatanaisisutta (Kinh Các ẩn sĩ ở rừng).

  6. Xem J. I. 390, Mahāsudassanajātaka (Chuyện Vua Đại Thiện Kiến), số §95.

  7. Xem J. III. 463, Indriyajātaka (Chuyện các căn), số §423.

  8. 1 cubit = 45cm.

  9. Xem J. III. 40, Khantivādijātaka (Chuyện đạo lý kham nhẫn), số §313.

  10. Sujam, viết đủ: Sujampati (善生主), phu quân của nàng Sujā, tức chỉ cho Thiên chủ Sakka (Đế-thích).

  11. Maghavā, tên của Thiên chủ Sakka trong một tiền kiếp, khi ấy được sanh làm một nam tử ở làng Macala thuộc nước Magadha (Ma-kiệt-đà). Tham khảo: S. I. 231; J. I. 127; III. 146; IV. 403; VI. 102, 481, 573.

  12. Xem J. III. 463, Indriyajātaka (Chuyện các căn), số §423.

  13. Vāsava (天神王, Thiên Thần vương), một tên của Thiên chủ Sakka (Đế-thích). Tham khảo: D. II. 260, 274; S. I. 221, 223, 229, 234; DhA. III. 270; J. I. 65.

  14. Xem J. VI. 262, Vidhurapaṇḍitajātaka (Chuyện bậc Đại trí Vidhura), chuyện này trong bản Tích Lan và PTS là số 545, trong bản CST là số 546; M. II. 54, Raṭṭhapālasutta (Kinh Raṭṭhapāla), số 82; Thag. v. 769, Raṭṭhapālattheragāthā (Kệ ngôn của Trưởng lão Raṭṭhapāla); Cp. 91, Saṅkhapālacariya (Hạnh của đức Bồ-tát Saṅkhapāla); Vv. 126, Serīssakavimānavatthu (Chuyện lâu đài của Serissaka); Pv. 74, Serīssakapetavatthu (Chuyện ngạ quỷ Serīssaka).

  15. Xem J. VI. 220, Mahānāradakassapajātaka (Chuyện bậc Đại trí Nārada Kassapa), số §545.

  16. Xem J. IV. 474, Hatthipālajātaka (Chuyện Hiền giả Hatthipāla), số §509.

  17. Như trên.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.