Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »
Kinh Tiểu Bộ Quyển 3
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch
§524. CHUYỆN LONG VƯƠNG SAṀKHAPĀLA (Saṁkhapālajātaka)[14] (J. V. 161)
Dáng điệu thanh tao, tướng đẹp xinh…
Câu chuyện này được bậc Đạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên, liên quan đến các phận sự trong những ngày trai giới.
Lúc bấy giờ, nhân dịp này bậc Đạo sư tán thán một số cư sĩ hành trì trai giới và bảo:
– Các Hiền nhân ngày xưa đã từ bỏ cảnh giới huy hoàng của long vương (nāga) và hành trì trai giới.
Rồi theo lời thỉnh cầu của các Tỷ-kheo, Ngài kể câu chuyện quá khứ.
***
Ngày xưa, vua xứ Magadha (Ma-kiệt-đà) cai trị thành Rājagaha (Vương Xá). Thời bấy giờ, Bồ-tát sinh làm vương tử của chánh hậu, được đặt tên là Duyyodhana. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài thông đạt các môn học thuật tại Takkasilā và trở về triều thăm vua cha. Phụ vương liền truyền ngôi cho ngài và xuất gia tu hành tại ngự viên.
Cứ ba lần trong ngày, Bồ-tát đến yết kiến phụ vương, thời bấy giờ đang được tôn kính và cung phụng trọng thể. Việc này gây trở ngại khiến vua cha không thể thực hành những pháp môn làm phát khởi thiền định nên ngài suy nghĩ: “Ta đang hưởng đầy đủ lợi dưỡng cùng với sự tôn sùng tột bực, nếu ta còn ở đây thì không thể nào đoạn trừ được tham dục. Vậy ta không nói với hoàng nhi, cứ việc bỏ đi nơi khác.”
Thế là không nói với một ai, ngài rời ngự viên và vượt qua biên giới của quốc độ Ma-kiệt-đà, ngài dựng một lều lá trong quốc độ Mahiṁsaka, gần núi Candaka bên dòng sông Kaṇṇapeṇṇā bắt nguồn từ hồ Saṁkhapāla. Ngài an trú tại nơi đó cho đến khi thành tựu các pháp môn làm phát khởi thiền định, ngài tu tập các thắng trí và chỉ thọ dụng những gì ngài kiếm được. Một vị long vương thuộc loài rồng (nāga) có danh hiệu Saṁkhapāla sinh trưởng từ dòng sông Kaṇṇapeṇṇā cùng hội chúng đông đảo loài rồng thỉnh thoảng đến yết kiến ẩn sĩ nên ngài thuyết pháp cho long vương.
Lúc bấy giờ, vương tử nóng lòng gặp cha nhưng không biết ngài hiện ở đâu nên thân hành đi tìm. Khi biết được nơi ngài đang cư ngụ như thế, vua cùng đoàn tùy tùng đông đảo đến yết kiến ngài. Sau khi dừng lại ở một đoạn đường ngăn cách với nơi ấy, vua cùng một số cận thần đi về phía lều ẩn sĩ. Lúc ấy, long vương Saṁkhapāla đang cùng đoàn tùy tùng nghe thuyết pháp, nhưng khi thấy vua đến gần liền đứng dậy vái chào ngài rồi từ tạ ra về.
Vua đảnh lễ phụ vương và sau các nghi lễ thông thường của đôi bên, vua hỏi:
– Bạch Tôn giả, vị vua nào vừa yết kiến Tôn giả?
– Này Vương nhi, đó là long vương Saṁkhapāla.
Vương tử liền mong ước được viếng thăm cảnh giới rồng vì vẻ huy hoàng rực rỡ ở đó. Khi ở lại cùng cha vài ngày, ngài cung cấp cho phụ vương đủ thực phẩm như thường lệ rồi trở về thành.
Nơi đó, ngài cho xây bố thí đường tại bốn cổng thành, nhờ công đức bố thí ấy, ngài gây chấn động khắp cõi Diêm-phù-đề. Vì ước nguyện đến cảnh giới rồng, ngài luôn hành trì giới luật và giữ các phận sự trong ngày trai giới nên khi mạng chung, ngài được tái sanh vào cảnh giới rồng làm long vương Saṁkhapāla.
Dần dần qua thời gian, ngài đâm chán cảnh huy hoàng này nên từ khi ước nguyện tái sanh làm người, ngài lại hành trì các ngày trai giới. Nhưng ở trong cảnh giới rồng, việc hành trì giới luật không có kết quả gì mà giới đức của ngài lại bị hao tổn. Từ đó, ngài lìa bỏ cảnh giới rồng và đến một nơi không xa dòng sông Kaṇṇapeṇṇā ấy, cuộn mình quanh ổ mối giữa đường cái và đường mòn, ngài quyết tâm giữ ngày trai giới và thực hành giới đức. Và ngài bảo:
– Kẻ nào cần da thịt ta thì cứ lấy hết đi!
Và như vậy theo hạnh bố thí, ngài hy sinh thân mình, nằm trên ổ mối, an nghỉ tại đó trong các ngày mười bốn và rằm giữa tháng. Ngài trở về cảnh giới rồng vào ngày mười sáu và mùng một.
Một ngày kia, ngài vừa thọ trì hạnh đó xong và đang nằm nghỉ thì có mười sáu nam nhân ở làng bên cạnh, thèm ăn thịt nên lang thang vào rừng, cầm vũ khí trong tay. Khi trở về chẳng kiếm được thú vật gì, chúng thấy ngài nằm trên ổ mối liền nghĩ: “Hôm nay ta chẳng bắt được một con tắc kè nhỏ nào, vậy ta phải giết rồng chúa này mà ăn thịt.” Nhưng vì sợ thân mình ngài quá to lớn, cho dù chúng có bắt được ngài, ngài cũng sẽ thoát ra nên chúng nghĩ rằng phải đâm ngài bằng các cây cọc ngay khi ngài đang nằm cuộn mình ở đó và sau khi gây thương tích cho ngài như vậy, chúng sẽ bắt ngài đi. Thế là chúng cầm cọc tiến đến gần ngài.
Lúc bấy giờ, Bồ-tát biến hình to lớn như chiếc thuyền rộng cực kỳ xinh đẹp, tựa vòng hoa lài đặt trên mặt đất, đôi mắt như hạt cam thảo rừng (jiñjuka), cái đầu như hoa ngũ phướng (jayasumana). Khi nghe tiếng chân của mười sáu người kia, ngài ngẩng đầu lên từ thân thể cuộn tròn, mở to đôi mắt rực lửa nhìn cả bọn đi đến cầm cọc trong tay. Ngài suy nghĩ: “Hôm nay ước nguyện của ta sẽ thành tựu trong lúc ta nằm ở đây, vậy ta phải nhất tâm cao độ và hy sinh thân mạng ta cho bọn chúng. Khi chúng lấy dao đâm ta, gây thương tích đầy mình ta, ta cũng không được mở mắt ra căm hận nhìn chúng.” Rồi để giữ vững quyết tâm này vì sợ phạm giới luật, ngài giấu đầu vào giữa đám mào và nằm yên.
Bọn người kia đến gần ngài, nắm lấy đuôi kéo lê trên mặt đất. Sau đó lại thả ngài xuống, chúng dùng cọc nhọn đâm vào tám chỗ trên thân ngài rồi lấy gậy tre màu đen, gai nhọn đủ thứ đâm vào các vết thương đang nứt nẻ xong lại bước đi, lôi ngài theo bằng dây thừng buộc vào tám chỗ ấy. Bậc Đại sĩ từ lúc bị thương bởi cọc nhọn kia, không hề mở mắt hay căm hận nhìn chúng, song khi ngài bị kéo lê đi bằng tám sợi dây ấy, đầu ngài trút xuống đập vào đất. Vì thế, khi chúng thấy đầu ngài rũ xuống, chúng đặt ngài trên con đường dốc cao, đâm qua mũi ngài một chiếc cọc mỏng, nhấc đầu ngài lên luồn sợi dây vào mũi và sau khi buộc đầu dây xong, chúng lại nhấc đầu ngài tiếp tục kéo đi.
Vừa lúc ấy, một vị điền chủ tên gọi là Āḷāra sống ở trong thành Mithilā thuộc quốc độ Videha đang ngồi trong một cỗ xe sang trọng du hành cùng năm trăm cỗ xe nữa, trông thấy bọn ác nhân đang cố lôi Bồ-tát trên đường liền cho cả mười sáu người trong bọn chúng mỗi người một con bò, một nắm tiền vàng, đầy đủ y phục bên trong lẫn bên ngoài, lại cho vợ con chúng đồ kim hoàn để đeo xong bảo chúng thả ngài ra.
Bồ-tát liền trở về cung điện của nāga, lập tức đem theo đoàn tùy tùng đông đảo đến gặp Āḷāra; và sau khi tán dương cảnh đẹp của long cung, ngài đem ông về đó. Ngài ban tặng đại vinh hoa phú quý cho ông cùng với ba trăm long nữ và mời ông thọ hưởng đủ lạc thú thần tiên. Āḷāra sống một năm tròn tại cung thất của nāga, hưởng mọi thiên lạc xong liền bảo long vương:
– Này Hiền hữu, ta muốn trở thành ẩn sĩ tu hành.
Rồi đem theo đủ mọi thứ cần dùng cho đời ẩn sĩ, ông rời long cung đi đến vùng Tuyết Sơn tu hành, an trú tại đó một thời gian dài. Sau đó, ông đi đến gần thành Ba-la-nại và an trú trong ngự viên. Hôm sau, ông vào thành khất thực, đi đến cung vua. Vua xứ Ba-la-nại thấy diện mạo ông trông thật uy nghi liền cho gọi vào yết kiến, đặt ông lên chiếc bảo tòa đặc biệt và ban cho đầy đủ cao lương mỹ vị, còn vua ngồi trên chiếc bảo tòa thấp hơn, đảnh lễ xong lại đàm đạo với ông. Vua ngâm vần kệ đầu:
143. Dáng điệu thanh tao, tướng đẹp xinh,
Chắc con dòng thế phiệt trâm anh,
Niềm vui thế tục sao rời bỏ,
Khoác áo tu theo luật Thánh hành?
Các vần kệ sau đây là những lời đối đáp xen kẽ giữa vị ẩn sĩ khổ hạnh và vua:
[Ẩn sĩ Āḷāra:]
144. Tâu Chúa công, ta nhớ rõ rành,
Cung long vương nọ, dáng oai linh,
Quả lành phát xuất từ thanh tịnh,
Nên nguyện khoác lên áo Thánh hành.
[Đức vua:]
145. Chẳng mối hãi kinh hoặc dục, sân,
Khiến Hiền nhân phải bỏ lời chân,
Nói cho ta rõ điều mong biết,
Tịnh tín tâm ta phát triển dần.
[Ẩn sĩ Āḷāra:]
146. Trong lúc bán buôn, tâu Đại vương!
Ta nhìn thấy một bọn trai làng,
Đang lôi rồng lớn, thân đồ sộ,
Hí hửng cười vui trên bước đường.
147. Đại vương, ta cảm thấy kinh hoàng,
Lông tóc dựng lên, bảo chúng rằng:
“Sao quái long này bị kéo thế,
Các ngươi lôi nó đi đâu chăng?”
[Trai làng:]
148. Rồng này bị kéo làm đồ ăn,
Rồng lớn có thân hình nở nang,
Thịt nó ngọt ngon, mềm, rất béo,
Người Videha rõ chưa từng.
149. Chúng tôi đi thẳng về nhà xong,
Mang các dao ra cắt xẻ rồng,
Thích thú ăn ngon từng miếng thịt,
Vì rồng quả thực kẻ thù chung.
[Āḷāra:]
150. Nếu kéo vật này làm thức ăn,
Con rồng lớn, phát tướng to thân,
Tôi cho mười sáu con bò đực,
Xin hãy thả rồng có được chăng?
[Trai làng:]
151. Thịt bò nghe quả thật bùi tai,
Rồng rắn ê hề thịt bấy nay,
Lời ấy, Āḷāra, ta chấp thuận,
Từ đây, tình bạn sẽ lâu dài.
[Āḷāra:]
152. Chúng thả ngài ra khỏi sợi dây,
Buộc xuyên qua lỗ mũi căng thay,
Chúa rồng thoát được vòng tù tội,
Hướng mặt về Đông nghỉ lát giây.
153. Vẫn nhìn Đông, đã sẵn sàng bay,
Quay lại ngắm ta, mắt lệ đầy,
Trong lúc ta nhìn theo hướng ấy,
Như người cầu nguyện, chắp đôi tay:
154. “Nhanh chân chạy trốn, hỡi thân bằng,
E lại sa vào lũ địch nhân,
Tránh bọn bạo tàn, dù thoáng thấy,
Nếu không ắt phải họa vào thân.”
155. Ngài vội đến hồ nước đẹp trong,
Đôi bờ lau sậy lẫn đào hồng,
Trong lòng hoan hỷ, không còn sợ,
Lặn xuống vực sâu thẳm mịt mùng.
156. Vừa khi biến mất, vị long vương,
Hiển lộ thần thông thực rõ ràng,
Thái độ ân cần, đầy tín cẩn,
Lời tri ân cảm động can tràng.
[Long vương:]
157. Ngài thân thiết vượt đấng sinh thành,
Đã cứu đời ta, bạn chí tình,
Đến tận tủy xương, nhờ chính bạn,
Niềm hoan lạc trước được hồi sinh,
Āḷāra, ngài viếng nơi ta ngự,
Cung điện đầy kho thực phẩm lành,
Chẳng khác Inda thành thượng giới,
Masakkasāra, xứ sở lừng danh.
– Tâu Đại vương, sau khi nói xong những lời này, long vương còn ca tụng thêm cảnh giới của ngài qua hai vần kệ:
158. Quốc độ ta bao cảnh tuyệt vời,
Dưới chân cỏ mướt phủ xanh tươi,
Chẳng vương cát bụi trên đường lộ,
Chốn ấy ly sầu, hưởng lạc thôi.
159. Sân bằng tường ngọc bích bao quanh,
Xoài đẹp sum suê tứ diện thành,
Chùm trái chín muồi khoe sắc thắm,
Bốn mùa thay đổi suốt năm lành.
[Āḷāra:]
160. Giữa rừng xoài ấy, điện bằng vàng,
Ngài ngắm, then cài bạc chắn ngang,
Rực rỡ cung đình kia nổi bật,
Hơn làn chớp lóe giữa không gian.
161. Tô điểm bảo châu đẹp dị thường,
Biết bao tranh vẽ quý trang hoàng,
Quần tiên phục sức xa hoa quá,
Trước ngực đong đưa chuỗi hạt vàng.
162. Saṁkha Đại đế ngự lên mau,
Lầu thượng, quyền uy thật tối cao,
Được dựng lên ngàn hàng cột trụ,
Ấy cung hoàng hậu được ngài giao.
163. Nhanh nhẹn một tiên nữ lúc này,
Cầm viên ngọc báu ở trong tay,
Ngọc lam quý hóa đầy thần lực,
Tự ý mời ta một chiếc ngai.
164. Rồng chúa nắm tay dẫn đến nơi,
Sừng sững cao sang một chiếc ngai:
“Xin ngài an tọa, ta ngồi cạnh,
Như đấng sinh thành, thắm thiết thay!”
165. Thêm một nàng theo kịp lệnh ngài,
Đến cùng bình nước ở trong tay,
Rửa chân, hầu hạ ta chu đáo,
Như chánh hậu chầu long đế đây.
166. Thêm nàng tiên nữa thật nhanh chân,
Dâng chén vàng, cơm thập cẩm ngon,
Gia vị thơm nồng càng cám dỗ,
Kẻ thèm ăn mỹ vị cao lương.
167. Trỗi nhạc lên, nàng hiểu rằng,
Đó là ý chúa chúng hằng mong,
Chiếm lòng ta, cũng như long đế,
Đem thú thần tiên để tấn công.
Rồi vị chúa rồng đến gần ta ngâm thêm vần kệ:
168. Ba trăm tỷ thiếp, hỡi Āḷāra,
Trẫm có sẵn đây cả ấy mà,
Tất cả đều lưng thon yểu điệu,
Yêu kiều dung sắc vượt liên hoa,
Kìa xem, chúng chỉ chiều tôn ý,
Xin nhận lời ban tặng của ta.
Āḷāra nói tiếp:
169. Một năm thiên lạc hưởng tràn đầy,
Ta hỏi long vương một chuyện này:
“Sao được tiên cung làm nội thất,
Làm sao cung điện đến phần ngài?
170. Tiên cảnh này thành tựu ngẫu nhiên,
Được ngài xây, tặng vật chư thiên,
Long vương xin nói điều chân thật,
Sao đến an nhàn ở cảnh tiên?”
Sau đây là các vần kệ đối đáp nhau giữa đôi bên:
[Long vương:]
171. Chẳng phải tình cờ, chẳng tự nhiên,
Chẳng do ta tạo, hoặc chư thiên,
Chính nhờ thiện nghiệp ta, ngài biết,
Nhờ đức hạnh, ta hưởng cảnh tiên.
[Āḷāra:]
172. Ngài hành gì, Phạm hạnh ngài gầy,
Ngài khéo làm gì được quả đây,
Xin nói cho tôi được rõ biết,
Tại sao cung điện được như vầy?
[Long vương:]
173. Xưa ta chúa tể Magadha,
Oai lực, danh Duyyodhana,
Ta biết mạng này rất ngắn ngủi,
Vô thường, biến hoại, thời mau qua.
174. Tâm ta thanh tịnh, kính thành dâng,
Vật thí rất nhiều, nước, thức ăn,
Nhà của ta như nguồn giếng nước,
Toại lòng Sa-môn, Bà-la-môn.
175. Nơi đó ta thành kính cúng dường,
Tràng hoa, dầu xức, phấn thơm hương,
Đèn, xe di chuyển, nơi cư ngụ,
Vải vóc, uống ăn, cả ghế giường.
176. Vậy đó ta hành Phạm hạnh này,
Khéo làm điều ấy, quả như đây,
Ta nhờ tạo phước được cung điện,
Đủ món uống ăn, vật thực đầy,
Lại có thêm nhiều điệu múa, hát,
Hưởng lâu nhưng chẳng mãi còn hoài.
[Āḷāra:]
177. Sao kẻ yếu kia hại đến ngài,
Một vị oai phong, đại lực vầy,
Ngài có răng nanh làm vũ khí,
Lại bại kẻ hèn vì cớ chi?
178. Đại lực tan theo nỗi hãi hùng,
Răng nanh nọc độc cũng tiêu chăng,
Sao ngài thần lực đầy răng ấy,
Mà phải chịu đau bởi ác nhân?
[Long vương:]
179. Đại lực không tan vì hãi hùng,
Cũng không bị chúng hủy tiêu vong,
Ta gìn lời bậc Trí răn dạy,
Như biển bờ cao, khó vượt tràn.
180. Vào ngày mười bốn và mười lăm,
Trai giới ta thường hành tín tâm,
Mười sáu trai làng khi đó đến,
Cầm theo bẫy cứng chắc, dây thừng.
181. Bọn ác nhân đâm thủng mũi ta,
Xuyên dây thừng ấy kéo ta qua,
Đớn đau ta chịu, ôi đành phận,
Giữ Thánh nhật cho khỏi phạm mà.
[Āḷāra:]
182. Thấy trên đường vắng trải giăng dài,
Hình đẹp, khổng lồ, đại lực oai,
“Bậc Trí hiển vinh”, ta thét lớn:
“Sao nguyền đời khổ hạnh, thưa ngài?”
[Long vương:]
183. Ta chẳng cầu con, chẳng ước giàu,
Chẳng mong thọ mạng được dài lâu,
Song trên nhân thế ta mong sống,
Nỗ lực, anh hùng đạt đích cao.
[Āḷāra:]
184. Tóc râu chải chuốt, dáng oai hùng,
Phục sức hoàng y, mắt lửa bừng,
Đỏ thắm chiên-đàn, ngài rực rỡ,
Xa xa nào khác nhạc thiên thần.
185. Hưởng bao ân huệ lộc trời cho,
Đầy đủ mọi điều dạ ước mơ,
Ta hỏi long vương, xin nói thật,
Cõi người sao lại muốn an cư?
[Long vương:]
186. Không đâu trừ thế giới người đời,
Thanh tịnh điều thân được thấy rồi,
Chỉ sống giữa đời người thế tục,
Đoạn trừ sinh tử kiếp sau thôi.
[Āḷāra:]
187. Dù hưởng đầy hoan lạc dị thường,
Cùng long vương sống suốt năm trường,
Giờ ta vĩnh biệt, ra đi mãi,
Không ở vì xa vắng cố hương.
[Long vương:]
188. Thê nhi trẫm với những cung nhân,
Được luyện hầu ngài, lệnh phục tuân,
Chắc chẳng kẻ nào gây xúc phạm,
Vì ngài, trẫm thấy rất thương thân.
[Āḷāra:]
189. Như ở gia đình đủ mẹ cha,
Con trai được mến yêu, chăm lo,
Nhưng nơi này tốt hơn nơi đó,
Tâm của ngài, thành tín ở ta.
[Long vương:]
190. Bảo châu trẫm có điểm hồng vân,
Đem đại phú cho kẻ thiếu phần,
Nhận lấy về nhà, khi phú quý,
Xin đưa trả ngọc lại long quân.
Ẩn sĩ sau khi nói xong những lời này liền tiếp tục như sau:
– Tâu Đại vương, sau đó ta đáp lời long vương: “Tâu Đại đế, ta không màng giàu sang, ta chỉ muốn xuất gia tu hành.” Sau khi xin ban đủ mọi vật cần thiết cho đời sống tu hành ẩn sĩ, ta từ giã cảnh giới nāga cùng với long vương, và khi đã mời ngài trở lui về, ta vào vùng Tuyết Sơn tu tập.
Nói xong, ẩn sĩ lại thuyết giáo cho vua và ngâm thêm hai vần kệ:
191. Dục tham trần thế thoáng qua nhanh,
Chẳng phục tuân quy luật trưởng thành,
Thấy khổ phát sinh từ ái dục,
Tín tâm dẫn bước đến tu hành.
192. Người tàn như trái rụng tiêu vong,
Già trẻ, muôn loài rã mục thân,
Ta chỉ trú an trong Thánh hạnh,
Tối ưu là thực thể thuần chân.
Nghe lời này, vua ngâm kệ đáp lời:
193. Quả thật nên thân cận Trí nhân,
Bậc suy nghĩ thấu đáo, đa văn,
Nghe lời ngài nói cùng long đế,
Trẫm sẽ làm nhiều điều thiện lành.
Vị ẩn sĩ muốn khuyến khích vua tinh tấn liền ngâm kệ kết thúc:
194. Quả thật nên thân cận Trí nhân,
Bậc suy nghĩ thấu đáo, đa văn,
Nghe lời ngài nói cùng long đế,
Chúa thượng hãy làm điều thiện lành.
Vị này thuyết giáo như vậy với vua và sau khi ở lại đó bốn tháng mùa mưa liền trở về Tuyết Sơn sống và tu tập tứ vô lượng tâm, đến khi mạng chung được tái sanh lên Phạm thiên giới.
Còn Vua Saṁkhapāla trong suốt quãng đời còn lại chuyên tâm hành trì các ngày trai giới, bố thí cùng nhiều thiện sự khác nên sau khi mạng chung, ngài đi theo nghiệp của mình.
***
Khi pháp thoại chấm dứt, bậc Đạo sư nhận diện tiền thân:
– Thời bấy giờ, vị vua cha trở thành ẩn sĩ khổ hạnh chính là Kassapa (Ca-diếp), vua xứ Ba-la-nại là Ānanda (A-nan), ẩn sĩ Āḷāra là Sāriputta (Xá-lợi-phất) và long vương Saṁkhapāla chính là Ta.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.