Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »
Kinh Tiểu Bộ Quyển 3
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch
§523. CHUYỆN THIÊN NỮ ALAMBUSĀ (Alambusajātaka) (J. V. 152)
Thiên chủ Inda, đấng vạn năng...
Câu chuyện này bậc Đạo sư kể trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc một Tỷ-kheo bị mê hoặc bởi người vợ trước đây. Câu chuyện được kể đầy đủ trong Chuyện các căn.[12] Lúc bấy giờ, bậc Đạo sư hỏi vị Tỷ-kheo:
– Này Tỷ-kheo, có thật ông sinh tâm bất mãn chăng?
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn, quả đúng vậy.
– Do ai gây nên?
– Bạch Thế Tôn, do người vợ của con ngày trước.
– Này Tỷ-kheo, nữ nhân này đã làm hại ông, chính vì kẻ đó mà trước kia ông đã mất hết thiền lực và phải nằm liệt suốt ba năm ròng trong trạng thái mê man bất tỉnh, đến khi hồi tỉnh, ông đã than khóc thảm thiết.
Nói xong, Ngài kể cho vị này nghe câu chuyện quá khứ.
***
Ngày xưa, dưới triều Vua Brahmadatta ở Ba-la-nại, Bồ-tát tái sinh vào một gia đình Bà-la-môn ở quốc độ Kāsi. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài thông thạo mọi môn học thuật và sau đó ngài xuất gia, vào rừng sống bằng củ quả rừng. Lúc bấy giờ, một con nai cái sống trong vùng thảo am của vị Bà-la-môn này ăn cỏ và uống nước suối có hòa lẫn tinh dịch của ngài, rồi lại sinh lòng say mê ngài đến độ nó mang thai và từ đó đến trú luôn ở nơi gần nhà của ẩn sĩ.
Bậc Đại sĩ xem xét kỹ vấn đề và biết được sự thật của trường hợp trên. Về sau, nai cái sinh một nam nhi, bậc Đại sĩ chăm sóc hài nhi ấy với tình phụ tử. Hài nhi được đặt tên là Isisiṅga (Ẩn sĩ Lộc Tử). Khi chàng trai đến tuổi trưởng thành, ngài cho chàng thọ giới tu hành; khi ngài đã già, ngài dẫn chàng đến rừng Nāri và căn dặn:
– Này con yêu quý, ngay trong vùng Tuyết Sơn này có nhiều nữ nhân tươi đẹp như hoa, chúng thường đem lại tai họa tàn khốc cho những ai rơi vào uy lực của chúng. Vậy con đừng để cho chúng chinh phục.
Không bao lâu sau đó, ngài từ trần và sinh lên Phạm thiên giới. Còn ẩn sĩ Isisiṅga trong lúc tham thiền nhập định, an trú tại vùng Tuyết Sơn làm một nhà đại khổ hạnh khắc nghiệt, hộ trì các căn, tu tập tinh chuyên. Vì uy lực giới đức của ẩn sĩ này, cung của Thiên chủ Sakka bị rúng động. Thiên chủ xem xét, tìm ra nguyên nhân và suy nghĩ: “Người này sẽ hạ ta xuống khỏi ngôi vị Thiên chủ, vậy ta quyết sai một thiên nữ đi phá hoại công đức của vị này.”
Sau khi quan sát toàn thế giới chư thiên, giữa hai mươi lăm triệu nàng thiên nữ cõi trời, ngài thấy ngoại trừ thiên nữ Alambusā, không có ai xứng hợp với công việc này hơn cả. Ngài liền triệu nàng đến và ban lệnh cho nàng phải đi phá hoại công đức của Thánh nhân thanh tịnh kia.
***
Để giải thích vấn đề này, bậc Đạo sư ngâm vần kệ đầu:
95. Thiên chủ Inda, đấng vạn năng,
Xưa kia đã giết Vatra thần,
Triệu nàng thiên nữ vào cung điện,
Vì biết nàng mưu chước lẫy lừng.
96. Thiên nữ Alambusā, Đế-thích truyền,
Ở trên hội chúng của chư thiên,
Bảo nàng đến gặp Isisiṅga nọ,
Quyến rũ chàng say đắm mối duyên.
Thiên chủ Sakka ra lệnh cho Alambusā:
– Nàng hãy tìm gặp Isisiṅga, dùng uy lực của nàng chinh phục và phá hủy công đức của chàng!
Rồi ngài ngâm vần kệ:
97. Hãy theo cám dỗ sát bên chàng,
Vì chính chàng là bậc Thánh nhân,
Trong lúc đi tìm nguồn cực lạc,
Lại còn chiến thắng cả Thiên hoàng.
Nghe nói vậy, nàng Alambusā đáp hai vần kệ:
98. Giữa bao thiên nữ, tấu Thiên hoàng,
Sao chỉ riêng nhìn đến tiện nhan,
Và bảo phận hèn đi quyến rũ,
Thánh nhân đe dọa chiếc ngai vàng?
99. Vườn Nanda, cực lạc thần tiên,
Có biết bao thiên nữ diệu huyền,
Đến lượt một nàng trong số ấy,
Xin giao việc đáng rủa nguyền trên.
Tiếp theo, Thiên chủ ngâm ba vần kệ:
100. Nàng nói đúng thay, ở lạc viên,
Nandana, trẫm biết vườn tiên,
Nhiều thiên nữ diễm kiều dung sắc,
Sánh kịp nàng, thường được ngắm xem.
101. Nhưng này, hỡi tuyệt thế tiên nương,
Chẳng có ai dùng kế mỹ nhân,
Điêu luyện như nàng, hòng quyến rũ,
Thánh nhân bằng mọi cách điên cuồng.
102. Vậy nàng quả thật đóa hoa khôi,
Hãy bước lên đường, tố nữ ôi,
Dùng lực thần kia là mỹ sắc,
Buộc Hiền nhân nọ phục oai trời.
Nghe lời này, nàng Alambusā ngâm hai vần kệ:
103. Phận hèn sẽ quyết, tấu Thiên hoàng,
Tiến bước lên đường phụng mệnh ban,
Song vẫn lo âu phần thiếp dám,
Liều mình hại bậc Thánh nghiêm trang.
104. Bởi vì lắm kẻ đáng thương thay,
[Thiếp sợ run vì ý nghĩ này]
Làm hại Thánh hiền nên phải đọa,
Ăn năn ngục tối khổ đau đầy.
Các vần kệ này là của bậc Giác Ngộ:
105. Thiên nữ Alambusā nói vậy xong,
Khởi hành, nàng lướt tốc như phong,
Đi lôi cuốn tịnh nhân lừng lẫy,
Vào các hành vi bất tịnh nhân.
106. Đến cánh rừng kia nửa dặm sâu,
Thắm tươi đỏ rực các chùm dâu,
Isisiṅga trú ẩn trong rừng ấy,
Nàng biến mình đi chẳng thấy đâu.
107. Tảng sáng tinh mơ chớm nắng đào,
Trước khi vầng nhật hiện lên cao,
Nàng thiên nữ đến gần hiền giả,
Đang quét thảo am sạch biết bao.
Lúc ấy, vị khổ hạnh ngâm kệ hỏi nàng:
108. Ai đó như tia chớp sáng ngời,
Rõ ràng như thể ánh sao mai?
Đôi tay đeo ngọc, hoa tai điểm,
Lấp lánh từ xa rực cả trời.
109. Như phấn chiên-đàn tỏa ngát hương,
Huy hoàng chẳng khác ánh triêu dương,
Yêu kiều vóc liễu thanh thanh dáng,
Tuyệt sắc cho ai được ngắm nàng.
110. Dịu dàng, trong trắng với lưng thon,
Nhún nhẩy nhịp nhàng nhón gót son,
Yểu điệu thân nàng bao diễm lệ,
Làm ta say đắm cả tâm hồn.
111. Cặp đùi nàng giống chiếc vòi voi,
Dài thẳng, thon dần thật mảnh mai,
Mông của nàng êm đềm xúc cảm,
Tròn như mặt gỗ để chơi bài.
112. Rốn nàng để lộ đám lông mềm,
Ta tưởng chừng tơ các ngó sen,
Từ phía xa xa nhìn chỉ thấy
Tựa hồ đầy dược thủy đen huyền.
113. Đôi vú sữa như nửa quả bầu,
Căng phồng khoe cả cặp hình cầu,
Săn tròn cho dẫu không cây chống,
Chúng thật hoàn toàn chẳng dựa đâu.
114. Môi lưỡi nàng đều đỏ thắm tươi,
Thật là quý tướng hiếm hoi ôi!
Cổ dài như thể linh dương núi,
Lại vẽ thêm ba ngấn rạch ròi.
115. Răng nàng dùng chút gỗ lau chùi,
Trong sạch luôn luôn giữ sáng ngời,
Lấp lánh cả hàm trên lẫn dưới,
Chiếu đầy tia sáng trắng tinh khôi.
116. Đôi mắt nàng bầu dục dáng hình,
Khi nhìn, bao vẻ đẹp đa tình,
Khác nào đôi trái dâu đen láy,
Tô điểm màu đo đỏ mép vành.
117. Bím tóc mướt trơn chẳng quá dài,
Kết thành từng cuốn gọn nhất đời,
Điểm vàng đầu mút mùi thơm ngát
Dầu phấn đàn hương quý tuyệt vời.
118. Giữa mọi người theo nghiệp bán mua,
Nuôi bầy gia súc hoặc cày bừa,
Giữa bao ẩn sĩ đầy uy lực,
Nguyện sống đời thanh tịnh ẩn cư.
119. Trong muôn loài giữa cõi trần gian,
Ta chẳng thấy ai sánh kịp nàng,
Thân phụ là ai, cùng quý tánh,
Ta mong nàng thổ lộ cho tường.
Trong lúc vị ẩn sĩ tán tụng nàng Alambusā từ bàn chân lên đến đỉnh đầu không sót đường tơ kẽ tóc nào, nàng vẫn giữ lời yên lặng. Và khi nghe chàng nói lời lẽ dài dòng như vậy, nàng nhận thấy tâm trạng của chàng đang rất dao động liền ngâm kệ này:
120. Vạn phúc trời ban đến bạn lành,
Thời gian, Ca-diếp hỡi, trôi nhanh,
Sao chàng mãi hỏi chi vơ vẩn,
Chẳng phải đôi ta chỉ một mình?
Hãy vào am thất, chốn tu hành,
Chụp lấy ngay cơ hội chứng minh,
Ngàn thú giao hoan này khét tiếng,
Giữa người sùng bái đạo si tình.
Nói vậy xong, thiên nữ Alambusā nghĩ thầm: “Nếu ta cứ đứng yên, chàng sẽ không đến gần cho ta được dịp quyến rũ chàng, vậy ta phải làm như thể sắp bỏ chạy.” Rồi dùng mỹ nhân kế để làm dao động quyết tâm của vị ẩn sĩ, nàng bỏ chạy về hướng ban nãy nàng đã đến.
***
Bậc Đạo sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:
121. Nói xong thiên nữ Alambusā,
Vội vã tạ từ cất bước xa,
Danh sĩ Isisiṅga, hòng quyến rũ,
Hiền nhân vướng phải nghiệp dâm tà.
Vị ẩn sĩ thấy nàng bỏ đi liền kêu lên:
– Nàng đã đi rồi.
Và chàng nhanh nhẹn chặn lối nàng, trong khi nàng đang chầm chậm bước đi rồi lấy tay nắm tóc nàng lại.
***
Bậc Đạo sư ngâm kệ làm sáng tỏ vấn đề:
122. Như gió, chàng mau lướt vội vàng,
Cố ngăn nàng chạy trốn xa chàng,
Hăng say đeo đuổi theo thiên nữ,
Chụp lấy đầu, cầm bím tóc nàng.
123. Chính tại nơi chàng đứng lặng yên,
Hằng nga ôm chặt giữa tay tiên,
Tức thì công hạnh chàng tiêu hết,
Biết vậy, nàng tiên thấy thỏa nguyền.
124. Khởi niệm, nàng bay đến Ngọc cung,
Tại Nanda thượng uyển muôn trùng,
Ngọc hoàng hiểu rõ điều nàng ước,
Phái vội thiên xa lấp lánh vàng.
125. Che năm mươi lọng ở bên trên,
Bên dưới cả ngàn tấm trải lên,
Tại đó, Hiền nhân nằm khuất phục,
Trong tay thiên nữ lắm ngày trường.
126. Ba năm ròng rã lướt qua đầu,
Trên cõi trời giây lát bóng câu,
Cho đến phút sau cùng, ẩn sĩ,
Trở mình thức khỏi cánh tay mầu.
127-28. Cây xanh chàng thấy khắp nơi nơi,
Bệ lửa thờ nằm cạnh đó thôi,
Thăm thẳm ngàn cây vang vọng mãi,
Tiếng sơn ca lảnh lót ngân dài.
129. Nhìn quanh, chàng nức nở đau thương,
Nhỏ lệ đắng cay phận tủi hờn:
“Ta chẳng cầu kinh, dâng lễ vật,
Nơi đây chẳng cúng tế đăng đàn.
130. Ta trú rừng hoang vắng, độc thân,
Nào ai người cám dỗ mình chăng,
Ai dùng tà hạnh làm tiêu tán,
Tất cả lương tâm với trí năng,
Chẳng khác con thuyền đầy báu vật,
Bị chìm đắm giữa chốn trùng dương?”
Nghe vậy, Alambusā nghĩ thầm: “Nếu ta không nói rõ, ắt chàng sẽ nguyền rủa ta, vậy ta phải nói cho chàng hay.” Rồi nàng hiện hình ra đứng bên cạnh chàng ngâm kệ:
131. Thiên chủ Sakka phái đến đây,
Nguyện làm tỳ nữ phục tuân ngài,
Dù vô tình thiếp không hay biết,
Đã hại người trong cực lạc này.
Nghe nàng nói vậy, chàng liền nhớ lại lời cha dạy rồi than khóc về việc chàng đã bị phá tan hết công hạnh chỉ vì không nghe lời cha và ngâm kệ:
132. Ca-diếp, cha ta đã dạy rằng:
“Này con, hãy cảnh giác đề phòng,
Nữ nhân như đóa hoa sen đẹp,
Ẩn chứa bên trong hấp lực thần.”
133. Đề phòng nữ sắc đắm mê hồn,
Hiểm họa đâu đây chực kế gần.
Do vậy lòng nhân từ thúc đẩy,
Nghiêm đường khuyên nhủ trẻ phòng thân.
134. Phóng dật, ta cam chịu bỏ qua,
Những lời thông tuệ của cha già,
Than ôi, đơn độc, ta đau đớn,
Nay sống rừng hoang, dạ xót xa!
135. Đời cũ, ta nguyền rủa lắm thay,
Vâng lời cha dạy kể từ đây,
Thà đành vong mạng còn hơn phải,
Trở lại đường xưa lối cũ này.
Sau đó, chàng từ bỏ dục lạc và tham thiền nhập định. Còn Alambusā thấy rõ công đức tu tập của chàng, biết rằng chàng đã đạt thiền chứng liền hoảng sợ cầu xin chàng tha tội.
***
Bậc Đạo sư ngâm hai vần kệ làm sáng tỏ vấn đề này:
136. Bỗng chốc Alam hiểu rõ ràng,
Lực chàng kiên định, thật can tràng,
Vội quỳ đảnh lễ Hiền nhân ấy,
Lập tức nàng ôm lấy gót chàng:
137. “Xin dẹp lôi đình, đấng Thánh minh,
Thiếp đã gây một chuyện tày đình,
Khi chư thiên cõi trời vinh hiển,
Rúng động kinh hoàng nghe đại danh.”
Sau đó, chàng để thiên nữ ra đi và bảo:
– Này thiên nữ, ta tha tội cho nàng, thôi nàng hãy đi nơi nào tùy ý!
Rồi chàng ngâm kệ:
138. Tam Thập Tam thiên, hưởng phước lành,
Cùng Vāsava,[13] chúa tể quần sinh,
Và nàng thiên nữ, xin từ giã,
Nàng được tự do thỏa nguyện mình.
Từ tạ chàng xong, nàng trở về thiên giới trong chiếc xe vàng ấy.
***
Bậc Đạo sư ngâm ba vần kệ làm sáng tỏ vấn đề này:
139. Ôm lấy đôi chân bậc Trí nhân,
Đi về phía hữu, nhiễu quanh vòng,
Chắp tay dáng điệu cầu tha tội,
Nàng hiện hình đi khỏi mắt chàng.
140. Nàng thiên nữ lại cưỡi xe vàng,
Lộng lẫy yên cương được điểm trang,
Mọi vẻ huy hoàng khăn ngọc phủ,
Nàng phi nhanh đến cõi thiên đàng.
141. Như đuốc hồng hay chớp lóe ngang,
Nàng du hành vượt thẳng trời quang,
Sakka Thiên chủ hân hoan phán:
“Chẳng ước nguyện nào trẫm chẳng ban.”
***
Khi nhận được điều ước do ngài ban, nàng ngâm vần kệ kết thúc:
142. Ví dầu Đế-thích, chúa chư thiên,
Ban thiếp điều tâm ước nguyện riêng:
“Xin chẳng bao giờ còn cám dỗ,
Thánh nhân nào phá bỏ lời nguyền.”
***
Đến đây, bậc Đạo sư chấm dứt pháp thoại dành cho vị Tỷ-kheo kia và giảng giải các Thánh đế cùng nhận diện tiền thân; cuối phần các Thánh đế, vị Tỷ-kheo ấy đắc Sơ quả (Dự lưu):
– Lúc bấy giờ, Alambusā chính là người vợ trước kia, Isisiṅga là vị Tỷ-kheo có tâm bất mãn này và đại ẩn sĩ cha chàng chính là Ta.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.