Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »
Kinh Tiểu Bộ Quyển 3
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch
§522. CHUYỆN ĐẠI NHÂN THIỆN XẠ SARABHAṄGA (Sarabhaṅgajātaka)[5] (J. V. 125)
Vòng vàng, xiêm áo thật cao sang...
Câu chuyện này bậc Đạo sư kể trong lúc trú tại Trúc Lâm về sự diệt độ của Trưởng lão Mahāmoggallāna (Đại Mục-kiền-liên).
Còn về phần Trưởng lão Sāriputta (Xá-lợi-phất), sau khi được đức Như Lai chấp thuận trong lúc Ngài trú tại tinh xá Kỳ Viên, Trưởng lão liền đi đến làng Nāla và nhập diệt tại đó, ngay chính trong căn phòng xưa kia Trưởng lão sinh ra đời.[6] Bậc Đạo sư nghe tin Trưởng lão nhập diệt liền đến thành Rājagaha (Vương Xá), trú tại Veḷuvana (Trúc Lâm).
Lúc ấy, Trưởng lão Mahāmoggallāna trú ngay trên sườn núi Isigili (chư tiên đọa xứ) tại Hắc Thạch động. Trưởng lão khi đắc Thánh quả, nhờ thần thông có thể lên trời hay xuống địa ngục. Trên thiên giới, Trưởng lão thấy các vị đệ tử của đức Phật thọ hưởng đại quyền lực. Còn ở hạ giới, Trưởng lão lại thấy đệ tử của đám ngoại đạo tà giáo chịu đau khổ kinh hồn. Nên khi trở về cõi nhân gian, Trưởng lão kể cho mọi người nghe chuyện trên một cõi thiên kia có một cận sự nam này hay cận sự nữ nọ được tái sinh thọ hưởng vinh quang cao trọng; còn những kẻ theo ngoại đạo tà giáo lại có người thác sinh vào địa ngục hay các đọa xứ đầy đau khổ khác.
Dân chúng hoan hỷ với lời dạy của Trưởng lão, bác bỏ tà thuyết ngoại đạo. Họ bày tỏ sự tôn kính rất mực đối với các đệ tử của đức Phật, còn lòng kính trọng đối với các ngoại đạo sư giảm dần. Bọn ấy sinh lòng căm hận vị Trưởng lão này, bảo nhau:
– Bao lâu lão này còn sống là còn nhiều chia rẽ giữa các tín đồ của ta, lòng tôn trọng đối với ta bị mất dần. Vậy ta phải giết lão đi mới được!
Họ liền đưa một ngàn đồng tiền cho tên cướp thường canh giữ các ẩn sĩ để giết vị này. Gã liền quyết tâm giết Trưởng lão nên đi đến Hắc Thạch động cùng với nhiều đồng bọn. Vị Trưởng lão khi thấy gã đến liền dùng thần lực bay lên không biến mất. Hôm ấy, tên cướp không thấy Trưởng lão đành trở về nhà rồi lại đến trong sáu ngày liền, song Trưởng lão vẫn dùng thần thông biến mất như trước. Vào ngày thứ bảy, một tiền nghiệp do Trưởng lão gây ra trong một đời trước mang theo hậu quả lâu dài ở đời sau, giờ đây đang có cơ duyên xuất hiện để gây tai họa.
Chuyện kể rằng, một thuở xa xưa, vì nghe theo lời vợ mình xúi giục, vị này tìm cách làm cho cha mẹ mình chết đi, đã đem xe chở cha mẹ mình vào rừng, giả vờ như bị bọn cướp tấn công rồi đánh đập song thân. Do tuổi già mắt kém không thấy mọi vật rõ ràng, hai vị không nhận ra chính con mình, cứ tưởng có bọn cướp thật liền kêu lên:
– Con ơi, bọn cướp đang giết mẹ cha, vậy con hãy trốn đi!
Rồi họ chỉ than khóc vì con mình thôi. Vị này liền nghĩ: “Dù cha mẹ ta bị ta đánh đập, hai vị chỉ vì ta mà than khóc đó thôi. Ta thật đã làm một việc đáng sỉ nhục.” Vì thế, ông an ủi mẹ cha, giả vờ bảo bọn cướp đã bị đánh đuổi đi rồi và vỗ về tay chân cha mẹ, thưa rằng:
– Xin song thân chớ sợ, bọn cướp trốn cả rồi.
Sau đó, ông đem cha mẹ về nhà. Hành nghiệp này mãi từ lâu không tìm được cơ duyên, nhưng vẫn đợi thời như ngọn lửa ấp ủ dưới tro tàn, bùng dậy bắt lấy vị này khi tái sinh lần cuối nên vị Trưởng lão mang nghiệp quả đã chín muồi ấy không thể nào bay lên không được nữa. Thần thông của Trưởng lão này ngày xưa đã có lần nhiếp phục Nanda cùng Upananda, hai long vương và làm rung chuyển cả điện Vejayanta (Tối Thắng) ở thiên cung, giờ đây vì chịu nghiệp quả phải suy yếu đi. Thế là tên cướp đập nát xương ngài ra, bắt ngài chịu thứ cực hình gọi là “rơm và bột”, rồi tưởng ngài đã chết nên cùng đồng bọn bỏ đi. Nhưng khi Trưởng lão tỉnh lại liền dùng định lực bao phủ thân mình như đắp y bay lên không, trở về yết kiến bậc Đạo sư, đảnh lễ Ngài và thưa:
– Bạch Thế Tôn, thọ mạng của con đã tận, con sắp tịch diệt.
Rồi được bậc Đạo sư chấp thuận, Trưởng lão nhập diệt ngay tại chỗ. Vào lúc ấy, sáu cõi thiên giới cùng nổi lên chấn động, chư thiên đồng nhau khóc:
– Thầy của chúng ta đã tịch diệt!
Thiên chúng liền đem hương liệu, tràng hoa ngát mùi hương thiên giới cùng gỗ đủ loại đến và giàn hỏa táng được dựng lên bằng gỗ chiên-đàn cùng chín mươi chín bảo vật.
Bậc Đạo sư bảo Tăng chúng đặt kim thân Trưởng lão vào địa điểm hành lễ, trong lúc Ngài đứng ngay cạnh đó, suốt trong khoảng một do-tuần quanh giàn hỏa táng, hoa trời rơi xuống như mưa sa. Chư thiên và loài người cũng đứng chen nhau dự lễ, rồi dạ-xoa, càn-thát-bà, rồng, Kim Sí điểu, khẩn-na-la đứng vào, đến bảo cái, tràng phan. Thánh lễ diễn ra suốt bảy ngày. Bậc Đạo sư bảo lượm Xá-lợi của Trưởng lão và dựng đền thờ trong ngôi nhà có nóc nhọn tại Trúc Lâm.
Vào lúc ấy, trong pháp đường, Tăng chúng đưa đề tài ấy ra, bảo nhau:
– Thưa các Hiền hữu, Trưởng lão Xá-lợi-phất vì không diệt độ trong khi yết kiến Như Lai nên không được hưởng nghi lễ trọng thể từ bàn tay đức Phật, còn Trưởng lão Mục-kiền-liên vì diệt độ cạnh bậc Đạo sư nên đã được vinh dự cao cả như thế.
Bậc Đạo sư đến nơi, hỏi các Tỷ-kheo đang ngồi đàm luận vấn đề gì và khi được biết, Ngài bảo:
– Này các Tỷ-kheo, không phải chỉ bây giờ mà cả ngày xưa nữa, Mục-kiền-liên cũng nhận được đủ vinh dự từ bàn tay Ta.
Nói xong, Ngài kể câu chuyện quá khứ.
***
Ngày xưa, khi Vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại, Bồ-tát nhập mẫu thai phu nhân vị quốc sư của hoàng gia. Sau mười tháng, ngài được sinh ra đời vào một sáng sớm kia. Lúc ấy, một loạt đủ loại binh khí ở kinh thành Ba-la-nại sáng rực trong khoảng mười hai do-tuần. Vị quốc sư ấy, vào hôm hài nhi ra đời, bước ra khỏi cửa nhìn lên trời để tiên đoán số mạng của con và biết rằng hài nhi sinh ra theo một sự kết hợp của các vì sao ở thiên giới, về sau chắc chắn sẽ làm thủ lĩnh thiện xạ toàn cõi Diêm-phù-đề.
Vì thế, ông vội đi thật sớm đến hoàng cung vấn an vua. Khi vua phán:
– Này quốc sư, làm sao trẫm an khang được, hôm nay một loạt vũ khí sáng rực lên trong cung.
Ông tâu:
– Xin Đại vương chớ sợ, không những chỉ trong cung mà khắp kinh thành đều thấy ánh sáng của binh khí. Đó là do một hài nhi ra đời trong nhà chúng thần.
– Này quốc sư, việc ra đời của một hài nhi trong những cơ duyên như thế sẽ đem lại hậu quả gì?
– Tâu Đại vương, không hề gì cả, nhưng sau này hài nhi ấy sẽ là thủ lĩnh của các thiện xạ trong cõi Diêm-phù-đề.
– Tốt lành thay, này quốc sư, hãy khéo chăm sóc hài nhi và khi nó lớn lên, hãy đem nó đến trình diện trẫm!
Nói xong, vua ra lệnh ban một ngàn đồng tiền để nuôi dưỡng hài nhi. Vị quốc sư nhận lãnh đem về nhà. Vào ngày đặt tên hài nhi, ông gọi hài nhi là Jotipāla (Hộ Minh) vì có ánh sáng của các binh khí trong lúc hài nhi ra đời. Hài nhi được nuôi dưỡng rất đầy đủ và đến năm mười sáu tuổi, chàng có dung sắc tuyệt hảo. Thân phụ chàng thấy tướng mạo khác thường như vậy liền bảo:
– Này con, con hãy đi đến thành Takkasilā và thọ giáo mọi môn học từ một vị danh sư tiếng tăm lẫy lừng thế giới!
Chàng tuân lệnh, đem theo học phí, giã từ song thân rồi lên đường đến đó. Chàng dâng lên một ngàn đồng tiền làm lễ nhập học rồi bắt đầu thọ giáo, chỉ trong vòng bảy ngày đã đạt đến tuyệt đích.
Vị Tôn sư kia hoan hỷ tặng chàng một bảo kiếm của mình, một chiếc cung sừng dê và một bao đựng tên, cả hai được buộc vào nhau thật khéo, một áo giáp của ông cùng một chiếc mão rồi bảo chàng:
– Này con Jotipāla yêu quý, ta đã già, vậy con hãy tập luyện các môn đồ này!
Vị này lại trao cho chàng năm trăm môn đồ. Bồ-tát nhận lãnh mọi vật xong, tạ từ sư phụ, trở về Ba-la-nại để thăm viếng song thân.
Thân phụ nhìn thấy chàng cung kính đứng trước mặt liền hỏi:
– Này, con đã học xong chưa?
– Thưa cha, đã xong.
Nghe chàng trả lời thế, người cha liền vào cung và trình vua:
– Tâu Đại vương, con trai của tiểu thần đã học hành xong, bây giờ phải làm gì nữa?
– Quốc sư hãy đem chàng vào chầu ta!
– Tâu Đại vương, xin ban bổng lộc thế nào?
– Cứ ban cho chàng mỗi ngày một ngàn đồng tiền.
Vị quốc sư tuân lệnh ngay, trở về nhà gọi con trai ra bảo:
– Này con, con phải vào chầu đức vua.
Từ đó, mỗi ngày chàng hưởng một ngàn đồng tiền và lo phụng sự nhà vua.
Các quan cận thần lộ vẻ bất mãn:
– Chúng ta không thấy Jotipāla làm gì cả, thế mà hưởng một ngàn đồng tiền mỗi ngày, ta muốn xem chàng có biệt tài gì.
Vua nghe họ nói thế liền nói với quốc sư. Ông tâu:
– Tâu Đại vương, xin vâng lệnh.
Rồi ông trở về nhà nói chuyện với con trai.
– Thưa thân phụ, thế thì tốt quá, vào ngày thứ bảy kể từ nay, con sẽ xin trình diễn tài nghệ, xin đức vua triệu tập tất cả xạ thủ trong nước về đây.
Vị quốc sư đi vào cung, tâu vua mọi chuyện mà chàng nói. Vua truyền lệnh đánh trống khắp kinh thành triệu tập các xạ thủ. Họ đến rất đông, tính được tất cả là sáu mươi ngàn người. Vua nghe họ đã tề tựu liền phán:
– Dân chúng khắp kinh thành hãy đến chứng kiến tài nghệ của Jotipāla!
Sau khi cho trống truyền tin ra, ngài ban lệnh chuẩn bị sân chầu, rồi được đông đảo tùy tùng theo hầu, ngài ngự lên bảo tòa nguy nga; vừa khi triệu tập tất cả xạ thủ xong, ngài cho mời Jotipāla. Dưới lớp y trong, chàng mang cung, bao tên, áo giáp và mão, những vật đã được vị sư phụ tặng chàng trước kia. Chàng lại bảo mang thanh kiếm cho chàng và đến yết kiến vua trong bộ thường phục của chàng rồi cung kính đứng sang một bên.
Các xạ thủ kia suy nghĩ: “Người ta đồn Jotipāla đến đây cho chúng ta thấy biệt tài của chàng, nhưng chàng đến mà không mang kiếm chứng tỏ chàng muốn nhận kiếm từ tay ta.” Thế rồi họ lại thỏa thuận với nhau sẽ không trao kiếm cho chàng. Vua bảo Jotipāla:
– Hãy cho ta thấy tài nghệ của khanh!
Thế là chàng tung ra một tấm màn giống túp lều quanh chàng rồi đứng vào trong đó, cởi áo khoác ra, nịt áo giáp trong xong mang áo giáp ngoài và buộc mão lên đầu. Sau đó, chàng lại giương sợi dây màu san hô trên chiếc cung sừng dê, buộc bao tên sau lưng và thanh kiếm bên sườn trái; chàng xoay tít mũi tên có đầu nhọn đính kim cương trên móng tay chàng, tung bức màn ra và xuất hiện như một vị long vương vọt lên từ lòng đất với trang phục huy hoàng rực rỡ và đứng đảnh lễ vua.
Quần chúng thấy chàng liền nhảy lên reo hò vỗ tay vang dội. Vua bảo:
– Này Jotipāla, hãy trình diễn tài nghệ của khanh!
Chàng đáp:
– Tâu Đại vương, trong các xạ thủ này có những người bắn tên nhanh như chớp, chẻ được cả sợi tóc, hay bắn vào một tiếng động mà không cần nhìn thấy, hoặc bắn gãy một mũi tên đang rơi. Xin triệu bốn vị đó đến đây.
Vua liền triệu họ ngay. Bậc Đại sĩ dựng rạp trên một khoảng đất vuông trong sân chầu, bốn góc chàng để bốn xạ thủ ấy đứng; mỗi vị được phát cho ba mươi ngàn mũi tên, bảo người đưa tận tay mỗi vị; còn chính chàng cầm mũi tên có gắn đầu kim cương ấy đứng giữa rạp nói lớn:
– Tâu Đại vương, xin cho bốn xạ thủ này bắn tên vào tiểu thần. Tiểu thần sẽ gạt hết tên bắn ấy ra ngoài.
Vua ra lệnh cho họ làm như vậy. Họ đáp:
– Tâu Đại vương, chúng thần bắn tên nhanh như chớp, lại chẻ được cả sợi tóc, hay bắn vào một tiếng động mà không cần nhìn thấy, hoặc bắn gãy mũi tên đang rơi; còn Jotipāla chỉ là chàng trai mới lớn, chúng thần không muốn bắn vào chàng.
Bậc Đại sĩ bảo:
– Nếu các ngài bắn được ta thì cứ bắn.
– Đồng ý!
Họ bảo và đồng loạt bắn tên. Bậc Đại sĩ gạt tên tới tấp bằng mũi tên sắt của chàng, bằng đủ cách làm chúng rớt xuống đất rồi xoay một vòng quanh chúng. Chàng chất chúng lên thành một kho đầy tên xếp ăn khớp với nhau, cán với cán, chuôi với chuôi, lông chim với lông chim, cho đến khi tất cả các mũi tên của toán xạ thủ được dùng hết sạch. Chàng thấy vậy mà không muốn đụng vào kho tên kia, chàng liền nhảy lên không đến trước vua. Dân chúng reo hò vang dậy, la hét nhảy múa vỗ tay, ném cả áo quần, đồ trang sức thành một đống của cải châu báu đến một trăm tám mươi triệu đồng. Lúc ấy, vua hỏi:
– Này Jotipāla, khanh gọi xảo thuật này là gì?
– Tâu Đại vương, đó là cách đỡ tên.
– Có nhiều người biết cách ấy chăng?
– Tâu Đại vương, không có ai ngoài tiểu thần trong toàn cõi Diêm-phù-đề.
– Khanh hãy biểu diễn xảo thuật khác đi!
– Tâu Đại vương, bốn xạ thủ kia đứng bốn góc không bắn trúng tiểu thần được. Song nếu họ cứ đứng bốn góc ấy, thần sẽ bắn trúng cả bọn họ chỉ bằng một mũi tên thôi.
Bốn xạ thủ kia không dám đứng đó nữa, vì thế bậc Đại sĩ dựng bốn cây chuối ở bốn góc, buộc mỗi sợi chỉ đỏ tía trên phần gắn lông chim của mũi tên rồi chàng bắn mũi tên nhắm vào một cây chuối. Mũi tên đâm vào cây chuối xuyên qua đến cây thứ hai, thứ ba, thứ tư rồi trở lại cây đầu tiên mà nó đã vừa xuyên thủng rồi trở về trong tay vị xạ thủ, đồng thời các cây chuối đứng vòng quanh theo sợi chỉ đỏ. Dân chúng lại hò reo vang dậy.
Vua hỏi:
– Xảo thuật này gọi là gì, Jotipāla hiền hữu?
– Tâu Đại vương, đó là vòng tròn bị xuyên thủng.
– Thế khanh trổ thêm tài nghệ nữa đi.
Bậc Đại sĩ liền trình diễn các kiểu bắn tên hình gậy, hình dây thừng, hình bện tóc và biểu diễn các xảo thuật khác gọi là bắn tên hình cái đài cao, tên hình ngôi đình, tên hình bức tường, tên hình cầu thang, tên hình hồ nước, tên hình hoa sen nở và bắn mưa tên.
Như vậy, chàng biểu diễn mười hai tài nghệ vô song và làm gãy bảy vật lớn vô địch. Chàng bắn thủng một tấm ván gỗ sung dày hai tấc, một tấm gỗ asana (kha tử) dày một tấc, một đĩa đồng dày năm phân, một đĩa sắt dày hai phân; và sau khi bắn thủng một trăm tấm ván ghép vào nhau, lần lượt chàng bắn mũi tên vào phía trước, vào các toa xe đựng đầy rơm, cát và ván gỗ rồi làm cho tên xuyên qua phía sau, rồi lại bắn phía sau các toa xe và làm cho tên xuyên qua phía trước.
Chàng bắn mũi tên xuyên qua một khoảng độ hai trăm năm mươi mét dưới nước và hơn năm trăm mét trên đất liền, chàng lại bắn trên chóp quả cà tím cách khoảng sáu mươi mét ngay dấu hiệu đầu tiên nó vừa lay động theo gió. Bồ-tát tung tên ra, tạo thành hình cái đài cao, v.v… giữa không trung, rồi lại dùng một mũi tên bắn tan các tên rơi xuống, gọi là phá hình tên. Khi chàng biểu diễn mọi kỳ công về tài nghệ này xong, mặt trời vừa lặn.
Lúc ấy, vua hứa ban cho chàng chức Tổng lãnh binh và bảo:
– Này Jotipāla, nay đã tối rồi, ngày mai khanh sẽ nhận vinh dự làm Đại tướng quân. Hãy đi cắt tỉa râu tóc và tắm gội!
Cùng ngày ấy, vua ban cho chàng một trăm ngàn đồng tiền để chi tiêu. Bậc Đại sĩ đáp:
– Tâu Đại vương, tiểu thần không cần tiền.
Rồi chàng ban tài sản trị giá một trăm tám mươi triệu đồng cho các vị lãnh chúa và cùng đông đảo tùy tùng đi ra sông tắm. Sau khi đã tô điểm râu tóc và mặc xiêm y với đủ loại trang sức, chàng thưởng thức cao lương mỹ vị xong, đến nằm nghỉ trên vương tòa; ngủ được hai canh, đến canh cuối cùng chàng thức giấc, ngồi xếp bằng trên vương tòa, suy nghĩ đến phần khởi đầu, phần giữa và phần cuối việc phô diễn kỳ công về tài nghệ của mình.
Chàng nghĩ thầm: “Tài nghệ của ta hiển nhiên khởi đầu là chết chóc, phần giữa là thọ hưởng ái dục và cuối cùng là tái sanh vào địa ngục. Vì hủy diệt mạng sống và buông lung phóng dật trong việc thọ hưởng dục, tội lỗi sẽ đưa đến tái sanh vào địa ngục. Vua ban ta chức Đại tướng quân và uy quyền cao trọng sẽ về tay ta. Ta sẽ có vợ con nhưng nếu các dục lạc cứ tăng mãi thì thật khó thoát ra được. Bây giờ, ta bỏ đời sống thế tục để đi vào rừng sống đời ẩn sĩ tu hành là đúng đắn nhất.”
Bậc Đại sĩ đứng lên khỏi vương tòa, không cho ai biết, ngài bước xuống từ thượng lầu, ra đường bằng cửa hậu, đi vào rừng một mình đến một nơi trên bờ sông Godhāvarī gần rừng Kaviṭṭha rộng chừng ba do-tuần.
Thiên chủ Sakka (Đế-thích) nghe tin ngài xuất gia liền triệu thần Vissakamma đến và bảo:
– Này Hiền hữu, Jotipāla đã xuất gia và một hội chúng đông đảo sẽ hầu ngài. Vậy hãy dựng am ẩn sĩ bên bờ sông Godhāvarī gần rừng Kaviṭṭha và cung cấp đủ vật dụng cần thiết cho đời sống tu hành!
Thần Vissakamma tuân lệnh. Còn bậc Đại sĩ khi đến nơi, thấy con đường vừa cho một người đi bộ, nghĩ thầm: “Chắc đây là nơi dành cho các vị khổ hạnh trú thân”, rồi đi theo con đường đó, ngài không gặp ai liền bước vào lều cỏ, chợt thấy vật dụng dành cho đời ẩn sĩ, ngài tự bảo: “Chắc Thiên chủ Sakka biết ta đã xuất gia.” Rồi cởi áo khoác, ngài đắp thượng y và hạ y bằng sợi vỏ cây đã được nhuộm, khoác tấm da hươu lên một bên vai. Ngài buộc các cuộn tóc, khoác lên vai túi đựng các vật dụng, cầm gậy nhỏ đi đường bước ra khỏi am, leo lên thềm đi kinh hành.
Như vậy, ngài đã làm vinh quang khu rừng bằng vẻ cao đẹp của đời sống khổ hạnh và sau khi thực hành pháp môn thiền định đề mục biến xứ xong, vào ngày thứ bảy kể từ khi xuất gia, ngài chuyên tâm tu tập tám thiền chứng và năm thắng trí, theo hạnh độc cư, đi khất thực và dùng củ quả rừng.
Cha mẹ, thân bằng, bà con quyến thuộc không thấy ngài đâu liền đi tìm khắp nơi, lòng buồn phiền thất vọng. Sau đó, một sơn nhân đã từng gặp và nhận ra bậc Đại sĩ trong vùng am thất Kaviṭṭha kia liền đi báo với song thân ngài và họ tâu trình vua. Vua phán:
– Này, ta đi thăm chàng ngay.
Rồi cùng với song thân chàng và một đoàn tùy tùng theo hầu, vua đến bờ sông Godhāvarī theo con đường mà sơn nhân ấy đã chỉ dẫn. Bồ-tát đến bờ sông, ngồi trên không thuyết pháp cho hội chúng nghe, sau đó dẫn hội chúng về am, ngài cũng ngồi trên không, giảng rõ cho họ nỗi đau khổ vì tham đắm dục lạc rồi dạy họ Chánh pháp. Tất cả cùng với vua xuất gia tu hành.
Bồ-tát vẫn tiếp tục sống ở đó cùng hội chúng tu hành chung quanh ngài. Tin ngài ẩn cư tại đó lan rộng khắp cõi Diêm-phù-đề. Vua chúa cùng quần thần đến đó sẵn sàng theo lệnh ngài, hội chúng dần dần lên đến hàng ngàn người. Hễ ai nghĩ đến tham dục, hay muốn hại người khác, bậc Đại sĩ liền đi đến, ngồi trên không và thuyết pháp cho người ấy cùng dạy pháp môn thiền đề mục biến xứ.
Bảy đại đệ tử của ngài là Sālissara,[7] Meṇḍissara, Pabbata, Kāḷadevala, Kisavaccha, Anusissa và Nārada. Các vị này nhờ tuân hành lời thuyết giáo của ngài, đều đạt tám thiền chứng và thiền định viên mãn. Dần dần, vùng thảo am Kaviṭṭha trở nên đông đúc, không còn chỗ cho các vị ẩn sĩ sống nữa.
Bậc Đại sĩ liền bảo Sālissara:
– Này Sālissara, nơi này không đủ cho các ẩn sĩ ở. Vậy Hiền hữu đi cùng hội chúng này đến ẩn cư gần thị trấn Lambacūḷaka thuộc thành trì của Vua Caṇḍapajjota.
Vị này tuân lệnh ấy, đem theo hội chúng hàng ngàn người đến cư trú ở đó. Nhưng nhiều người vẫn đến gia nhập với hội chúng khổ hạnh kia nên thảo am lại đông dần như trước. Bồ-tát nói với Meṇḍissara:
– Này Meṇḍissara, trên biên giới xứ Suraṭṭha có dòng sông Sātodikā, Hiền hữu hãy đem chúng ẩn sĩ này đến cư trú trên bờ sông ấy!
Và ngài bảo vị ấy ra đi. Cũng cách ấy, lần thứ ba, ngài gọi Pabbata đến bảo:
– Này Pabbata, trong đại lâm có núi Ārañjara, Hiền hữu hãy đến an trú tại đó!
Lần thứ tư, ngài gọi Kāḷadevala đến bảo:
– Phía Nam quốc độ Avanti là núi Ghanasela, Hiền hữu hãy đến an trú gần đó!
Dần dần, thảo am tại Kaviṭṭha lại đông đảo dù đã có năm hội chúng ẩn sĩ đi đến cư trú năm vùng khác nhau, tính được mấy ngàn người. Rồi Kisavaccha xin phép bậc Đại sĩ đến cư trú trong ngự viên gần vị tổng tướng quân tại kinh thành Kumbhavatī trong quốc độ của Vua Daṇḍakī. Ẩn sĩ Nārada cư trú trong địa phận chính của dãy núi Ārañjara. Còn Anusissa ở lại cùng bậc Đại sĩ.
Vào thời ấy, Vua Daṇḍakī thất sủng một cung phi mà trước kia vua rất quý trọng nên trong lúc buồn phiền, nàng đi ngao du đến ngự viên kia; khi thấy ẩn sĩ Kisavaccha, nàng liền nghĩ: “Chắc hẳn đây là kẻ mang vận xui. Ta phải vứt bỏ tội lỗi của ta trên người của kẻ này rồi đi tắm rửa.” Trước hết, nàng cầm cây tăm xỉa răng rồi nhổ ra một đống nước bọt ngay trên nắm tóc bện lại của vị ẩn sĩ, nàng còn ném cây tăm trên đầu vị này rồi đi tắm.
Còn vua khi nhớ đến nàng, lại cho nàng phục chức như cũ. Trong lúc lòng say sưa cuồng nhiệt, nàng kết luận rằng nàng phục hồi vinh dự ấy là do vứt bỏ được tội lỗi của mình trên con người xui xẻo kia. Không lâu sau đó, vua lại cách chức của vị tế sư hoàng gia, lão này cũng đi hỏi nàng cung phi kia nhờ cách gì nàng được phục chức. Nàng kể lại đó là nhờ nàng vứt bỏ tội lỗi trên con người xui xẻo ở trong ngự viên.
Lão quốc sư cũng đi vứt bỏ tội lỗi của mình theo cách ấy và cũng được vua phục chức như cũ. Thời ấy, dần dần có loạn ở biên giới, vua đem một đoàn quân đi đánh trận. Lão quốc sư đang cuồng nhiệt mê mờ kia tâu vua:
– Tâu Đại vương, Đại vương muốn thắng hay bại?
Vua bảo:
– Thắng!
Lão liền nói:
– Thế thì có người xui xẻo đang trú ngụ trong ngự viên, xin Đại vương đem tội lỗi đến vứt lên đầu gã ấy!
Vua tán thành ý kiến ấy, phán:
– Các binh sĩ hãy cùng đi với trẫm đến ngự viên vứt bỏ tội lỗi lên con người xui xẻo kia!
Khi đến nơi, trước tiên vua ngậm cây tăm rồi nhổ nước bọt và thả cây tăm rơi trên mớ tóc bện chặt của vị ẩn sĩ, sau đó còn làm ướt đầu ngài, cả đoàn quân lính cũng làm theo như vậy. Khi vua đi rồi, vị tổng tướng quân đến, thấy vị ẩn sĩ liền lấy cây tăm ra khỏi tóc và tắm gội cho vị này thật sạch sẽ xong lại hỏi:
– Đức vua sau này sẽ ra sao?
– Thưa ngài, tâm ta không sân hận gì, nhưng chư thần phẫn nộ nên vào ngày thứ bảy kể từ hôm nay, quốc độ của ngài sẽ tan tành, ngài nên mau thoát đi nơi khác.
Vị tướng quân vô cùng kinh hãi, về tâu vua. Vua không tin, vì thế vị tướng quân đem vợ con trốn sang quốc độ khác. Bậc Đạo sư Sarabhaṅga (tức Bồ-tát Jotipāla) nghe tin ấy liền bảo hai ẩn sĩ trẻ tuổi đến đem Kisavaccha trên chiếc cáng bay về từ trên không. Còn vua đánh trận xong, đem đám phản loạn làm tù binh trở về thành.
Vào lúc vua trở về, trước hết chư thần làm mưa xuống, các xác chết được cơn mưa lũ cuốn trôi đi hết, lại có trận mưa cát trắng tinh khiết, rồi có mưa hoa trời rơi trên lớp cát trắng tinh khiết, trên hoa trời có mưa tiền nhỏ rơi xuống, sau đó có mưa tiền lớn, tiếp theo là trận mưa đầy châu báu cõi trời.
Dân chúng hân hoan lượm báu vật bằng vàng ròng. Sau đó, rơi xuống trên thân họ một trận mưa đủ loại binh khí đang bừng cháy, dân chúng bị phân thây tan tành. Kế đến là trận mưa than hồng nóng bỏng rơi trên người họ và trên các đám lửa cao như núi ấy rơi xuống một trận mưa cát mịn tràn ngập một khoảng rộng chừng sáu mươi cubit.[8] Một phần quốc độ rộng sáu mươi do-tuần bị tàn phá tan tành và tin trận hủy diệt này loan ra khắp toàn cõi Diêm-phù-đề.
Các lãnh chúa trong các xứ chư hầu, ba vị vua xứ Kāliṅga, Aṭṭhaka và Bhīmaratha nghĩ thầm: “Ngày xưa ở Ba-la-nại, vua xứ Kāsi là Kalābu[9] đã phạm tội với ẩn sĩ Khantivādī, chuyện kể rằng vua ấy bị nuốt vào lòng đất; cũng vậy, Vua Nāḷikīra đem các ẩn sĩ cho chó ăn thịt; Vua Ajjuna có ngàn cánh tay đã phạm tội với Aṅgīrasa nên cũng chết như cách trên. Nay Vua Daṇḍakī phạm tội với Kisavaccha nên tương truyền cũng bị tan tành quốc độ, bị hủy diệt hết thảy. Chúng ta không biết các vị vua ấy tái sanh cõi nào, không ai trừ ngài Sarabhaṅga, Đạo sư của chúng ta có thể nói về điều này. Vậy chúng ta hãy đi hỏi ngài!”
Rồi cả ba vị vua cùng đông đảo tùy tùng đi hỏi chuyện này. Nhưng dù cả ba vị vua đã nghe tin đồn như vầy như kia cũng không biết thực hư ra sao, mỗi vị cứ tưởng rằng chỉ riêng mình lên đường nên khi không còn cách xa Godhāvarī mấy, cả ba vị vua gặp nhau, cùng bước xuống các vương xa và ngự lên một chiếc vương xa duy nhất để cùng lên đường đến bờ sông Godhāvarī.
Vào lúc ấy, Thiên chủ ngự trên ngai hoàng cẩm thạch, xem xét bảy vấn đề và tự nhủ thầm: “Ngoại trừ bậc Đạo sư Sarabhaṅga, không có ai trên trần thế hay thiên giới có thể giải đáp các vấn đề trên. Vậy ta hãy đi hỏi ngài! Ba vị vua kia đã đi đến bờ sông Godhāvarī để hỏi bậc Đạo sư Sarabhaṅga. Ta cũng sẽ đến hỏi ngài vấn đề ba vị kia hỏi.”
Sau đó, được chư thiên của hai thiên giới hộ tống, ngài giáng trần. Ngay hôm ấy, ẩn sĩ Kisavaccha từ trần nên lúc cử hành tang lễ có vô số hội chúng ẩn sĩ cư trú ở nhiều nơi khác nhau đến dựng giàn hỏa táng bằng gỗ chiên-đàn để hỏa thiêu ngài. Và quanh chỗ hỏa thiêu khoảng chừng nửa do-tuần, hoa trời rơi xuống như mưa.
Bậc Đại sĩ sau khi xem xét việc cất giữ phần di cốt của vị đệ tử xong liền vào am cùng các ẩn sĩ theo hầu và ngồi xuống. Khi các vua đến bờ sông, có tiếng nhạc quân hành trỗi. Bậc Đại sĩ nghe vậy, bảo ẩn sĩ Anusissa:
– Ông hãy ra xem nhạc ấy có ý nghĩa gì?
Sau khi cầm bình nước uống, ẩn sĩ đến đó, khi thấy ba vị vua, ngài ngâm vần kệ đầu để thăm hỏi:
50. Vòng vàng, xiêm áo thật cao sang,
Chư vị đeo gươm nạm bảo trân,
Trân trọng kính chào chư đại tướng,
Danh gì cho biết giữa trần gian?
Nghe lời ngài hỏi, ba vị vua liền xuống xe đảnh lễ ngài. Trong ba vị, Vua Aṭṭhaka lên tiếng đáp lời ngài qua vần kệ thứ hai:
51. Bhīmaratha, danh đế Kāliṅga,
Cùng trẫm, Aṭṭhaka chính hiệu ta,
Yết kiến chư Hiền nhân khổ hạnh,
Đến đây tham vấn đủ ba vua.
Ẩn sĩ bảo ba vị vua:
– Thế thì tâu Đại vương, các ngài đã đến tận nơi các ngài muốn. Sau khi tắm rửa nghỉ ngơi, các ngài vào am đảnh lễ hội chúng ẩn sĩ rồi đem vấn đề ra hỏi Đạo sư Sarabhaṅga.
Như vậy, ngài chuyện trò thân mật cùng ba vị vua rồi cầm lấy bình nước và lau hết những giọt nước rớt ra ngoài. Ngài nhìn lên thấy Thiên chủ Sakka được đông đảo chư thiên hộ tống đang giáng trần ngự trên lưng thiên tượng Erāvaṇa, ẩn sĩ liền đối thoại với Thiên chủ qua vần kệ thứ ba:
52. Ngài ngự trên cao, giữa cõi trời,
Như vầng trăng tỏa ánh vàng soi,
Đại Thiên thần, dám xin ngài dạy,
Danh tiếng ngài sao ở cõi đời.
Nghe thế, Thiên chủ đáp vần kệ thứ tư:
53. Sujampati danh tiếng trên trời,
Tên gọi Maghavā ở cõi đời,
Thiên chủ hôm nay vừa giáng thế,
Thăm Hiền nhân khổ hạnh bao người.
Lúc ấy, ẩn sĩ Anusissa nói với ngài:
– Tâu Thiên chủ, xin ngài hãy theo chúng thần!
Rồi cầm bình nước, vị ẩn sĩ vào am, cất bình nước xong liền đến báo tin cho bậc Đại sĩ biết có ba vị vua cùng Thiên chủ giáng thế để hỏi ngài một số vấn đề. Lúc ấy, hội chúng ẩn sĩ vây quanh Đạo sư Sarabhaṅga đang an tọa giữa một khoảng rộng có rào che. Ba vị vua đến đảnh lễ chúng ẩn sĩ rồi ngồi xuống một bên. Còn Thiên chủ Sakka đến gần hội chúng, chắp tay vái chào và tán thán hội chúng này qua vần kệ thứ năm:
54. Ẩn sĩ vang danh đã hội đây,
Thần thông và đại lực tràn đầy,
Tôi thành tâm đảnh lễ Hiền thánh,
Bậc thượng nhân trong thế giới này.
Thiên chủ Sakka chào hội chúng như vậy xong liền ngồi riêng ra để tránh khỏi sáu cố tật lúc ngồi. Sau đó, ẩn sĩ Anusissa thấy ngài ngồi phía dưới hội chúng liền ngâm vần kệ thứ sáu:
55. Ẩn sĩ xuất gia đã lâu ngày,
Mùi từ cơ thể gió mang bay,
Tựa tràng đủ loại hoa thơm ngát,
Tôn giả, chúng tôi mong ước thay,
Hương ấy chư thiên thật muốn có,
Nên không nhờm gớm mùi hương này.
Nghe nói vậy, Thiên chủ Sakka đáp vần kệ khác:
56. Dù các Thánh nhân tuổi đã già,
Gây mùi xúc phạm mũi người ta,
Nhiễm ô luồng khí đưa hương ngát,
Ta vẫn yêu mùi Thánh bốc ra,
Hơn các tràng hoa thơm rực rỡ,
Chư thiên chẳng ghét chuyện kia mà.
Nói vậy xong, ngài thêm:
– Này ẩn sĩ Anusissa, ta gắng công đến đây để hỏi một số vấn đề, xin hãy cho phép ta làm việc ấy!
Nghe xong lời Thiên chủ Sakka, ẩn sĩ Anusissa liền từ chỗ ngồi đứng dậy ngâm hai vần kệ đề nghị với hội chúng ẩn sĩ:
57. Sujam phu tướng,[10] Maghavā,[11]
Thí chủ lừng danh, chúa quỷ ma,
Dẹp lũ yêu tinh, Thiên đế ấy,
Ước ao được hỏi chuyện cùng ta.
58. Ai đây trong các bậc Hiền nhân,
Giải đáp vấn đề thật khó khăn,
Cho cả ba vua đang trị nước,
Và Sakka, Chúa tể thiên thần?
Nghe vậy, cả hội chúng ẩn sĩ đều bảo:
– Này Hiền hữu Anusissa, bạn nói chẳng khác nào bạn không thấy quả đất bạn đang ở. Ngoại trừ bậc Đạo sư Sarabhaṅga của chúng ta, còn ai xứng đáng để trả lời các vấn đề kia nữa?
Nói xong, các vị ấy liền ngâm vần kệ khác:
59. Sarabhaṅga, Thánh giả chân hiền,
Thanh tịnh, thoát ly mọi trược phiền,
Pháp tử tinh thông trì giới luật,
Giải trừ nghi hoặc của nhân, thiên.
Nói xong, hội chúng bảo ẩn sĩ Anusissa:
– Thưa Hiền hữu, xin Hiền hữu nhân danh hội chúng đến đảnh lễ bậc Đạo sư và tìm cơ hội thưa với ngài về vấn đề Thiên chủ đặt ra.
Vị này chấp thuận ngay rồi tìm được cơ hội liền ngâm tiếp vần kệ khác:
60. Ngài Koṇḍañña, xin trả lời!
Thánh hiền ẩn sĩ đang kêu nài,
Đây là quy luật của người định,
Bậc trưởng thượng mang bổn phận này.
Bậc Đại sĩ liền chấp thuận và ngâm vần kệ sau:
61. Cho phép người đem hỏi chuyện gì,
Thực lòng người vẫn ước mong nghe,
Đời này, đời kế, ta đều biết,
Trí chẳng nghi nan mọi vấn đề.
Sau khi được bậc Đại sĩ cho phép, Thiên chủ đưa ra vấn đề ngài chuẩn bị hỏi.
***
Bậc Đạo sư ngâm kệ làm sáng tỏ sự việc này:
62. Thiên chủ tìm chân lý pháp trần,
Đến chư Hiền giả lượng khoan hồng,
Để ngài học những điều mong biết,
Và bắt đầu tham vấn mọi phần.
63. Cái gì ta phải diệt hoàn toàn,
Mà chẳng bao giờ hối tiếc không,
Và cái gì ta cần vứt bỏ,
Mà người hiền thiện thảy đồng lòng?
Lời ai, ta phải cần kham nhẫn,
Cho dẫu là thô lỗ tận cùng?
Đây chính là điều ta ước muốn,
Koṇḍañña Thánh giả nói cho thông.
Bậc Đại sĩ ngâm kệ giải thích vấn đề:
64. Sân hận là tâm phải diệt trừ,
Mà ta chẳng hối tiếc bao giờ,
Giả nhân, giả nghĩa cần quăng bỏ,
Được tán đồng ngay bởi bậc từ.
Ta phải nhịn lời từ mọi phía,
Dù lời thô lỗ thật vô bờ,
Lòng kham nhẫn ấy, Hiền nhân bảo,
Đệ nhất ngôi cao quả thật là.
Thiên chủ:
65. Những lời thô ác của hai người,
Ta phải kiên tâm chịu đựng hoài,
Là bậc trên, người cùng đẳng cấp,
Song làm sao nhẫn nhịn bao lời,
Của người thấp kém hơn ta nữa,
Là việc ta mong học hỏi ngài.
Sarabhaṅga:
66. Lời ác thô từ các bậc trên,
Ta thường kham nhẫn bởi lòng kiêng,
Hoặc không tranh cãi người đồng đẳng,
Song nhịn lời thô kẻ thấp hèn,
Là chính viên thành lòng nhẫn nhục,
Như lời Hiền thánh vẫn thường khuyên.
Các vần kệ trên đây là những lời đối đáp giữa hai vị. Khi ngài nói xong, Thiên chủ Sakka bảo bậc Đại sĩ:
– Thưa Thánh giả, trong phần đầu ngài bảo: “Nhẫn nhịn lời thô lỗ của mọi người, đó là lòng kiên nhẫn tối thượng”, song nay ngài lại bảo: “Nhẫn nhịn lời thô lỗ của kẻ dưới, đó là lòng kiên nhẫn tối thượng.” Lời nói sau không ăn khớp với lời nói đầu tiên của ngài.
Lúc ấy, bậc Đại sĩ nói với Thiên chủ:
– Thưa Thiên chủ, lời sau cùng này của ta dành cho một người nhẫn nhịn lối nói thô lỗ của một kẻ mà người ấy biết là thấp kém hơn mình, còn lời nói đầu tiên của ta là do khi chỉ nhìn bề ngoài, ta không thể biết chắc hoàn cảnh của người khác có thấp kém hơn ta hay không.
Rồi để nêu rõ thật khó khi chỉ nhìn bề ngoài mà phân biệt người thấp kém hay cao sang, trừ phi là phải qua tiếp xúc thân mật, ngài liền ngâm kệ:
67. Khó nhìn hào nhoáng vẻ bề ngoài,
Mà đoán hơn, thường hay giả dạng,
Tồi tàn xuất hiện ở trong đời.
Vậy thì bạn hỡi, ta khuyên nhủ,
Hãy nhịn lời thô của mọi người!
Khi nghe điều này, Thiên chủ đầy lòng tín thành, cầu xin ngài:
– Thưa Tôn giả, xin Tôn giả thuyết giảng cho chúng ta biết lợi lạc của sự nhẫn nhục này.
Bậc Đại sĩ liền ngâm kệ:
68. Sức mạnh quân vương đến bực nào,
Cũng không thắng lợi chốn binh đao,
Bằng Hiền nhân tạo nhờ kham nhẫn,
Đại nhẫn xóa tan mọi hận cừu.
Khi bậc Đại sĩ đã thuyết giảng các công đức do nhẫn nhục tạo nên như vậy xong, các vị vua suy nghĩ: “Thiên chủ Sakka hỏi vấn đề của riêng ngài mà lại không để cho chúng ta có cơ hội hỏi vấn đề của chúng ta.”
Biết được ước vọng của các vua ấy, Thiên chủ để riêng bốn vấn đề ngài đã chuẩn bị trước đây qua một bên, và khi hỏi về mối hoài nghi của các vị vua kia, Thiên chủ ngâm kệ này:
69. Lời ngài đang dạy thật êm tai,
Song muốn hỏi thêm một chuyện này,
Xin hỏi phận Daṇḍakī chúa tể,
Cùng ba tòng phạm lỗi lầm gây,
Cõi nào phải tái sanh đày đọa,
Vì phá Thánh hiền thế giới đây?
Bậc Đại sĩ ngâm năm vần kệ giải đáp các vấn đề trên:
70. Thuở nọ tan tành cả quốc gia,
Vì làm ô nhục Thánh Kisa,
Daṇḍakī ngã xuống Kukkula địa,
Tràn ngập than hừng hóa bụi tro.
71. Nāḷikīra đầy hoảng hốt rơi vào,
Địa ngục trong nanh vuốt chó ngao,
Vì nhạo báng Hiền nhân, đạo sĩ,
Pháp sư chẳng phạm lỗi lầm nào.
72. Cũng vậy Ajjuna giết ngay,
Thánh nhân thanh tịnh, luyện tu dày
Aṅgīrasa nên bị xô đầu xuống,
Hành hạ thân trong chốn đọa đày.
73. Kalābu cháy tại Diêm cung,
Giữa khổ đau thê thảm, hãi hùng,
Vì đã hại Hiền nhân đức hạnh,
Bậc thầy nhẫn nhục, tiếng vang lừng.
74. Người trí nghe xong các chuyện trên,
Về miền địa ngục khổ triền miên,
Chẳng hề hại Đạo sư Hiền trí,
Nhờ chánh nghiệp, sau đạt cõi thiên.
Khi bậc Đại sĩ đã nêu rõ các cõi mà bốn vị vua kia phải thác sanh về, ba vị vua này giải tỏa được hết mối nghi ngờ. Rồi Thiên chủ Sakka ngâm vần kệ để nêu lên bốn vấn đề của ngài:
75. Lời ngài đáng quý trọng êm tai,
Song muốn nghe thêm một chuyện này,
Ai được người đời xem đức độ?
Thế nhân gọi “Trí giả” là ai?
Người trần xem kẻ nào thành tín?
Ai kẻ vận may chẳng bỏ rơi?
Bậc Đại sĩ liền ngâm bốn vần kệ trả lời:
76. Khẩu hành chứng tỏ tự điều thân,
Tư tưởng tránh xa mọi lỗi lầm,
Chẳng dối gian nhằm đích hạ liệt,
Được xem đức độ giữa nhân quần.
77. Giải đáp vấn đề, trí tuệ thâm,
Không làm điều ác độc, vô lương,
Lời hay đúng lúc đem khuyên nhủ,
Được mọi người xem đúng Trí nhân.
78. Biết ơn vì đã nhận ân lành,
Làm nhẹ buồn đau với nhiệt tình,
Chứng tỏ bạn hiền lòng vững chắc,
Mọi người ca ngợi kẻ tâm thành.
79. Kẻ nào tài khéo đủ trong tay,
Chân thật, dịu dàng, rộng lượng thay,
Ái ngữ, ân cần, người cảm phục,
Vận may chẳng bỏ kẻ như vầy.
Bậc Đại sĩ trả lời bốn vấn đề trên như vậy, chẳng khác nào làm vầng trăng hiện lên bầu trời. Sau đó là những câu hỏi đáp khác nữa:
[Thiên chủ:]
80. Lời ngài đáng thán phục êm tai,
Ao ước nghe thêm một chuyện này,
Đức hạnh, vận may, hiền trí, thiện,
Cái nào tối thắng giữa trần ai?
81. Người thiện xem Hiền trí tối cao,
Như trăng che khuất các vì sao,
Đức hạnh, hiền lương cùng vận tốt,
Rõ ràng bậc Trí phải theo mau.
82. Lời người thân ái thật êm tai,
Mong ước nghe thêm một chuyện này,
Muốn đạt thành tâm minh trí tuệ,
Đường nào hành động phải theo hoài?
Đâu là Trí đạo xin cho biết,
Nhờ việc nào người có trí ngay?
[Bậc Đại sĩ:]
83. Kết bạn người uyên bác lão thành,
Nhờ tham vấn, học trí thông minh,
Phải nghe theo các lời khuyên tốt,
Vì vậy con người trí tuệ sinh.
84. Bậc Trí nhìn tham dục giác quan,
Thấy đầy bệnh khổ, lắm vô thường,
Giữa tham, ưu não, gây kinh hãi,
An tịnh, Hiền nhân dạ chẳng màng.
85. Vậy điều phục ác nghiệp, ly tham,
Tu tập từ bi vô lượng tâm,
Với mọi hữu tình đều quý mến,
Tâm thanh tịnh đến Phạm thiên cung.
Trong khi bậc Đại sĩ thuyết giảng như vậy về các tội lỗi do tham dục gây ra, ba vị vua cùng với đoàn quân sĩ đều đoạn trừ tham ái nơi ngũ dục lạc nhờ từ bỏ yếu tố bất thiện này. Bậc Đại sĩ biết được việc này liền ngâm kệ tán thán cả ba vị vua:
86. Nhờ thần lực nên Chúa Bhīmaratha,
Cùng với ngài, này Chúa Aṭṭhaka,
Đại đế Kāliṅga hiển hách,
Đến đây các vị đủ luôn ba,
Xưa làm nô lệ cho tham dục,
Nay được tự do giải thoát ra.
Nghe vậy, cả ba vị đại vương ngâm kệ tán thán bậc Đại sĩ:
87. Chính ngài là bậc Tha tâm thông,
Nhờ vậy từ vua đến đạo quân,
Giải thoát khỏi vòng vây dục vọng,
Xin ngài ban bố một hồng ân,
Chúng ta quả thật đều mong ước,
Đạt đến niềm an lạc Thánh nhân.
Sau đó, bậc Đại sĩ ngâm vần kệ khác để ban cho các vị đặc ân này:
88. Ta ban điều các vị mong cầu,
Để các vị xa ác dục mau,
Hoan hỷ vô biên, tâm thấm đượm,
Đạt thành cực lạc ước về sau.
Nghe vậy các vị ngâm kệ tán đồng:
89. Mọi việc làm theo lệnh của ngài,
Những gì ngài nghĩ tối ưu thôi,
Để tâm thấm đượm vô biên hỷ,
Đạt đến lạc an, dạ ước hoài.
Sau đó, bậc Đại sĩ truyền cho xuất gia đối với đoàn quân sĩ của ba vị vua và bảo hội chúng khổ hạnh ra về qua vần kệ này:
90. Đã kính lễ Kisavaccha,
Giờ đây chư vị hãy đi về,
Hỡi chư Tôn đức hạnh tu tốt,
Hãy trú an trong thiền tịnh kia,
Hỷ lạc trong đời tu xuất thế,
Chính là cực lạc tối cao xa.
Các Thánh nhân này tán đồng ý kiến của ngài bằng cách cung kính đảnh lễ ngài rồi bay lên hư không trở về nơi cư trú của mình. Còn Thiên chủ Sakka từ chỗ ngồi chắp tay đảnh lễ bậc Đại sĩ chẳng khác nào tôn kính vầng nhật rồi cùng hội chúng ra về. Thấy vậy, bậc Đại sĩ ngâm các vần kệ sau:
91. Nghe thuyết toàn chân lý tối cao,
Bởi Hiền nhân giọng điệu thanh tao,
Chư thiên trở lại miền thiên giới,
An lạc, ân tình thắm thiết sao.
92. Lời lẽ Thánh hiền dạy lọt tai,
Mang đầy ý nghĩa, giọng thanh bai,
Ai tinh cần tập trung tâm trí,
Tầm tứ chuyên đề sẽ thấy ngay,
Chứng ngộ trước sau sẽ đạt được,
Đạt xong thoát tử thần quyền oai.
***
Bậc Đạo sư đã thuyết giáo như vậy đưa đến quả A-la-hán tối thượng và bảo:
– Không phải chỉ ngày nay mà ngay cả ngày xưa nữa, cũng có trận mưa hoa trời nơi đài hỏa táng của Mục-kiền-liên.
Rồi Ngài giảng bày các Thánh đế và nhận diện tiền thân:
93. Xá-lợi-phất Sālissara,
A-na-luật-đà Pabbata,
Ca-chiên-diên chính Devala,
Ca-diếp là Meṇḍissara.
94. Và A-nan Anusissa,
Mục-kiền-liên Kisavaccha,
Sarabhaṅga chính là Ta,
Câu chuyện tiền thân hiểu thế này.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.