Tam tạng Thánh điển PGVN 07 » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »
Kinh Tiểu Bộ Quyển 3
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch
§521. CHUYỆN BA CON CHIM (Tesakuṇajātaka)[1] (J. V. 109)
Điều này cha muốn hỏi Vessan...
Bậc Đạo sư kể chuyện này trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc giáo giới vua xứ Kosala. Bấy giờ, vị vua này đến nghe thuyết pháp và bậc Đạo sư bảo vua như sau:
– Thưa Đại vương, một vị vua phải cai trị vương quốc chân chánh vì bất cứ khi nào các quân vương bất chánh thì quần thần cũng bất chánh theo.
Và khi giáo giới vua theo chánh đạo như đã kể trong chương IV, Ngài nêu ra những khổ đau liên hệ đến việc hành ác đạo, những hạnh phúc liên hệ đến việc từ bỏ ác đạo và trình bày đầy đủ chi tiết nỗi bất hạnh phát sinh từ dục lạc, vừa so sánh dục lạc với cơn mộng hoặc tương tự như thế, Ngài vừa bảo:
Trong trường hợp những người ở đời này,
Không bạc tiền mua chuộc được tử thần,
Không từ tâm làm lắng dịu ma quân,
Không ai thắng trong chiến trường thần chết,
Vì tất cả đều có ngày tiêu diệt.
Và khi bước sang thế giới bên kia, trừ các thiện nghiệp công đức của riêng mình, con người không có một nương tựa vững chắc nào khác. Vì vậy, con người cần phải từ bỏ các mối quan hệ hạ liệt và vì thanh danh của mình, con người không được buông lung, phóng dật mà phải tinh cần thực hành giới luật chân chánh, giống như các vị vua ngày xưa, trước khi đức Phật ra đời đã an trú vào lời dạy của các bậc Trí, cai trị đúng pháp và lúc từ trần đạt đến cõi trời.
Và theo lời thỉnh cầu của vua, Ngài kể một chuyện quá khứ.
***
Ngày xưa, khi Vua Brahmadatta trị vì Ba-la-nại không có con kế vị và lời vua cầu xin vương tử hoặc công chúa đều không được đáp ứng. Bấy giờ, một hôm, vua cùng đông đảo quần thần hộ tống đến ngự viên, và sau khi vui chơi nửa ngày trong vùng ấy, ngài bảo trải sàng tọa cho ngài nằm dưới gốc cây sāla vương giả. Sau một giấc ngủ trưa ngắn, ngài thức dậy và nhìn lên cây sāla, ngài thấy một tổ chim trên đó. Vừa chợt thấy nó, một ước muốn chiếm lấy tổ chim kia nảy sinh trong lòng, ngài truyền gọi một vị hầu cận đến bảo:
– Hãy trèo lên cây xem thử có gì trong tổ không?
Người ấy trèo lên, thấy có ba quả trứng trong đó liền trình vua. Ngài phán:
– Vậy khanh hãy cẩn thận đừng thổi hơi vào chúng!
Rồi trải một ít vải trong một cái hộp, ngài dặn người ấy đi xuống nhẹ nhàng và đặt trứng vào trong đó. Khi trứng đã được đưa xuống xong, ngài cầm cái hộp đến hỏi các cận thần xem các trứng này thuộc giống chim gì. Họ đáp:
– Chúng thần không biết, song toán thợ săn sẽ biết.
Vua truyền gọi các thợ săn đến hỏi. Họ đáp:
– Tâu Đại vương, một trứng chim cú, một trứng khác là chim nhồng và trứng thứ ba là chim anh vũ.
– Có ba loại trứng khác nhau trong cùng một tổ chim ư?
– Tâu Đại vương, phải, khi không có gì đáng lo ngại thì vật gì được khéo sắp đặt sẽ không hư hoại được.[2]
Vua đẹp ý bảo:
– Chúng nhất định sẽ là các con trẫm!
Rồi vua giao ba quả trứng chim cho ba vị quan trong triều chăm sóc. Ngài bảo:
– Đây sẽ là các con trẫm. Các khanh hãy cẩn thận chăm nom chúng và khi nào chim non nở ra khỏi vỏ, hãy báo tin cho trẫm!
Ba vị chăm sóc trứng chim rất chu đáo. Trước tiên, trứng chim cú được ấp nở, vị quan đầu tiên đi tìm một người thợ săn và bảo:
– Hãy xem chim non này thuộc giống gì, nó là chim trống hay mái?
Khi người ấy xem xong, nói đó là chim trống, vị quan đến trình vua:
– Tâu Đại vương, một vương nhi đã ra đời.
Vua hài lòng, ban thưởng cho ông nhiều vàng bạc và bảo:
– Hãy chăm sóc con trẫm cẩn thận và đặt tên nó là Vessantara!
Rồi ngài bảo ông ra về. Ông làm những việc được giao.
Sau đó vài hôm, trứng chim nhồng được ấp nở; vị quan thứ hai cũng vậy, sau khi bảo một thợ săn xem xét và nghe nói đó là chim mái liền đi tâu trình với vua một công chúa ra đời. Vua đẹp ý ban thưởng nhiều vàng bạc và bảo:
– Hãy chăm nom con gái trẫm thật cẩn thận và đặt tên nó là Kuṇḍalinī!
Ngài lại bảo ông ra về. Ông cũng làm những việc được giao.
Sau đó vài hôm nữa, trứng chim anh vũ được ấp nở và vị quan thứ ba, sau khi được người thợ săn xem xét kỹ, nói đó là chim trống liền đi tâu vua một vương tử mới ra đời. Vua hoan hỷ ban thưởng rộng rãi và bảo:
– Hãy làm lễ tôn vinh vương tử của trẫm thật long trọng và đặt tên nó là Jambuka!
Rồi ngài bảo ông ra về. Ông cũng làm những việc được giao.
Ba con chim lớn lên trong nhà ba vị quan ấy với mọi lễ nghi thích hợp với hoàng gia. Vua thường gọi chúng là “con trai trẫm, con gái trẫm.”
Các triều thần thường nói đùa với nhau:
– Hãy xem Chúa thượng làm kia, ngài cứ đi quanh nói chuyện về bầy chim như các con của ngài vậy!
Vua suy nghĩ: “Quần thần này không biết mức độ trí tuệ của các con ta. Ta muốn chứng tỏ việc này cho họ thấy.” Vì thế, ngài truyền một vị cận thần đến bảo Vessantara: “Phụ vương muốn hỏi vương tử một câu. Vậy khi nào ngài có thể đến hỏi được?”
Vị ấy đến chào Vessantara và truyền lại lời của vua. Vessantara mời vị quan chăm sóc mình đến và nói:
– Họ bảo Phụ vương ta muốn hỏi ta một câu. Khi ngài đến, chúng ta phải bày tỏ tất cả lòng tôn kính đối với ngài.
Và chim hỏi thêm:
– Vậy khi nào Phụ vương có thể đến?
Vị này đáp:
– Xin mời Đại vương đến vào ngày thứ bảy kể từ hôm nay.
Vessantara nghe vậy liền bảo:
– Xin mời Phụ vương đến vào ngày thứ bảy kể từ hôm nay.
Cùng với những lời này, chim bảo vị cận thần ra về. Ông đi đến trình vua. Vào ngày thứ bảy, vua truyền đánh trống khắp kinh thành và đi đến nhà vương nhi của ngài đang ở. Vessantara tiếp đãi phụ vương vô cùng cung kính và tỏ ra hết lòng quý trọng ngay cả với các nô tỳ và gia nhân. Sau khi vua ngự yến tiệc tại nhà Vessantara và thọ hưởng mọi sự chiêu đãi trọng thể, ngài ra về cung thất của ngài. Sau đó, ngài truyền dựng một cái đình lớn trong sân chầu và truyền đánh trống khắp kinh thành báo tin. Ngài ngự vào ngôi đình nguy nga lộng lẫy được đông đảo quần thần vây quanh, rồi bảo một vị quan đưa Vessantara đến yết kiến ngài. Vị ấy đặt Vessantara lên một kim đôn, con chim đậu vào lòng phụ vương và chơi với ngài, sau đó bay qua đậu lên kim đôn ấy.
Rồi giữa quần thần, vua ngâm vần kệ đầu hỏi chim về phận sự của quân vương:
Cầu chúc con yêu được lạc an,
Với một vị vua mong trị nước,
Sống sao tốt đẹp nhất trần gian?
Vessantara không trả lời trực tiếp câu hỏi trên mà khiển trách vua cha về tính buông lung phóng dật và ngâm vần kệ thứ hai:
2. Kaṃsa, chúa tể xứ Kāsi,
Phóng dật buông lung đã lắm khi,
Thúc giục con, dù đầy nhiệt huyết,
Phải luôn tỏ nhiệt huyết tràn trề.
Chim khiển trách vua qua vần kệ này và bảo:
– Tâu Đại vương, một vị vua phải cai trị đất nước đúng pháp và tuân thủ ba chân lý.
Rồi chim ngâm các vần kệ nói về phận sự của quân vương:
3. Trước hết vị vua phải vứt đi,
Mọi điều giả dối, giận, khinh khi,
Phải làm những việc cần hành động,
Nếu chẳng làm xong sẽ lỗi thề.
4. Nếu trước kia đi lạc hướng tà,
Vì tham sân hướng dẫn đường vua,
Rõ ràng phải sống ăn năn tội,
Luyện tập để đừng phạm lỗi xưa.
5. Khi vua trị nước quá buông lung,
Đối với thanh danh, chẳng thật chân,
Mọi sự phồn vinh đều biến mất,
Chỉ còn ô nhục với hôn quân.
6. Thần nữ Cát Tường với Vận May,
Khi con hỏi, đã đáp như vầy:
“Chúng ta thích hạng người can đảm,
Nghị lực, thoát ly tật đố này.”
7. Rủi ro luôn phá hoại phồn vinh,
Thích những người làm các ác hành,
Những kẻ nhẫn tâm đầy độc ác,
Trong tâm ganh tị cứ dần sinh.
8. Thân thiết mọi người, tấu Đại vương,
Để cho mọi sự được an toàn,
Tránh xa vận rủi, song làm chỗ,
An trú vận may thật vững vàng.
9. Con người tốt số lại can trường,
Ngự trị Kāsi, chính phụ vương,
Tiêu diệt địch quân từ gốc ngọn,
Hiển nhiên sẽ đạt đại vinh quang.
10. Thiên chủ Sakka mãi ngắm trông,
Tấm lòng can đảm ở phàm nhân,
Vì ngài giữ vững lòng can đảm,
Nhận thức đó là chánh thiện lương.
11. Thát-bà, thiên chúng lẫn loài người,
Ca ngợi minh quân ấy hết lời,
Các bậc thần linh đều ủng hộ,
Tán dương nhiệt huyết lẫn anh tài.
12. Nỗ lực làm bao việc chánh chân,
Dù ai phỉ báng, chẳng buông lung,
Chuyên tâm tinh tấn làm điều thiện,
Phóng dật chẳng mong đạt phước phần.
13. Đây là phận sự của quân vương,
Dạy bảo phụ vương bước đúng đường,
Đủ đạt phước phần cho thiện hữu,
Hoặc mang sầu não đến cừu nhân.
Như thế, chim Vessantara đã khiển trách vua phóng dật trong mười một vần kệ, rồi ngâm mười một vần kệ nữa để giảng đạo lý, trả lời câu hỏi của vua với trí tuệ của một bậc Giác ngộ. Tâm quần chúng tràn đầy thích thú lẫn kinh ngạc chưa từng có và vô số tiếng reo tán thán vang dậy. Vua xúc động với niềm hân hoan liền hỏi quần thần phải làm gì cho vương tử vì đã nói như vậy. Họ đáp:
– Tâu Đại vương, vương tử phải được phong chức Đại tướng quân.
Ngài phán:
– Tốt lắm, trẫm ban cho vương tử chức Đại tướng.
Và ngài bổ nhiệm Vessantara vào chức vụ còn trống ấy. Từ đó về sau, ở địa vị này, vương tử thực hành mọi ước nguyện của phụ vương.
Đến đây chấm dứt chuyện về câu hỏi chim Vessantara.
***
Lại nữa, sau vài ngày, cũng như trước kia, vua gởi thông điệp đến Kuṇḍalinī và vào ngày thứ bảy, ngài ngự đến thăm chim con rồi trở về cung, ngự giữa ngôi đình và truyền đưa Kuṇḍalinī đến yết kiến ngài. Khi chim này đã đậu trên kim đôn, ngài ngâm vần kệ hỏi chim về phận sự của quân vương:
14. Kuṇḍalinī, ái điểu hoàng gia,
Con hãy đáp câu hỏi của cha,
Kẻ muốn lên ngôi vua trị nước,
Sống sao tốt nhất cõi người ta?
Khi vua cha hỏi chim về phận sự của quân vương như thế, chim con đáp:
– Tâu Phụ vương, con chắc Phụ vương muốn thử con vì nghĩ rằng: “Nữ nhi có thể bảo ta việc gì nào?” Vậy con xin đáp lời Phụ vương bằng cách đặt mọi phận sự của quân vương vào đúng hai phương châm.
Và chim ngâm các vần kệ sau:
15. Vấn đề được đặt, hỡi cha thân,
Trong cặp phương châm thật rõ ràng:
Gìn giữ những gì ta đã đạt,
Và thành đạt những gì chưa thành.
16. Quốc sư hãy chọn các Hiền nhân,
Thấy lợi ích vua thật rõ ràng,
Không gian dối và không phí phạm,
Thoát ly cờ bạc, rượu say nồng.
17. Người vậy hộ phòng vua chánh chân,
Nhiệt tình bảo vệ các kho tàng,
Như người điều ngự vương xa ấy,
Lèo lái giang sơn đến phú cường.
18. Luôn trị thần dân thật khéo khôn,
Giữ gìn đúng đắn các kho lương,
Đừng giao kẻ khác cho vay mượn,
Phải tự mình làm đúng kỷ cương.
19. Những ích lợi hay việc hại mình,
Đại vương phải biết thật phân minh,
Phải chê trách kẻ mang lầm lỗi,
Khen thưởng những người thật xứng danh.
20. Và chính bản thân, tấu Đại vương,
Dạy thần dân mọi nẻo hiền lương,
Kẻo e quốc độ cùng tài sản,
Phải hóa mồi quan lại ác gian.
21. Canh phòng hành động của vua quan,
Cẩn thận, đừng nên quá vội vàng,
Vì kẻ ngu làm không nghĩ ngợi,
Về sau chắc chắn sống ăn năn.
22. Ta chẳng bao giờ được hận sân,
Vì chứng sân hận vỡ tràn lan,
Liền đem nguy hại cho vua chúa,
Đánh bại bao người, gia tộc tan.
23. Phải biết chắc rằng bậc Đại vương,
Đừng đưa dân chúng bước sai đường,
E rằng tất cả người nam nữ,
Sa đọa vào trong biển khổ buồn.
24. Khi vua dứt bỏ mọi lo toan,
Dục lạc là nguồn sống bản thân,
Tài sản, kho tàng đều mất hết,
Chỉ còn ô nhục với hôn quân.
25. Đây là nhiệm vụ của quân vương,
Chỉ dạy Phụ vương bước đúng đường,
Thực hiện chuyên tâm, toàn thiện nghiệp,
Chống điều quá độ, thói hoang tàn,
Hộ phòng giới hạnh, vì lầm lỗi,
Luôn dẫn đến đau khổ, đoạn trường.
Như vậy, Kuṇḍalinī cũng dạy phận sự của quân vương trong mười một vần kệ. Vua thích thú hỏi quần thần:
– Phải ban thưởng gì cho ái nữ của trẫm vì đã nói như vậy?
– Tâu Đại vương, ban chức Thủ ngân khố.
Và vua chỉ định Kuṇḍalinī vào địa vị còn trống ấy. Từ đó, chim này giữ chức vụ trên và làm việc cho vua.
Đến đây chấm dứt chuyện về câu hỏi chim Kuṇḍalinī.
***
Sau chừng vài ngày, cũng như trước kia, vua truyền sứ giả đến gặp trí điểu Jambuka, rồi khi ngài đến viếng nhà con trai vào ngày thứ bảy, đã được chiêu đãi trọng thể tại đó, ngài trở về cung. Và cũng như trên, ngài ngự vào bảo tòa giữa cung đình, một vị cận thần đặt trí điểu Jambuka lên một kim đôn, rồi đội kim đôn trên đầu mình. Chim anh vũ thông thái ngồi trong lòng phụ vương, chơi với ngài rồi sau đó đậu trên kim đôn ấy. Khi đó, vua ngâm vần kệ hỏi chim:
26. Chúng ta đã hỏi đủ hoàng huynh,[3]
Và cả Kuṇḍalinī đẹp xinh,
Đến lượt Jambuka hãy nói,
Cho cha biết lực tối cao minh.
Như vậy, trong lúc đặt vấn đề với Bồ-tát, vua đã không hỏi theo cách vua đã hỏi hai chim kia mà hỏi theo một cách đặc biệt. Lúc ấy, con chim thông thái bảo ngài:
– Tốt lắm, tâu Phụ vương, xin hãy lắng nghe kỹ, con sẽ trình Phụ vương tất cả!
Rồi giống như một người đặt chiếc túi đựng một ngàn đồng tiền vào một bàn tay mở rộng, chim bắt đầu thuyết giảng phận sự của quân vương:
27. Năm loại lực này ở thế gian,
Làm cho người vĩ đại muôn phần,
Ở đây yếu nhất trong năm lực,
Được kể là từ lực của thân.
28. Lực từ của cải, kính thưa ngài,
Thì đó được xem lực thứ hai,
Còn lực thứ ba đề cập đến,
Là lời cố vấn, người khuyên hay.
29. Lực thứ tư thì chắc chắn rằng,
Xuất thân dòng tộc quý, cao sang,
Những người có trí vượt qua hết,
Tất cả mục tiêu ấy dễ dàng.
30. Lực tối ưu trong các lực này,
Khả năng trí tuệ chính là đây,
Nhờ vào tuệ lực mà người trí,
Hiểu biết điều lành, lợi ích ngay.
31. Ví thử quốc gia đại phú cường,
Rơi vào tay của một ngu nhân,
Một người khác sẽ dùng cường bạo,
Chiếm nước, gây bao nỗi oán hờn.
32. Dù quân vương quý tộc cao sang,
Phận sự chính là ngự trị dân,
Vua ấy quả là rất khó sống,
Nếu vua chứng tỏ trí ngu đần.
33. Trí tuệ xét xem các việc làm,
Làm cho danh vọng mãi tăng dần,
Người nào trí tuệ đầy thông thái,
Vẫn thấy vui dù gặp khổ buồn.
34. Không ai sống phóng dật buông lung,
Lại có thể nào đạt trí thông,
Nhưng phải theo lời khuyên bậc Trí,
Nếu không sẽ mãi mãi ngu đần.
35. Ai dậy sớm, luôn giữ đúng thời,
Chuyên tâm không mỏi mệt, vui tươi,
Làm bao phận sự đang mời gọi,
Chắc chắn thành công ở giữa đời.
36. Ai hướng tâm vào việc tổn thương,
Hoặc hành động với trí buông lung,
Việc gì kẻ ấy hòng theo đuổi,
Cũng chẳng thể nào đạt ước mong.
37. Song ai không mỏi mệt, chuyên cần,
Theo đuổi đường đời thật chánh chân,
Chắc chắn sẽ đạt thành trọn vẹn,
Bất kỳ công việc họ đang làm.
38. Hộ phòng, bảo vệ các kho tàng,
Là tạo nguồn tài lợi lớn dần,
Đây chính những điều con ước muốn,
Phụ vương hãy tạc dạ ghi lòng!
Vì do ác nghiệp, người ngu trí,
Cũng giống nhà lau sậy rỗng không,
Sụp đổ tan tành trong chốc lát,
Đằng sau để lại cảnh tiêu vong.
Như vậy, qua các vấn đề này, Bồ-tát vừa ca ngợi năm uy lực vừa tán dương uy lực của trí tuệ, như người dùng lời nói gõ vào mặt trăng, ngài khuyến giáo vua trong mười một vần kệ:
39. Với song thân, hỡi đấng Anh quân,
Phận sự thi hành thật chánh chân,
Như vậy sống theo đời chánh trực,
Đại vương sẽ đến cõi thiên đường.
40. Đại vương hỡi, đối vợ con thân,
Phận sự thi hành thật chánh chân,
Như vậy sống theo đời chánh trực,
Đại vương sẽ đến cõi thiên đường.
41. Đại vương đối bạn, người thân cận,
Phận sự thi hành thật chánh chân,
Như vậy sống theo đời chánh trực,
Đại vương sẽ đến cõi thiên đường.
42. Đại vương đối bộ binh, xa binh,
Phận sự thi hành thật chánh chân,
Như vậy sống theo đời chánh trực,
Đại vương sẽ đến cõi thiên đường.
43. Đại vương đối thị tứ, làng thôn,
Phận sự thi hành thật chánh chân,
Như vậy sống theo đời chánh trực,
Đại vương sẽ đến cõi thiên đường.
44. Đại vương đối đất nước, vùng biên,
Phận sự thi hành thật chánh chân,
Như vậy sống theo đời chánh trực,
Đại vương sẽ đến cõi thiên đường.
45. Đối Sa-môn với Bà-la-môn,
Phận sự thi hành thật chánh chân,
Như vậy sống theo đời chánh trực,
Đại vương sẽ đến cõi thiên đường.
46. Đối loài chim, thú, hỡi Quân vương,
Phận sự thi hành thật chánh chân,
Như vậy sống theo đời chánh trực,
Đại vương sẽ đến cõi thiên đường.
47. Thực hành chân pháp, hỡi Quân vương,
Mang lại quả lành, nhiều lạc an,
Như vậy sống theo đời chánh trực,
Đại vương sẽ đến cõi thiên đường.
48. Thực hành chân pháp, hỡi Quân vương,
Đế-thích, chư thiên và Phạm thiên,
Đạt cõi trời nhờ hành khéo léo,
Đại vương theo pháp, chớ khinh thường!
Sau khi ngâm mười vần kệ về nếp sống chân chánh, ngài lại ngâm vần kệ kết thúc để khuyến giáo vua thêm nữa:
49. Đây là phận sự của quân vương,
Dạy bảo Phụ vương bước đúng đường,
Theo bậc Trí làm người thiện hảo,
Hiểu điều chân lý thật hoàn toàn.[4]
Như vậy, Bồ-tát đã thuyết pháp với tất cả vẻ kỳ diệu của một bậc Giác ngộ, chẳng khác nào đem dải thiên hà từ trên trời xuống. Quần thần tỏ ra vô cùng kính trọng ngài và vô số tiếng hò reo tán thán vang dậy. Vua hân hoan hỏi các quốc sư:
– Làm sao để vương tử của trẫm, trí điểu Jambuka với chiếc mỏ như quả hồng đào tươi mát được phần thưởng vì đã nói như thế?
– Tâu Đại vương, xin ban chức Thống soái.
– Thế thì trẫm sẽ ban cho con trẫm chức vụ ấy.
Vua phán rồi chỉ định vương nhi vào chức vụ còn trống ấy. Từ đó về sau, ở địa vị thống soái, ngài thi hành các mệnh lệnh của phụ vương.
Cả ba chim con đều được tôn vinh trọng thể và cả ba đã khuyến giáo vua các vấn đề về thế sự và thánh sự. Vua an trú vào lời giáo giới của Bồ-tát, chuyên bố thí và làm các thiện sự khác nên được sinh lên thiên giới.
Sau khi cử hành tang lễ cho vua, quần thần nói với ba con chim con:
– Tâu Chúa công Jambuka, tiên vương đã ra lệnh giương chiếc lọng hoàng gia lên che cho Chúa công.
Bồ-tát đáp:
– Ta không cần vương quốc, các vị hãy chuyên tâm tỉnh giác lo việc trị nước!
Sau khi an trú quốc dân vào giới đức, ngài bảo:
– Hãy thực hành công lý!
Rồi ngài truyền đem cách xử án công bằng khắc vào một tấm bảng vàng và biến mất vào rừng. Lời giáo huấn của ngài tiếp tục có hiệu lực trong bốn mươi ngàn năm.
***
Bậc Đạo sư giảng pháp thoại này làm phương tiện giáo giới vua và nhận diện tiền thân:
– Thời ấy, vua là Ānanda (A-nan), Kuṇḍalinī là Uppalavaṇṇā (Liên Hoa Sắc), Vessantara là Sāriputta (Xá-lợi-phất) và chim Jambuka chính là Ta.
Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.
Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.