Viện Nghiên Cứu Phật Học

Tam tạng Thánh điển PGVN 07  » Kinh Tam tạng Thượng tọa bộ 07 »

Kinh Tiểu Bộ Quyển 3 
(Khuddaka Nikāya)
NGUYÊN TÂM - TRẦN PHƯƠNG LAN dịch

Mục Lục

§520. CHUYỆN VỊ THẦN CÂY TINDU (Gaṇḍhatindujātaka)[17] (J. V. 98)

Sự tỉnh giác là hướng Niết-bàn...

Câu chuyện này bậc Ðạo sư kể lại trong lúc trú tại Kỳ Viên về việc giáo hóa một ông vua. [Việc giáo hóa này được kể đầy đủ trong Chuyện khuyến dụ Quốc vương,[18] Chuyện ba con chim.[19]]

***

Ngày xưa tại quốc độ Kampilla, trong kinh thành Uttarapañcāla có vị vua danh hiệu Pañcāla, cai trị bất công vì theo ác đạo và phóng dật buông lung, bởi thế quần thần cũng trở nên bất công như nhà vua. Dân chúng bị thuế má nặng nề áp bức liền đem vợ con đi lang thang vào rừng như bầy dã thú.

Những vùng trước kia là làng mạc nay hoang vắng cả, dân chúng ban ngày thì sợ quân sĩ của nhà vua nên không dám ở trong nhà và lấy hàng rào gai bao bọc lại; khi trời mới tảng sáng, họ đã vào rừng. Ban ngày họ bị quân lính của vua tước đoạt của cải, còn ban đêm lại bị bọn cướp hoành hành.

Vào thời ấy, Bồ-tát xuất hiện trong thân hình một vị thần cây tindu ở ngoại thành, hằng năm nhận được phẩm vật cúng dường của nhà vua trị giá một ngàn đồng tiền, ngài nghĩ thầm: “Nhà vua thật buông lung phóng dật, quốc độ đang suy tàn, ngoài ta ra không ai có thể đưa vua trở về chánh đạo. Vua này là kẻ ban ơn cho ta, hằng năm lại dâng tặng ta phẩm vật một ngàn đồng tiền. Vậy ta sẽ giáo hóa cho vị vua này.” Thế là đang đêm tối, ngài vào hậu cung, đứng trên không ngay phía đầu vương sàng, phóng ra một luồng hào quang. Vua thấy ngài sáng chói như mặt trời mọc liền hỏi ngài là ai và từ đâu đến. Nghe vua hỏi, ngài đáp:

– Này Ðại vương, ta là thần cây cườm thị thơm (gandhatindu) đến đây khuyên nhủ ngài.

Vua hỏi:

– Ngài muốn khuyên trẫm điều gì?

Bậc Ðại sĩ đáp:

– Ðại vương buông lung việc trị nước, cả quốc độ đang điêu tàn như thể làm mồi cho bọn quần thần tay sai. Vua chúa buông lơi việc trị nước không thể nào làm chủ vận mệnh quốc gia được. Ngay trong đời này, chính họ sẽ bị suy tàn và đời sau phải tái sanh vào địa ngục. Một khi vua chúa buông lơi việc cai trị, quần thần bên ngoài lẫn bên trong quốc độ buông lơi theo cả, vì thế nhà vua phải hết sức lo trị nước.

Nói xong, ngài ngâm các vần kệ ghi lại một bài học đạo đức:

332. Sự tỉnh giác là hướng Niết-bàn,

Buông lung thường dẫn đến vong thân,

Những người tỉnh giác không hề chết,

Phóng dật khác nào đã mạng vong.

333. Sự mê đắm tạo ra buông lung,

Phóng dật sinh hư hỏng, mạng vong,

Hư hỏng tác thành ra ác nghiệp,

Ðoạn trừ mê đắm, hỡi Anh quân!

334. Người hùng phóng dật biết bao phen,

Bị tước giang sơn lẫn bạc tiền,

Ðiền chủ trở thành người thất lạc,

Chủ nhà, nhà mất khổ triền miên.

335. Khi vua buông lỏng việc kinh bang,

Không đúng theo danh nghĩa, tiếng vang,

Ví thử bạc vàng đều biến mất,

Chỉ còn ô nhục với ông hoàng.

336. Buông lung lâu quá, hỡi Quân vương!

Từ chánh, ngài đi lạc bước đường,

Quốc độ phồn vinh ngày trước ấy,

Nay làm mồi bọn cướp tan hoang.

337. Hoàng nam chẳng hưởng được giang san,

Vàng bạc, lúa ngô, viện bảo tàng,

Quốc độ làm mồi cho kẻ ác,

Ngài còn bị tước cảnh vinh quang.

338. Ông hoàng bị tước đoạt giang san,

Với các kho châu báu, bạc vàng,

Chẳng được niềm tin yêu thuở trước,

Của thân bằng quyến thuộc, lân bang.

339. Quản tượng, mã, xa, với bộ binh,

Bốn quân lúc trước thật hùng anh,

Khi nhìn vua phải tiêu cơ nghiệp,

Cũng chẳng còn vị nể, kính danh.

340. Ngu xuẩn sống đời chẳng kỷ cương,

Bị lời tà dụ dỗ sai đường,

Người ngu chóng mất vinh quang cũ,

Như rắn phải quăng lớp vỏ tàn.

341. Song kẻ nào thức dậy đúng thời,

Không hề mỏi mệt, kỷ cương noi,

Cả đàn gia súc đều tăng trưởng,

Tài sản người kia lớn mãi hoài.

342. Ðại đế, xin ngài mở rộng tai,

Lắng nghe dân chúng nói bao lời,

Nhờ nghe nhìn được điều chân lý,

Thành đạt đường theo phước nghiệp ngài.

Như vậy, bậc Ðại sĩ đã giáo hóa vua qua mười một vần kệ rồi bảo:

– Ðại vương hãy đi nuôi dưỡng quốc độ, đừng chậm trễ, chớ để đất nước suy tàn!

Nói xong, ngài trở lại cõi của ngài. Vua nghe các lời khuyên ấy vô cùng cảm kích, ngay hôm sau, ngài liền giao việc nước cho các vị đại thần và cùng với vị tế sư của hoàng gia rời kinh thành bằng Đông môn và đi được một khoảng chừng vài trăm mét. Nhằm lúc ấy có một ông lão vốn là dân làng, lấy những cành cây gai trong rừng về đặt quanh nhà, sát cửa lớn rồi cùng vợ con vào rừng. Buổi chiều, khi quân lính của vua đã bỏ đi, người ấy trở về nhà đến gần cửa, bị đầu gai nhọn đâm vào chân, lão ngồi vắt chân lên, vừa rút gai ra vừa nguyền rủa vua qua vần kệ:

343. Mong tên trúng ở chiến trường,

Cho Pañcāla thọ thương khóc thầm,

Như ta nay bị gai đâm,

Đớn đau phải chịu nơi thân của mình.

Lời nguyền rủa vua này phát ra nhờ thần lực của Bồ-tát, lão già nguyền rủa vua như thể một người được Bồ-tát nhập vào, hành động này của lão phải được hiểu như vậy. Vào lúc đó, vua cùng vị tế sư của ngài đang cải trang đứng trước mặt lão. Vị tế sư nghe như vậy liền đáp kệ:

344. Tôn ông nay tuổi đã già,

Và đôi mắt đã yếu nhòa, cho nên,

Chẳng công bằng để xét xem,

Chính ta đáng bị rủa nguyền đó sao?

Chúa Brahmadatta biết thế nào,

Khi chân ông bị gai cào đâm da?

Nghe lời này, ông lão ngâm ba vần kệ:

345. Hiển nhiên vì Chúa Brahmadatta,

Cho nên mới khổ thân ta thế này,

Như dân cô thế thường hay,

Chịu phần thuế nặng đọa đày tấm thân.

346. Ban đêm bị trộm ăn phần,

Ban ngày gặp lũ thuế nhân thu tiền,

Ác nhân đầy rẫy toàn miền,

Khi tên bạo chúa nắm quyền trong tay.

347. Khổ đau vì sợ nỗi này,

Dân lành đành phải chạy bay vào rừng,

Chung quanh nhà, rải lung tung

Ðám gai để được yên thân phận mình.

Nghe nói vậy, vua bảo vị tế sư:

– Này Sư trưởng, lão già này nói đúng lắm, đó là lỗi của ta. Vậy ta hãy trở về cai trị nước cho đúng pháp!

Lúc ấy, Bồ-tát nhập vào thân của vị tế sư, đứng trước mặt vua bảo:

– Tâu Ðại vương, ta hãy xem xét vấn đề này cho kỹ!

Rồi từ làng ấy qua một làng khác, hai vị lại nghe lời của một bà già. Nghe nói bà này nghèo khổ, có hai con gái đã lớn mà bà không muốn cho hai con vào rừng. Nhưng chính bà phải tìm củi, lá khô về cung cấp cho hai con. Một ngày kia, bà lão trèo lên cây lượm lá, bị té lăn tròn xuống đất liền nguyền rủa vua phải chết đi và ngâm vần kệ này:

348. Khi nào vua ấy chết đi,

Chao ôi, còn chúa trị vì non sông?

Các con lẻ bóng phòng không,

Thở than mong kiếm tấm chồng hoài hơi.

Vị tế sư ngâm vần kệ ngăn lời bà lão:

349. Nói lời xấu bậy, bà ơi!

Không thông chữ nghĩa, kêu trời gào la,

Làm sao vua kiếm đâu ra,

Mỗi chồng cho mỗi gái tơ hỡi bà?

Bà già nghe nói, đáp lại hai vần kệ:

350. Lời ta chẳng phải ác ngôn,

Ta đây chữ nghĩa cũng thông, thưa ngài,

Khi còn thất thế dân đen,

Chịu phần thuế nặng bao phen chết người.

351. Ðêm nằm cho trộm làm mồi,

Ban ngày lũ thuế nhân xơi mất phần,

Ác nhân đầy rẫy non sông,

Khi quyền cai trị hôn quân nắm hoài,

Thời suy, khó dưỡng vợ thay,

Nên con gái lớn tìm ai làm chồng?

Nghe bà lão nói, cả hai vị đều nghĩ: “Bà lão này nói đúng vấn đề đây!”

Rồi hai vị đi xa hơn một quãng đường, lại nghe một gã nông dân nói chuyện. Trong lúc gã cày ruộng, con bò của gã tên gọi Sāliya ngã lăn ra vì bị lưỡi cày đụng phải, gã chủ bò liền nguyền rủa vua qua vần kệ:

352. Cầu Pañcāla ngã lăn,

Trúng nhằm mũi giáo của quân thù hằn,

Như Sāliya ngã xuống đường,

Thương thay, cày đụng bị thương nằm đờ!

Vị tế sư liền ngâm vần kệ chặn gã lại:

353. Ngươi hờn Brahmadatta,

Song ai có thấy đâu là nguyên do?

Chính ngươi phỉ báng đức vua,

Trong khi tội ấy đều là của ngươi.

Nghe thế, gã nông phu đáp ba vần kệ:

354. Vì vua, ta cứ giận sôi,

Nên ta cương quyết giữ lời thẳng ngay,

Dân đen thất thế như vầy,

Bị tàn hại bởi thuế dày khắp nơi.

355. Ðêm nằm cho trộm làm mồi,

Ban ngày lũ thuế nhân xơi mất phần.

Toàn miền đầy rẫy ác nhân,

Khi tên bạo chúa trị dân ngang tàng.

356. Gia nô phải nấu hai lần,

Rồi mang cơm nước muộn màng cho ta,

Lúc ta nôn nóng chờ nhà,

Bò ta bị đụng ắt là mạng toi.

Đi xa hơn một đoạn nữa, hai vị vào một làng kia. Sáng sớm hôm sau, một con bò trở chứng đá người vắt sữa ngã nhào, sữa đổ tung tóe. Người này liền ngâm vần kệ nguyền rủa Vua Brahmadatta:

357. Cầu Pañcāla ngã lăn,

Vì do một mũi kiếm đâm trận tiền,

Như ta, bò đá lăn chiêng,

Ðá luôn thùng sữa đổ liền hôm nay.

Vị tế sư ngâm vần kệ đáp:

358. Này, bò đá gậy thúc dai,

Hay là thùng sữa của ngài đổ ra,

Việc gì đến Chúa Brahmadatta,

Khiến ngài chịu mọi gièm pha thế này?

Nghe vậy, người vắt sữa bò ngâm ba vần kệ đáp:

359. Pañcāla đáng trách thay,

Vì nền cai trị, thưa ngài La-môn,

Dân lành cô thế thấy luôn,

Bị tàn bởi thuế nặng thân rã rời.

360. Ban đêm bị trộm rình mồi,

Ban ngày lũ thuế nhân xơi mất phần.

Toàn miền đầy rẫy ác nhân,

Khi tên bạo chúa trị dân ngang tàng.

361. Hung hăng là thứ bò rừng,

Việc đem vắt sữa, chưa từng trước đây,

Ta đành vắt sữa hôm nay,

Vì nhu cầu sữa mỗi ngày một tăng.

Hai vị bảo nhau:

– Gã này nói đúng đấy.

Rồi từ làng ấy, hai vị đi ra đường cái tiến về kinh thành. Trong một làng nọ, có gã thu thuế giết một con bê con có đốm rồi lột da để làm bao da bọc kiếm, khiến bò mẹ quá buồn khổ vì mất con thơ, bỏ cả ăn cỏ uống nước, chỉ lang thang kêu khóc. Thấy vậy, trẻ con trong làng nguyền rủa vua:

362. Cầu Pañcāla héo mòn,

Hoài công than khóc mất con như vầy,

Bò kia quẩn trí thương thay,

Ði tìm bê nhỏ, chạy hoài loanh quanh.

Vị tế sư liền ngâm vần kệ khác:

363. Khi bò trâu phải lạc đàn,

Trước người chăn giữ, lang thang kêu gào,

Vậy thì duyên cớ làm sao,

Khiến ngươi chê trách nhằm vào vua ta?

Lũ trẻ đáp lại hai vần kệ sau:

364. Tội tình Brahmadatta,

Việc này con thấy rõ ra rành rành,

Bơ vơ khốn đốn dân lành,

Vẫn thường bị thuế nặng hành khổ thôi.

365. Ban đêm bị trộm rình mồi,

Ban ngày lũ thuế nhân xơi mất phần,

Ác nhân đầy rẫy non sông,

Khi quyền cai trị hôn quân nắm tròn,

Cớ sao bê hãy còn non,

Phải đem giết bỏ, chỉ cần bao da?

– Các ngươi nói đúng đấy.

Hai vị nói xong liền ra đi. Trên đường, họ thấy trong một hồ nước khô cạn, bầy quạ đang lấy mỏ bắt ếch nhái ăn thịt. Khi hai vị đến nơi, Bồ-tát vận dụng thần lực [nguyền rủa vua] qua miệng con nhái:

366. Cầu Brahmadatta chết chùm,

Cùng các con cháu ở trong chiến trường,

Như ta nhái bén rừng hoang,

Làm mồi cho lũ quạ làng hôm nay.

Nghe vậy, vị tế sư ngâm vần kệ nói chuyện với con nhái:

367. Nhái này, cần biết rõ ràng,

Ðại vương không thể bảo toàn chúng sanh,

Việc này vua chẳng tội tình,

Khi bầy quạ đớp em anh nhà mày.

Nghe vậy, nhái đáp lại hai vần kệ:

368. Tế sư lời nịnh khéo thay,

Phỉnh lừa vua chúa như vầy ác gian,

Mặc cho dân bị sát tàn,

Nhà vua cứ tưởng lối đàng quốc sư,

Quả là đệ nhất tài ba,

Giá như có phúc mọi nhà phồn vinh.

369. Nước này an lạc, thái bình,

Quạ kia được hưởng phần mình cực sang,

Có đâu cần phải giết càn,

Các loài nhỏ mọn như đàn ễnh ương?

Nghe vậy, vua và vị tế sư đều nghĩ thầm: “Tất cả mọi loài, ngay cả nhái rừng đều nguyền rủa ta.” Vì thế, khi về thành, hai vị lo cai trị nước thật đúng pháp và hành trì theo lời thuyết giảng của bậc Ðại sĩ. Hai vị chuyên tâm bố thí và làm các thiện sự khác.

***

Ðến đây, bậc Ðạo sư chấm dứt pháp thoại với vua xứ Kosala bằng các lời này:

– Này Đại vương, một vị vua phải dứt bỏ các ác đạo và cai trị đúng pháp.

Rồi Ngài nhận diện tiền thân:

– Vào thời ấy, vị thần cây tindu chính là Ta.

  1. Xem Mv. I. 24.

  2. Xem Kv. 1, Puggalakathā (Vấn đề hiện hữu của một thực ngã).

  3. Xem Dh. v. 146.

  4. Xem Cp. 90, Alīnasattacariya (Hạnh của đức Bồ-tát Alīnasatta).

  5. Xem J. VI. 69, Sāmajātaka (Chuyện hiếu tử Sāma), số §540.

  6. Bản CST viết Kapila.

  7. Tham chiếu: J. II. 198, Kāsāvajātaka (Chuyện tấm y vàng), số §221; Dh. v. 9-10; Miln. 221, Chaddantajotipālārabbhapañha (Câu hỏi về Chaddanta và Jotipālā); Thag. v. 949-80, Phussattheragāthā (Kệ ngôn của Trưởng lão Phussa); Pháp cú kinh “Song yếu phẩm” 法句經雙要品 (T.04. 0210.9. 0562a11); Xuất diệu kinh “Song yếu phẩm” 出曜經雙要品 (T.04. 0212.30. 0747c06); Pháp tập yếu tụng kinh “Tương ưng phẩm” 法集要頌經相應品 (T.04. 0213.29. 0792c29).

  8. 120 cubit tức hơn 50m.

  9. 88 cubit tức gần 40m.

  10. Xem A. III. 32, Sumanasutta (Kinh Sumana); Ap. I. 14, Sāriputtattheraapadāna (Ký sự về Trưởng lão Sāriputta).

  11. Xem J. VI. 330, Mahāummaggajātaka (Chuyện đường hầm vĩ đại). Chuyện này trong bản PTS là số 546. Bản Tích Lan viết Ummaggajātaka, số 546. Bản CST viết Umaṅgajātaka, số 542. Bản Thái Lan và Campuchia viết Mahosadhajātaka, số 542.

  12. Tham chiếu: Dh. v. 337; Thag. v. 339; Pháp cú kinh “Ái dục phẩm” 法句經愛欲品 (T.04. 0210.32. 0570c16); Xuất diệu kinh “Ái phẩm” 出曜經愛品 (T.04. 0212.3. 0632b21).

  13. 1 cubit = 45cm.

  14. Xem J. VI. 330, Mahāummaggajātaka (Chuyện đường hầm vĩ đại). Chuyện này trong bản PTS là số 546. Bản Tích Lan viết Ummaggajātaka, số 546. Bản CST viết Umaṅgajātaka, số 542. Bản Thái Lan và Campuchia viết Mahosadhajātaka, số 542.

  15. 1 sải = 1m82.

  16. Xem J. III. 406, Kummāsapiṇḍajātaka (Chuyện phần cháo sữa chua), số §415.

  17. Tham chiếu: Dh. v. 21; Pháp cú kinh “Phóng dật phẩm” 法句經放逸品 (T.04. 0210.10. 0562b19); Xuất diệu kinh “Phóng dật phẩm” 出曜經放逸品 (T.04. 0212.5. 0641c17); Pháp tập yếu tụng kinh, “Phóng dật phẩm” 法集要頌放逸品 (T.04. 0213.4. 0779a01).

  18. Xem J. III. 110, Rājovādajātaka (Chuyện khuyến dụ Quốc vương), số §334.

  19. Xem J. V. 100, Tesakuṇajātaka (Chuyện ba con chim) số §521.

Tác quyền © 2024 Hội đồng quản trị VNCPHVN.

Chúng tôi khuyến khích các hình thức truyền bá theo tinh thần phi vụ lợi với điều kiện: không được thay đổi nội dung và phải ghi rõ xuất xứ của trang web này.